Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tìm hiểu tư tưởng đạo đức chính trị của nho gia và ảnh hưởng của nó đối với hệ tư tưởng việt nam thời kỳ phong kiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.89 KB, 21 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nói đến nền văn minh cổ đại Trung Quốc thì quả là rộng lớn
biết bao hệ t tởng xuất hiện và tồn tại mãi cho đến ngày nay. Từ
thuyết âm dơng ngũ hành, học thuyết của Lão Tử, Khổng Tử Thế
nhng trong các học thuyết ấy, không ai có thể chối cãi đ ợc rằng học
thuyết Nho gia, mà ngời khởi xớng là Khổng Tử có vị trí quan trọng
hơn hết trong lịch sử phát triển của Trung Quốc nói chung và các n ớc
Đông Nam á nói riêng. Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ tr ớc công
nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán Vũ Đế) Nho giáo đã chính thức
trở thành hệ t tởng độc tôn và luôn luôn giữ vị trí đó cho đến ngày
cuối cùng của chế độ phong kiến. Điều đó đã minh chứng rõ rằng;
Nho giáo hẳn phải có những giá trị tích cực đặc biệt, nếu không sao
nó có thể có sức sống mạnh mẽ đến nh vậy.
Đại cách mạng văn hoá, Trung Quốc đã tiến hành loại trừ di
sản Nho gia ra khỏi đời sống tinh thần xã hội, song lịch sử cho thấy,
đó là một sai lầm nghiêm trọng. Gần đây, Trung Quốc đã đánh giá
lại giá trị văn hoá xã hội to lớn của Nho gia. Giới khoa học ph ơng
Đông và cả phơng Tây đều quan tâm nghiên cứu. Nhiều cuộc hội
thảo mang tính quốc tế đợc tổ chức, nhiều sách báo xuất bản để bàn
về Nho giáo.
Đối với nớc ta đã chịu ảnh hởng của Nho gia khá sớm, có lúc
giai cấp phong kiến nớc ta đã lấy hệ t tởng thống trị xã hội. Mặc dù
có nhiều mặt hạn chế, song có thể nói có nhiều t tởng của Nho gia đã
trở thành di sản văn hoá của dân tộc ta.
Nho gia là một học thuyết triết học chính trị xã hội, tôn giáo
lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc và một số quốc gia khác. Từ thế
kỷ 2 trớc công nguyên đến 1911, Nho gia đợc giai cấp phong kiến
lấy làm hệ t tởng thống trị xã hội phong kiến Trung Quốc và một số
nớc phơng Đông trong đó có Việt Nam. Đây là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn trong lịch sử cũng nh trong xã hội


hiện đại. Chính vì lẽ đó mà tôi mạnh dạn chọn đề tài: Tìm hiểu t tởng đạo đức chính trị của Nho gia và ảnh h ởng của nó đối với hệ
t tởng Việt Nam thời kỳ phong kiến nhng do tài liệu cha đợc
phong phú, sự hiểu biết và đánh giá còn hạn chế, rất mong sự đóng
góp ý kiến của thầy và các bạn.
2. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tợng phạm vi nghiên cứu của đề tài: tìm hiểu t tởng đạo
đức chính trị của Nho gia và ảnh hởng của nó đối với hệ t tởng Việt
Nam thời kỳ phong kiến từ góc độ chủ nghĩa duy vật biện chứng và
1


chủ nghĩa duy vật lịch sử. ở đây, khái niệm Nho giáo là hình thái
ý thức của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến ở Trung Quốc.
Đối với nó thì ngũ luân, ngũ thờng, hay tam cơng ngũ thờng là
những cái tuyệt đối
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
i đề tài nhằm làm rõ t tởng đạo đức chính trị của Nho gia và
ảnh hởng của nó đối với hệ t tởng Việt Nam thời kỳ phong kiến.
Nhiệm vụ: để đạt đợc mục đích trên đề tài thực hiện hai nhiệm
vụ chủ yếu:
a. Vạch ra những nội dung cơ bản về t tởng đạo đức chính trị
của Nho gia.
b. Làm rõ những nội dung cơ bản của nó đối với hệ t tởng Việt
Nam thời kỳ phong kiến.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
Nho giáo, Đại cơng triết học Trung Quốc, Khổng Tử, Đại c ơng lịch
sử t tởng triết học Việt Nam, sự phát triển của t tởng ở Việt Nam là
cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu và thực hiện đề tài này, đề tài sử
dụng các phơng pháp phân tích, tổng hợp, trừu tợng cụ thể, gắn lí

luận với thực tiễn.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
có 2 chơng với 6 tiểu mục.

2


Nội dung
Chơng 1:

T tởng đạo đức chính trị của Nho gia
1.1. Khái quát đặc điểm lịch sử xã hội Trung Quốc thời
Xuân Thu Chiến Quốc.
Sự phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc cổ đại cũng là lúc
xã hội Trung Quốc bớc vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, thời kỳ tan
rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên.
* Kinh tế: Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc đang
chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Việc dùng bò kéo
cày đã trở thành phổ biến. Trong sách Quốc ngữ có viết: Đồng Thau
để đúc kiêm kích, sắt để đúc quả cân phát minh mới về kỹ thuật
khai thác và sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ mới trong việc
cải tiến công cụ và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất đai
canh tác nhờ đó đợc mở rộng, kỹ thuật trồng trọt đợc cải tiến. Mặt
khác nhờ công cụ sản xuất bằng sắt phát triển và thuỷ lợi mở mang,
ruộng đất do nông nô vỡ hoang biến thành ruộng t ngày một nhiều
bọn quý tộc có quyền thế cũng chiếm dần ruộng của công xã làm
ruộng t. Chế độ tỉnh điền ruộng đất của công xã dần tan rã. Sau đó,
chế độ t hữu ruộng đất còn đợc pháp luật Nhà nớc thừa nhận và bảo
vệ.

Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến cùng với
việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động sự phân công trong
sản xuất thủ công nghiệp cũng đạt tới mức chuyên nghiệp cao hơn.
Trong sách Chu Lễ đã viết về sự phát triển của các ngành thợ chuyên
môn rằng: Thợ mộc chiếm bảy phần, thợ nhuộm chiếm năm phần,
thợ nề chiếm hai phần.
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thơng nghiệp
cũng phát đạt hơn trớc. Trong xã hội hình thành tầng lớp thơng nhân
giàu có và ngày càng có thế lực nh Huyền Cao nớc Trịnh, Tử Cống
vốn là học trò của Khổng Tử. Thơng nhân đã có nhiều ngời kết giao
với Ch hầu và Công Khanh đại phu gây nhiều ảnh hởng đối với chính
trị đơng thời.
* Về chính trị xã hội, nếu nh thời Tây Chu chế độ Tông pháp
phong hầu kiến địa vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý
nghĩa về chính trị, ràng buộc về huyết thống có tác dụng tích cực
3


làm cho nhà Chu giữ đợc một thời gian dài hng thịnh thì đến đời
Xuân Thu chế độ Tông pháp của nhà Chu không còn đ ợc tôn trọng
đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự giữa thiên tử và
các nớc Ch hầu ngày càng lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa. Nhiều
nớc ch hầu mợn tiếng khôi phục lại địa vị của Tông chủ của nhà Chu,
đề ra khẩu hiệu: Tôn Vơng bài Di đua nhau động binh để mở rộng
thế lực và đất đai. Thời Xuân Thu có khoảng 242 năm đã xảy ra 483
cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Trongthời Xuân Thu ngoài các cuộc chiến
tranh thờng xuyên giữa các nớc, trong từng nớc cũng luôn xảy ra
cuộc chiến tranh giành đất đai, địa vị, quyền thế giữa bọn quý tộc
với nhau. ở nớc Tấn năm 403 trớc công nguyên có ba dòng họ lớn là
Hàn, Triệu, Ngụy đã nổi lên phế bỏ vua Tấn dựng lên ba n ớc Hàn,

Triệu, Ngụy. Khi đó Trung Quốc bớc vào thời kỳ Chiến Quốc.
Thời Chiến Quốc đã có bớc mạnh mẽ về kinh tế. Nghề luyện
sắt đạt tới trình độ khá cao, hình thành trung tâm luyện sắt nh Hàm
Đan nớc Triệu, Đờng Khê nớc Hàn, Lâm Truy nớc Tề Tiền tệ bằng
kim loại ra đời. Thơng nghiệp và các Trung tâm buôn bán trao đổi
hàng hoá hng thịnh. Đô Thành các nớc và một số Thành ấp lập nên
những tục lộ giao thông trọng yếu đã biến thành những thành đô sầm
uất nh Hàm Dơng nớc Tần, Thọ Xuân nớc Sở Tuy nhiên chiến tranh
tàn khốc trên qui mô lớn và liên tục giữa các n ớc Ch hầu đã làm cho
đời sống nhân dân lao động ngày càng cùng cực hơn. Mạnh Tử đã
viết: Đánh nhau tranh thành, giết ngời thây chết đầy thành; Đánh
nhau giành đất, giết ngời thây chết đầy đồng (Mạnh Tử, Ly Lâu thợng).
Nh vậy, thời Xuân Thu ngời ta gọi cục diện ngũ bá (5 nớc lớn
tranh giành nhau quyền bá chủ: Tề, Tần, Tấn Sở, Tống sang thời
Chiến Quốc thêm hai nớc Ngô, Việt). Trong xã hội tầng lớp địa chủ
có t hữu tài sản, có địa vị kinh tế xã hội (hiển tộc) họ là những con
ngời do tài năng, sản xuất kinh doanh mà giàu có nh ng không có
quyền, họ chỉ có địa vị kinh tế, cha tham gia chính quyền. Họ mâu
thuẫn giai cấp đại quí tộc, thị tộc nhà Chu đang cầm quyền, mâu
thuẫn lớp quí tộc nhà Chu đang chuyển sang giai tầng mới với lớp
quí tộc bảo thủ của nhà Chu.Mâu thuẫn quí tộc nhỏ với tầng lớp mới
lên và giai cấp đại quí tộc thị tội đang nắm quyền. Mâu thuẫn tầng
lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thơng nhân với giai cấp quí tộc, thị
4


tộc nhà Chu luôn luôn giữ xã hội ở trạng thái thống trị kiểu nhà Chu.
Mâu thuẫn nông dân các công xã thuộc các tội bị nhà Chu nô dịch
với nhà chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột tận dụng sức lao
động của họ. Những mâu thuẫn này cần giải quyết đó là điều kiện

khách quan thúc đẩy học thuyết triết học của Khổng Tử ra đời.
* Khoa học, văn hoá, t tởng.
Về thiên văn học: Vào thế kỷ IV trớc công nguyên nhà thiên
văn Trung Hoa là Thạch Thân đã sáng tạo ra bản tổng mục về các vế
sao bao gồm 800 tinh tú.
Trên lĩnh vực y học vào thời Chiến Quốc những tri thức y học
Trung Quốc cổ đại đã kinh qua kinh nghiệm thực tiễn phong phú và
lâu dài và đợc tổng kết trong các cuốn sách y học hết sức quý báu
nh Hoàng Đế Nội Kinh. Thần Nông bổn Thảo Kinh
Về toán học: Ngời Trung Quốc cổ đại củng cố đã đạt đợc một
trình độ khá cao. Ngay vào thời Chiến Quốc các nhà bác học Trung
Hoa đã biét rằng trong một tam giác vuông, bình ph ơng của cạnh
huyền bằng tổng bình phơng của hai cạnh góc vuông.
Về nông học và sinh vật học đều ghi chép trong kinh thi một
trong tuyển tập thi ca gồm 305 bài, đợc sáng tác trong khoảng thời
gian 500 năm từ thời Tây Chu đến thời Xuân Thu, là một trong
những cuốn sách cổ nhất của Trung Quốc đã nói tới hơn 200 bài thảo
mộc, chứng tỏ sự phong phú của tri thức về sinh vật học của ng ời
Trung Quốc cổ xa.
Về văn học: Thời Tần đã để lại nhiều tác phẩm văn học nổi tiến
nh Kinh Thi, Sở Từ.
Về sử học, Thời cổ đại ngời Trung Quốc đã sáng tạo ra nhiều
bộ sử có giá trị. Xuân Thu là bộ biên niên sử vào hạng xa nhất thế
giới, phản ánh sinh động tình hình xã hội loạn lạc từ thời Xuân Thu
qua thời Chiến Quốc.
1.2. Những giai đoạn phát triển của trờng phái Nho gia.
Trờng phái Nho xuất hiện thể kỷ VI trớc công nguêyn,quá trình
phát triển của trờng phái Nho gia theo lịch sử Trung Quốc, dựa vào
lịch sử Trung Quốc ngời ta chia các giai đoạn Nho khác nhau:
Nho Nguyên Thuỷ

Hán Nho
Tống Nho
5


Nho Minh Thanh
* Nho Nguyên Thuỷ: đợc tính từ khi xuất hiện đến năm 224 trớc công nguyên (giai đoạn đầu tiên). Tiêu biểu là các doanh nho,
Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử nhng nổi trội nhất là Khổng Tử vói
thuyết nhâ định thắng thiên, học thuyết lễ dùng nhân trị. Đặc biệt
ông muốn tạo ra bớc ngoặt trong cai trị, những ngời đó có đủ khả
năng giải quyết đợc những yêu cầu của xã hội, những ngời đó là
những ngời có năng lực, tri thức để giải quyết vấn đề đó. Sau này ng ời ta gọi ông là vạn thế sự (thầy muôn đời).
Mạnh Tử: duy tâm hơn Khổng Tử Tất cả có ở trong ta ta
muốn biết chỉ cần thành tâm, thành tâm hiểu đợc vũ trụ. Ông quan
niệm bản chất con ngời là thiện Nhân tri sơ tính bản thiện. Nhân,
lễ, nghĩa, trí tín có sẵn trong con ng ời. Mạnh Tử tiến bộ hơn Khổng
Tử. Ông nêu ra quan điểm xây dựng nền chính trị hợp lòng dân.
Trong t tởng Mạnh Tử ít nhiều đề cập đến vai trò kinh tế vật chất,
thực hiện t tởng hằng sản để hằng tâm (tạo ra tài sản nhỏ để ng ời ta
yên tâm).
Tuân Tử ở giai đoạn vua Triệu. Ông là ng ời theo học thuyết của
Khổng Tử đề cao nhân, nghĩa, lễ nhạc, chủ trơng chủ nghĩa chính
danh trọng vơng kinh bá, nhng lại tơng phản với t tởng của Khổng
Tử và Mạnh Tử cả về thế giới quan lẫn triết học chính trị xã hội.
T tởng của Tuân Tử vừa dùng nhân trị và pháp trị. Khi nói về con ng ời quan điểm của Tuân Tử ngợc với quan điểm của Mạnh Tử cho
rằng: bản chất con ngời là ác Nhân tri sơ tính bản ác. Ông cho
rằng con ngời hám lợi nên phải dùng pháp để trị.
Đây là giai đoạn đầu tiên quan điểm của Nho mang tính nhân
đạo còn mềm mại, uyển chuyển:
Khổng Tử khi nói quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ nh : quân

quân thần thần (vua ra vua tôi ra tôi).
Phụ phụ tử tử (cha ra cha con ra con).
Phu phu phụ phụ (chồng ra chồng vợ ra vợ).
Tam cơng ngũ thờng (vua tôi, vợ chồng, cha con).
* Hán Nho (Nho thời kỳ nhà Hán).
Sau 15 năm thời kỳ nhà Tần đến thời kỳ nhà Hán, L u Bang tiêu
diệt nhà Tần. Thời kỳ nhà Tần nho giáo bị cấm đoán nhng sang thời
kỳ nhà Hán, Nho đợc trọng dụng vì sang thời kỳ nhà Hán ở Trung
6


Quốc bắt đầu yêu cầu xây dựng hệ t tởng xã hội mới đó là xã hội
phong kiến, xây dựng Nhà nớc chuyên chế kiểu phơng Đông, Nhà nớc phong kiến tập quyền nên nhà Hán chủ tr ơng khôi phục Nho. Ngời có công khôi phục là Đổng Trọng Th. Đổng Trọng Th tôn giáo hoá
Nho biến Nho trở thành giáo lý của một tôn giáo. Quan điểm Nho
Nguyên Thuỷ bị Đổng Trọng Th làm cốt hoá, chết cứng cho nên Nho
thời kỳ nhà Hán rất khắc nghiệt tạo nên một thứ ngu trung, ngu hiếu.
Đồng thời nó xây dựng nên cơ sở lý luận cho một hệ t tởng phong
kiến khá nghiệt nghã, nó sử dụng thuyết âm dơng áp dụng trong xã
hội. Quan niệm thế lực cai trị đứng hành kim, kim thắng mộc thế lực
cai trị nhà nớc thắng nhân dân tạo ra cơ sở lý luận bênh vực cho xã
hội, coi thờng phụ nữ.
* Tống Nho: Nho giáo ảnh hởng của t tởng phật giáo và đạo
giáo, đến thời kỳ Tống Nho duy tâm hơn và nhân đạo hơn (nhân sinh
quan phật giáo là duy tâm) nguyên nhân của cái khó là vô minh. đạo
giáo mang t tởng duy vật ẩn chứa ở trong đó sự khó hiểu do đó đạo
giáo trở thành tôn giáo thần bí, huyền ảo cho nên Nho giáo có sự sâu
sắc và thần bí tạo nên phong cách mới cho Nho thời Tống.
* Nho Minh Thanh: Nho bắt đầu bị suy thoái, văn hoá phơng
Tây du nhập Nho phai nhạt dần. năm 1911 cách mạng Tân Hợi nổ ra
đã chấm dứt thời kỳ phong kiến, Nho giáo cũng kết thúc vai trò của

mình. Nhng t tởng Nho giáo vẫn ảnh hởng sâu đậm trong xã hội
Trung Quốc.
1.3. Nội dung t tởng đạo đức chính trị của Nho gia.
* Quan niệm về chính trị: Đạo Khổng Tử cốt lấy đạo nhân làm
gốc; lấy hiếu - đế, lễ nhạc làm cơ bản cho sự giáo hoá để gây
thành đạo nhân; lấy chính trị làm cái công dụng của đạo nhân mà thi
thố ra ở đời. Ngài nói rằng: Nhân đạo mãn tính tại nhân: Thủ nhân
dĩ thân, tu thân dĩ đoạ, tu đạo dĩ nhân cái nhanh thành hiệu của đạo
ngời là việc chính trị, cái nhanh thành hiệu quả đạo đất là sự mọc
cây cối. ấy việc chính trị cũng nh ây lau, cây sậy vậy. Cho nên làm
việc chính trị cốt ở dùng ngời hiều; Sửa mình mà dùng ngời hiền, lấy
đạo mà sửa mình, lấy nhân mà sửa đạo. Có sửa đ ợc mình cho ngay
chính thì những kẻ hiền tài mới theo giúp mình, có ngời hiền tài giúp
mình thì việc thực hiện rất chóng có công hiệu. Đạo nhân vốn là cái
gốc của việc chính trị, cho nên thánh hiền cần phải sửa mình cho đến
7


bậc nhân để đem cái đạo của mình mà thi hành ra khắp thiên hạ. Đây
ta phải biết rằng quan niệm Nho giáo về đờng chính trị cho sự trị
loạn trong xã hội do ngời hành chính, chứ không phải chính thể. Ngời hành chính mà có tài, có đức, thì nớc đợc trị; Ngời hành chính
không có tài, không có đức, thì nớc phản loạn. Bởi thế, cho nên Nho
giáo muốn rằng lúc nào ngời cầm quyền hành chính cũng phải kính
cẩn, lo sửa mình cho ngay chính để dùng ngời hiếu mà làm việc nớc,
việc dân.
Việc chính trị là việc khó, ngời có trách nhiệm trị nớc trị dân
cần phải lấy sự kinh nghiệm làm trọng. Phải xem xét cái đạo của
thánh hiền đời trớc là thế nào, rồi mới có thể theo mà sửa đổi mọi
việc đợc. Vì rằng thánh hiền là bậc rất thông minh, hiểu rõ thiên lý,
đạt đợc nhân sự, biết lấy điều nhân nghĩa, lễ, trí mà trị dân trị n ớc. Những công việc của các bậc ấy tích luỹ đã lâu đời và đã có kinh

nghiệm nhiều lần rất có ích lợi cho dân chúng. Nếu ta suy xét cho
kỹ, rồi cứ tuần tự theo sự tiến hoá của xã hội mà thay đổi cho hợp
thôi và thuận lý thì chắc có thể làm cho thiên hạ đã nhiều điều:
Khổng Tử cho việc chính trị hay hay dở do ngời cầm quyền. Ngời
cầm quyền biết theo đờng ngay chính để sửa đạo nhân thì việc gì
cũng thành ra ngay chính cả. Chính trị là làm mọi việc cho ngay
thẳng ông lấy ngay thẳng mà khiến ngời thì ai dám không ngay
thẳng (Luận ngữ nhan uyên, XII). Danh dự đã chính thì việc gì có
nghĩa lý việc ấy, những điều tà thuyết không làm mờ tối đ ợc chân lý.
Danh phận đã định rõ, thì ngời nào có địa vị chính đáng ngời ấy, trên
ra trên, dới ra dới, trật tự phân minh vua có phận vua, tôi có phận tôi
Quân sử thân dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung: vua lấy lễ mà khiến tôi,
tôi lấy trung mà thờ vua (Luận ngữ bất dật, III).
Theo t tởng của Nho giáo thì quân quyền phải để một ng ời giữ
cho rõ cái mới thống nhất. Ngời giữ quân quyền gọi là đế hay là vơng, ta thờng gọi là vua. Vua thì phải có quan, quan là những ngời có
tài có đức ở trong dân lựa chọn để giúp vua làm mọi việc ích lợi
chung cả nớc. Một nớc trị hay loạn là do ở vua và quan giỏi hay dở.
Bởi thế, về đờng chính trị, Nho giáo lấy cái nghĩa quân thân làm
trọng. ở trong nhà thì con phải hiếu với cha mẹ, ở trong nớc thì thần
dân phải trung với quân, không nên theo nh ngời ta vẫn hiểu là chỉ
trung với ngời làm đế làm vơng mà thôi nhng có thể theo nghĩa rộng
8


là trung với các quân quyền trong nớc. Theo nghĩa rộng ấy thì bất cứ
ở thời đại nào hai chữ trung quân vẫn có nghĩa chính đáng. Có lòng
trung ấy thì dân mới yên và nớc mới trị, miễn là quân quyền không
trái lòng dân là đợc.
Cái chính thế của Khổng giáo có quan niệm đặc biệt là cho trời
với ngời cùng đồng một thể, toàn dân muốn thế nào là thì trời muốn

thấy ấy. Ông vua chỉ là một phần trong toàn thể vì có tài, có đức làm
đợc cái địa vị tôn quí để giữ cho toàn thể đợc điều hoà yên ổn. Hễ
ông vua làm điều gì trái với lòng dân, tức là trái với mệnh trời
Thành thử ra ông vua tuy đối với trời đ ợc thay quyền trời nhng đối
với dân lại phải chịu hết cả trách nhiệm. Mà dân thì tuy phải chịu
quyền ông vua cai trị nhng vẫn có quyền bắt vua phải theo điều lành
mà làm vì rằng Thiên căng vu dân, dân tri sở dục, thiên tất tòng
chi: Trời thơng dân, dân muốn điều gì, trời cũng theo (Th: Thái Thệ
Thợng). Xem nh thế thì chính thể của Khổng giáo tuy là chính thể
quân chủ, nhng cái quyền ông vua đối với dân không khác gì cái
quyền ngời cha đối với các con. Ngời làm vua trong nớc phải có
nhân có đức, lo cho dân phải an c lạc nghiệp, đợc cờng thịnh vẻ vang
nh cha lo cho con vậy.
Phần những ngời làm vua làm quan mà biết làm những điều
nhân nghĩa đạo đức thì tự nhiên thiên hạ ngời ta theo về mình mà
trông vào mình mà bắt chớc. Khổng Tử muống lấy đức mà hoá ngời
hơn là dùng hình pháp mà trị ngời. Ngài nói Đạo chi dễ chính, tề
chi dễ hình, dân miễn chi vơ sỉ; đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ
thả cách: dùng chính trị mà khiến, dùng hình pháp mà tề nhất thì dân
khỏi tội, nhng không có lòng hổ thẹn mà lại cố làm điều hay (Luận
ngữ: vi chính, II).
Hễ bao giờ dùng đức mà không hoá đợc, thì mới dùng đến
hình.Nhng dùng hình là bất đắc dĩ để trừng trị những kẻ không thể
hoá đợc, chứ cái mục đích là cốt không dùng đến hình.
Ngời quân tử làm việc chính trị không những là cần phải có
đức để hoá dân mà thôi, nhng lúc nào cũng kính cẩn, làm việc gì
cũng vụ lấy việc giản dị. Trị dân mà lấy việc giản dị để khiến dân thì
không phiền dân, không nhiễu dân, dân đợc an c lạc nghiệp, vui lòng
mà theo ngời trên sai khiến việc chính trị có ba điều hệ trọng là: làm
cho dân nhiều, làm cho dân giàu và dạy cho dân biết lễ nghĩa. Việc

9


trị dân trị nớc là phải lo cho dân đủ ăn, nớc đủ binh, làm cho ngời
trong nớc ai cũng tin cậy mình. Có thế mới có đủ thế lực mà giữ cho
nớc đợc yên trị vững bền. Trong việc chính trị cần phải lấy sự dân tin
làm quan trọng hơn cả. Dân đã tin thế thành ra có thế lực mạnh, làm
việc gì cũng đợc. Song ngời cầm quyền chính trị phải lấy việc nhân
nghĩa mà trị dân, thì dân mới tín phục, phàm việc chính trị là hệ
trọng ngời quân tử không nên vội vã tham vội và tham là hay hỏng
việc vậy Khổng Tử nói rằng: Vô dục tốc, vô kiến tiểu lợi: dục tốc
tắc bất đạt, kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành. Đừng muốn mau thành
công, đừng tham lợi nhỏ, muốn mau thành công thì không đạt, tham
lợi nhỏ thì việc lớn không thành (Luận ngữ: Tử Lộ, XIII). Ng ời trị
dân trị nớc phải biết lo xa: Nay tuy đợc yên, nhng bụng thờng không
qên việc khuynh nguy; Nay nớc tuy còn nhng bụng thờng quên sự
bại vong; Nay việc chính trị tuy có trật tự nh ng bụng thờng không
quên lúc hoạ loạn.
Nói rút lại việc chính trị của Khổng giáo cốt là chữ ác và chữ
kính. Khổng Tử nói ái dữ kính, kỳ chính chi bản d, ái với kính là
gốc chính trị vậy vay (Lễ ký: Ai công vấn, XXVII), phải lấy lòng
nhân ái mà đối với dân, và phải lấy bụng kính cẩn mà giữ mình. Có
nhân ái thì mới yêu dân; có kính cẩn thì làm việc mới cẩn thận,
không kinh suất, không làm bậy.
Đạo của Khổng Tử không phải là đạo thủ cực, bởi vì phải biết
lựa, vì không biết thì thành ra cùng, mà cùng là hại, cái học của ngài
chủ ở sự theo cái đạo biến thông của trời đất. Ngài nói: Cùng tắc
biến, biến tắc thông, thông tắc cửu (Dịch: hệ từ hạ). Đạo của Khổng
Tử là đạo tuỳ thời, theo thiên lý mà lu hành, tất phải biến đổi luôn để
cho ngày càng mới. Trung dung là theo Thiện lý mà giữ lẽ điều hòa;

khiến cho không có điều gì chếch lệch. Trung dung là cái thể trung
bình ở vào thái độ nào cũng giữ đợc cái điều hoà, cái bình hành. Cao
đến đâu cũng có trung dung, không ở vào cảnh ngộ nào mà không có
trung dung. Song muốn cho đúng lẽ trung dung, không ở vào cảnh
ngộ nào là không có trung dung. Song muốn theo cho đúng cái cao,
cái thấp, rồi mới phân biệt cái điều hoà giữa mà theo Đạo Trung
dung tức là cái trật tự điều hoà của trời đất.
Nói tóm lại đạo của Khổng Tử là đạo trung dung của quân tử,
tuy không huyền diệu, siêu việt nhng cũng cao minh lắm mà lại rất
10


thích hợp với chân lý. Thật là cái đạo xử thế rất hay, rất phải ai cũng
có thể theo đợc và có thể thi hành ra đời nào cũng đợc. Đạo ấy tóm
lại rất rõ trong mấy lời sau: Tôn đức tính, chuộng học vấn, rất
quảng đại mà không sót cái tinh vi, cực cao minh mà nói theo Trung
Dung, ôn lại những điều cũ và biết thêm điều mới, đôn đốc cái hậu
tình mà sùng thợng lễ nghi (Trung dung).

11


Chơng 2:

ảnh hởng của Nho gia đối
với hệ t tởng Việt Nam thời kỳ phong kiến
2.1. Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam thời Bắc thuộc không còn là
Nho giáo Khổng Mạnh Nguyên Thuỷ mà là Nho giáo đã đ ợc Hán
nho cải tạo cho thích hợp với chế độ phong kiến trung ơng tập quyền

nhà Hán. Theo Đại Việt sử kí toàn th, thời Tây Hán, tức khoảng năm
110 trớc công nguyên đến năm 39 sau công nguyên hai niên thái Thú
Tích Quang và Nhâm Diên đã dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa tại quận
Giao Chỉ và Cửa Châu. Nho giáo bắt đầu đợc truyền vào Việt Nam từ
đó.
Từ năm 187 đến năm 226 thái thú giao châu là Sĩ Nhiếp giỏi
Thi, Th, Xuân Thu đã đa việc giáo hoá dân chúng lên một bớc và ông
đợc tôn là Nam giao học tổ. Nhng thực ra Sĩ Nhiếp không phải là nhà
Nho chính thống là một nhà Đạo Nho, vào thời Sĩ Nhiếp trong số
những thân tài, danh sĩ nhà Hán do loạn lạc, chạy sang lánh nạn tại
Giao Châu có tới hàng trăm sĩ phu của Trung Quốc cùng với Sĩ
Nhiếp mở trờng dạy học ở Luy Lâu, Long Biên
Đời Hán Minh Đế (năm 68 - 75) một ng ời Giao Châu tên là Trơng Trọng đợc cử làm kế lạc ở Nhật Nam sau đó làm Thái Thú ở Kim
Thanh. Thế kỷ II có Lý Tiến. Thế kỷ III có Lý Cần, Bốc Long.
Từ thời nhà Tần đến nhà Lơng, do loạn lạc ở Trung Quốc nên
Nho học ở nớc ta thời kỳ này không có những bớc tiến bộ nào. Đến
thời kỳ Tuỳ Đờng khi Trung Quốc thống nhất trở lại, chính sách
đồng hoá của phong kiến phơng Bắc đợc tiếp tục đẩy mạnh, sự
truyền bá Nho giáo và hán học vào Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
Nhìn một cách tổng quát, thời Bắc thuộc, Nho giáo ít đi vào
tầng lớp xã hội và cha có vai trò gì đáng kể trong xã hội Việt Nam
trừ cuộc khởi nghĩa Lý Bí, có một nhà nho là Tinh Thiều, ng ời bản
Xứ Giao Châu đi theo.
Mặt khác sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam lại nằm trong
chính sách đồng háo dân tộc của các thế lực phong kiến ph ơng Bắc
nhằm nô dịch đô hộ dân tộc ta. Để khẳng định ý chí độc lập chủ
quyền của đất nớc chống âm mu đồng hoá bảo tồn nòi giống, bảo tồn
di sản văn hoá cổ truyền của dân tộc, bảo tồn tín ngỡng, phong tục
12



tập quán, nhân dân ta không thể không phản ứng lại hệ t tởng thống
trị do kẻ xâm lợc đa vào nhng dân tộc ta lại biết tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của nớc ngoài làm phong phú nền văn hoá vốn có của
dân tộc.
2.2. ảnh hởng của Nho giáo ở Việt Nam từ thế kỷ X đến thế
kỷ XIV.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV bên cạnh sự thịnh trị của Phật
giáo, kể đến là Đạo giáo, Nho giáo tuy cha đợc thực sự coi trọng, nhng đã tiếp tục phát triển và dần khẳng định chỗ đứng của mình trong
xã hội Việt Nam.
Nếu trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc và một thế kỷ sau
ngày đất nớc ta giành đợc độc lập, Nho giáo vẫn cha có vai trò gì
trong xã hội Việt Nam, thì đột nhiên từ thời Lý, Trần, Nho giáo đ ợc
coi trọng, và có điều kiện phát triển mạnh mẽ, cho đến thời Lê Sơ thì
giành đợc địa vị độc tôn.
Dới các triều đại Ngô Đinh Lê trong buổi đầu của việc xây
dựng Nhà nớc phong kiến, Nho giáo cha thịnh. Khi đó, trên lĩnh vực
t tởng chính trị và xã hội ở nớc ta, Nho giáo cha có vai trò ảnh hởng
đáng kể.
Sang thời kỳ nhà Lý, tình hình chính trị trong nớc ổn định lâu
dài cùng với nhu cầu củng cố chính quyền, duy trì trật tự xã hội
phong kiến đào tạo tuyển lựa quan lại, Nho giáo có điều kiện phát
triển. Để xây dựng Nhà nớc quân chủ tập quyền và củng cố chế độ
phong kiến chỉ có thể dựa vào Nho giáo. Những căn cứ lý luận và bài
học kinh nghiệm của công việc tổ chức, quản lý Nhà n ớc trong giáo
lý, kinh điển của Nho giáo đã ghi dấu ấn trong các bài chiếu, chế,
biểu, hịch của những ngời cầm đầu bộ máy Nhà nớc phong kiến Việt
Nam. Trong chiếu rời đô viết: Ngày xa nhà Thơng đến đời Bàn Canh
năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vơng ba lần rời đô, há phải các
vua đời tam đại ấy theo ý riêng tự rời đô xằng bậy đâu. Làm nh thế

cốt để mu nghiệp lớn, chọn chỗ ở giữa làm kế cho các con cháu
muôn đời
T tởng về thiên mệnh của Nho gia cũng ảnh hởng tới t tởng
thiên mệnh trong bài chiếu rời đô của Lý Công Uẩn và bài Nam
quốc Sơn Hà của Lý Thờng Kiệt. Bởi vậy vào năm 1070 Lý Thánh
Tông đã sai dựng vào miếu ở Thăng Long, dựng t ợng Chu Công,
13


Khổng Tử và 72 tiên hiền để thờ. Năm 1075, Lý Nhân Tông mở khoa
thi Minh Kinh bác sĩ và thi Nho học tam tr ờng. Năm 1095, Lý Cao
Tông mở kỳ thi tam giáo nh nhà Đờng ở Trung Quốc.
Sang thời kỳ nhà Trần Nho giáo phát triển hơn thời nhà Lý.
Nhà Trần dùng Nho giáo làm cơ sở lý luận cho đạo trị nớc, cho đờng
lối tu nhân tề gia, trị quốc, tổ chức quản lý xã hội lý t ởng theo tam
cơng, ngũ thờng và chủ nghĩa chính danh định phận. Vì thế, d ới
triều đại nhà Trần, các khoa thi đợc mở đều đặn hơn, nhằm cung cấp
nhân tài cho đất nớc và mở mang tri thức Năm 1236, Trần Thái Tông
lập quốc sử viện, dạy tứ th, ngũ kinh cho con em các nhà quý tộc;
năm 1253 Quốc học viện đợc thành lập, dành cho Nho sĩ có trình độ
nhất định đến học tập. Thời Trần xuất hiện những nho sĩ nổi tiếng
tích cực tham gia vào công việc chính trị và hết lòng phấn đấu cho lý
tởng chính trị đó nh Chu Văn An, Lê Văn Hu, Trơng Hán Siêu.. họ
đề cao quan điểm đức trị mà Nho giáo đề xớng và chủ trơng tu thân,
sửa đức theo những nguyên lý đạo đức chính trị của Nho học và noi
theo gơng sáng về công đức của các bậc thánh Hiền đ ợc ghi lại trong
kinh th nh Nghiêu, Thuấn, Thành Thang, Văn Vơng, Chu Công
Nh thế, đến triều đại nhà Trần Nho giáo thì tiến mãi và dần
phát triển khá mạnh mẽ chiếm u thế trong giới cầm quyền chính trị,
trong đời sống văn hoá tinh thần xã hội.

2.3. ảnh hởng của Nho giáo đối với hệ t tởng phong kiến
Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX.
* Thời Lê Sơ: Nho giáo chi phối hầu hết mọi lĩnh vực, tr ớc hết
là giáo dục từ địa phơng đến triều đình. Lê Thánh Tông cho lập bia
tiến sĩ ở Quốc Tử Giám. Thời Lê Sơ, Nho giáo làm hệ t tởng chủ đạo.
Để minh hoạ điều này ta đi sâu vào một nhà t tởng tiêu biểu là
Nguyễn Trãi. Vấn đề con ngời trong t tởng Nguyễn Trãi đợc tập
trung ở khái niệm nhân nghĩa và đạo làm ngời. Nhân nghĩa ở ông là
một đờng lối chính sách cứu nớc trong kháng chiến chống giặc cũng
nh trong xây dựng hòa bình: Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy
trí nhân để thay cờng bạo. T tởng nhân nghĩa còn thể hiện ở việc lên
án chiến tranh, yêu hoà bình: Đồ binh khí là thứ hung bạo, đánh
nhau là việc nguy hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến. T tởng
nhân nghĩa của ông còn thể hiện ở t tởng lấy dân làm gốc Chở
thuyền lật thuyền cũng là dân. Đạo làm ngời của ông là phải vơn tới
14


mẫu ngời quân tử, hào kiệt, đại trợng phu phải có ba đức tính: Nhân,
trí, dũng. Đạo làm ngời của ông đợc phát triển từ đạo là ngời của
Nho.
Lê Thánh Tông về thế giới quan cũng nh Nho giáo, ông đa ra t
tởng mệnh trời để lý giải mọi hiện t ợng. Ông là ngời chủ trơng độc
tôn Nho giáo, ông đứng trên lập trờng dân tộc để tiếp thu Nho giáo,
nghĩa là ông chỉ tiếp thu kế thừa có chọn lọc những cái có lợi cho
thực tiễn xây dựng đất nớc lúc bấy giờ mà bỏ qua tính hệ thống, nền
tảng của Nho giáo Trung Quốc. Chẳng hạn ông nói đến tam cơng ngũ
thờng nhng lại không đề cập đến Thiên nhân t ơng cảm của Đổng
Trọng T. Đóng góp quan trọng của Lê Thánh Tông là xây dựng đợc
đờng lối trị có thể đáp ứng đợc đòi hỏi của phát triển xã hội lúc bấy

giờ. Đó là đờng lối trị nớc kiểu Văn trị hay nói cách khác là lễ
trị hay đức trị t tởng Nho giáo ở Lê Thánh Tông có nhiều yếu tố
tích cực còn nhiều nét thể hiện đợc tinh thần dân tộc và vũ khí đi lên
của đất nớc. Nhng phải thấy rằng bên cạnh những tính chất đó, nhiều
yếu tố tiêu cực nh chuyên chế khắc nghiệt, danh phận ngặt nghèo và
thần quyền còn nặng nề trong t tởng của ông.
* Thời Mạc (1527 - 1592) nổi lên nhà t tởng Nguyễn Bỉnh
Khiêm với mô hình xã hội ở ông là thời Nghiêu Thuấn, đ ờng Ngu.
Ông phản đối chiến tranh, đề cao vơng đạo (đức trị lấy nhân nghĩa
để cảm hoá chứ không ràng buộc bằng tam cơng, ngũ thờng, đó là đờng lối nhà Nho sống gần dân). Ông nói: Xa nay điều nhân là vô
địch, cần gì phải kh kh theo đuổi chiến tranh. Nhân nghĩa của ông
là phải chăm lo đời sống của dân, đất nớc phải hoà bình xa nay nớc
phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ đ ợc nớc, cốt phải đợc
lòng dân.
* Triều Nguyễn: lấy Nho làm trụ cột nh ng vẫn mang đậm màu
sắc Việt Nam. Điều này thể hiện rõ trong t tởng Minh Mệnh. Ông
cho rằng dân là gốc nớc, bởi vậy phải yêu cái dân yêu và ghét cái
dân ghét, ngời làm chính trị không thể trái ý muốn của dân. Theo
ông, vua là gốc của phong hoá bởi vậy phải làm gơng cho thiên hạ
theo t tởng thiên nhân cảm ứng của Tống Nho ông cho rằng vua phải
kính Thiện. Ông đòi hỏi ngời làm vua phải nghiêm khắc với mình,
phải thờng xuyên tu dỡng và phải có tinh thần trách nhiệm cao. Ông
cho rằng ngời hiền tài là trụ cột của quốc gia, bởi vậy quốc gia chỉ
15


quý ngời hiền tài là trên hết, hơn cả ngọc ngà châu báu. Mỗi khi cân
nhắc một ngời tất phải xem xét lời nói, việc làm. Ông có dụ: Vì n ớc
tiến ngời hiền chỉ cần biết cho đích xác, không nể ng ời thân, không
tránh kẻ thù, ngời không yêu cũng lấy, kẻ không ghét cũng bỏ.

Nói tóm lại, Ngũ luân là trung tâm là tam c ơng, ngũ thờng là
nền tảng đạo đức triều Nguyễn, Trung hiếu là quan trọng nhất trong
ngũ luân. Nhìn chung thế giới quan và nhân sinh quan thời Nguyễn,
đặc biệt là tầng lớp trên nh vua quan trí thức là thế giới quan và nhân
sinh quan của Nho giáo đợc ứng dụng, cải biên, cụ thể hoá vào trong
xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX.

16


Kết luận
Nho giáo ra đời cùng với khát vọng đa xã hội trở lại thời kỳ
thanh bình thịnh trị của thời đại Nghiêu, Thuấn. Vì thế có thể nói
luân lý và đạo đức của Nho giáo bao trùm lên toàn bộ cuộc sống của
con ngời từ chính trị đến vấn đề văn hoá - xã hội. Cũng giống nh học
thuyết chính trị, học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo lấy đạo
nhân làm gốc. Theo đạo đức và luân lý của Nho giáo thì cái đạo làm
ngời thông thờng trong thiên hạ có năm bậc. Nó phản ánh năm mối
quan hệ vua tôi, cha con, chồng - vợ, anh em và bầu bạn kết
giao. Để xử lý tốt năm mối quan hệ đó, con ngời cần phải có năm cái
đức thông thờng đó là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Với hơn hai nghìn
năm Nho giáo đã có mặt trên đất nớc ta, trong đó trên năm trăm năm
đợc coi là hệ t tởng thống trị trong kiến trúc thợng tầng của xã hội
phong kiến. Vì lẽ đó, Nho giáo đã có đủ thời gian và điều kiện để
thấm sâu, bám rễ và ảnh hởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân
tộc ta. Năm tháng qua đi, chế độ phong kiến Việt Nam không còn
nữa, nhng t tởng Nho giáo vẫn còn lu lại trong con ngời và lối sống
ngày nay. Thái độ của chúng ta cần khắc phục những ảnh h ởng tiêu
cực, lạc hậu của Nho giáo, đồng thời chọn lọc, kế thừa, cải tạo những
yếu tố tích cực, hợp lý của nó để bổ sung, phát triển làm phong phú

thêm bản sắc văn hoá Việt Nam.

17


Tài liệu tham khảo
1. Lê Thần Trần Trọng Kim: Đại cơng triết học Trung Quốc Nho
giáo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
2. TS. Doãn Chính; TS. Trơng Văn Chung; PGS.TS. Nguyễn Thế
Nghĩa; TS. Vũ Trình: Đại cơng triết học Trung Quốc, Nxb. Thanh
niên, 2002.
3. Nguyễn Hiến Lê: Khổng Tử, Nxb. Văn hoá Thông tin, 2001.
4. Nguyễn Hùng Hậu; Doãn Chính; Vũ Văn Gầu: Đại cơng lịch sử t
tởng triết học Việt Nam (tập 1), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. GS. TRần Văn Giầu: Sự phát triển của t tởng ở Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến cách mạng tháng Tám (tập I), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội, 1996.
6. PGS. Nguyễn Tài Th: Lịch sử t tởng Việt Nam (tập 1), Nxb. Khoa
học Xã hội Hà Nội, 1993.
7. Triết học, số 8(159), tháng 8-2004: Về học thuyết luân lý và đạo
đức của Nho giáo.
8. Triết học, số 9(160), tháng 9-2004: Về quá trình Nho giáo Du
nhập vào Việt Nam (từ đầu công nguyên đến thế kỷ XIX).
9. GS. Phan Đại Doãn: Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb.
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1998.

18


Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Phân viện báo chí và tuyên truyền

Tiểu luận

Môn: lịch sử triết học trung quốc
chủ yếu của đời sống xã hội

Đề tài:
Tìm hiểu t tởng đạo đức chính trị
của Nho gia và ảnh hởng của nó đối với
hệ T tƯởng Việt Nam thời kỳ phong kiến
ôn Tẫn
Giáo viên hớng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp

: Thầy giáo Lê Ngọc Cờng
: Vũ Thị Kim Tuyết
: Triết học - K24B

Hà Nội, 2005

19


20


Mục lục
Trang

Mở đầu ........................................................................................................
Nội dung ....................................................................................................
Chơng 1: T tởng đạo đức chính trị của Nho giáo...................
1.1. Khái quát đặc điểm lịch sử xã hội Trung Quốc
thời Xuân Thu Chiến Quốc......................................
1.2. Những giai đoạn phát triển của Trờng phái Nho
gia....................................................................................
1.3. Nội dung t tởng đạo đức chính trị của Nho gia..........
Chơng 2: ảnh hởng của Nho gia đối với hệ t tởng Việt
Nam thời kỳ phong kiến........................................
2.1. Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam..........................
2.2. ảnh hởng của Nho giáo ở Việt Nam từ thế kỷ X
đến thế kỷ XIV............................................................
2.3. ảnh hởng của Nho giáo đối với hệ t tởng phong
kiến ở Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX........
Kết luận..................................................................................................
Tài liệu tham khảo ............................................................................

21



×