Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Thơ ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh từ góc nhìn văn hóa (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 113 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ THỊ HẢI YẾN

THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN, VÕ SA HÀ,
NGUYỄN THÚY QUỲNH TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ THỊ HẢI YẾN

THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN, VÕ SA HÀ,
NGUYỄN THÚY QUỲNH TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Người hướng dẫn: TS. HOÀNG ĐIỆP

THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là do tôi viết. Mọi số liệu, tư liệu cũng
như kết quả nghiên cứu là của riêng tôi.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thái Nguyên, ngày

tháng

năm 2016

Người cam đoan

LÊ THỊ HẢI YẾN

i


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
tới.TS. Hoàng Điệp đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới Ban giám hiệu, các phòng ban chức năng,

Khoa sau đại học, Khoa ngữ văn trường Đại học sư phạm Thái Nguyên cùng
các thầy cô đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực
hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, các bạn lớp văn học việt nam CH K22B đã động viên, khích lệ, giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày

thánh năm 2016

Học viên

LÊ THỊ HẢI YẾN

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................... ii
MỤC LỤC ............................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu......................................................................................................... 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................................ 7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 8
6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................. 8
7. Đóng góp của luận văn ..................................................................................................... 8

8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................................... 8
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG ............................................................................. 9
1.1. Khái niệm văn hóa, văn học .......................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm văn hóa.................................................................................................. 9
1.1.2. Khái niệm văn học................................................................................................ 11
1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học................................................................ 12
1.2. Thơ Thái Nguyên và hành trình kiến tạo những giá trị văn hóa.............................. 15
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển thơ Thái Nguyên ........................................ 15
1.2.2. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của thơ Thái Nguyên ............................. 17
1.3. Các tác giả và quá trình sáng tác ................................................................................. 19
1.3.1. Tác giả Ma Trường Nguyên................................................................................ 19
1.3.2. Tác giả Võ Sa Hà.................................................................................................. 24
1.3.3. Tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh.............................................................................. 29
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................................ 30
iii


Chương 2. CẢM THỨC VĂN HÓA TRONG THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN,
VÕ SA HÀ, NGUYỄN THÚY QUỲNH.................................................................................... 31
2.1. Cảm thức văn hóa phong tục trong thơ Ma Trường Nguyên ..................... 31
2.1.1. Nhà sàn - nơi ở gắn liền với sinh hoạt, phong tục của người Tày ...... 31
2.1.2. Nhà sàn - nơi khởi nguồn cho mọi tình cảm ....................................... 36
2.2. Cảm thức văn hóa sinh thái trong thơ Võ Sa Hà ........................................ 40
2.2.1. Hình ảnh núi - phong phú, đa cảm, đa thanh, đa nghĩa ....................... 41
2.2.2. Hình ảnh trăng - muôn hình, muôn khối, giàu màu sắc và đầy
tâm trạng........................................................................................................ 45
2.2.3. Hình ảnh đá - phong phú, nhiều vẻ, là hình ảnh tượng trưng cho
con đường sáng tạo nghệ thuật ...................................................................... 50
2.2.4. Hình ảnh sông suối - sinh động, có hồn và gắn bó với cuộc sống
của con người................................................................................................. 54

2.3. Cảm thức văn hóa đô thị trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh .......................... 57
2.3.1. Những biến đổi trong xã hội đô thị trước sự ảnh hưởng của cơ
chế thị trường ................................................................................................. 58
2.3.2. Nỗi cô đơn, nhỏ bé của con người trong một xã hội xô bồ, náo nhiệt ...... 64
2.3.3. Những số phận bất hạnh, đau khổ, vất vả xuất hiện nhiều trong
đời sống xã hội............................................................................................... 68
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 71
Chương 3. TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG BIỂU HIỆN
CẢM THỨC VĂN HÓA QUA THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN, VÕ
SA HÀ, NGUYỄN THÚY QUỲNH ............................................................... 72
3.1. Không gian văn hóa trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà,
Nguyễn Thúy Quỳnh ......................................................................................... 72
3.1.1. Những điểm tương đồng về một không gian văn hóa Thái Nguyên ........ 72
3.1.2. Những mảng màu khác nhau trong không gian văn hóa qua thơ
Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh ................................. 73

iv


3.2. Thời gian nghệ thuật ................................................................................... 79
3.2.1. Những điểm tương đồng ...................................................................... 79
3.2.2. Những bước đi của thời gian qua cảm nhận chủ quan của các
nhà thơ ........................................................................................................... 81
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật .................................................................................. 90
3.3.1. Điểm giống nhau ................................................................................. 90
3.3.2. Điểm khác nhau ................................................................................... 91
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 97
KẾT LUẬN....................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 101


v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Ở bất kì một quốc gia, dân tộc nào trên thế giới, văn hóa luôn là một
trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu. Bởi lẽ, văn hóa biểu hiện sức
sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng và vị thế, tầm vóc của một dân tộc.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang có chủ trương xây dựng một nền văn hóa
Việt Nam hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc (Nghị quyết hội nghị lần thứ 5
BCHTW Đảng). Một trong số những cách thức lưu giữ và phát triển văn hóa
hiệu quả nhất chính là văn học. Ngày nay, bên cạnh những tác giả người Kinh
thì đội ngũ các tác giả người dân tộc thiểu số đã phát triển khá đông đảo với
nhiều thành tựu rực rỡ.
- Thái Nguyên là một tỉnh nằm ở Đông Bắc Việt Nam, tiếp giáp với thủ đô
Hà Nội. Thái Nguyên là một trung tâm kinh tế xã hội lớn của khu vực Đông Bắc
hay cả vùng trung du miền núi phía bắc. Là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội
giữa trung du miền núi phía bắc với đông bắc bắc bộ. Đồng thời, Thái Nguyên
cũng là trung tâm giao lưu văn hóa miền núi và đô thị. Chính vì thế mà các nhà
thơ Thái Nguyên đã tìm cho mình được một nguồn cảm hứng sáng tác đặc biệt là
thơ viết về Thái Nguyên, về mảnh đất và con người nơi đây với những phong tục
tập quán, những nếp ăn, nếp ở mang đậm bản sắc vùng miền, dân tộc.
- Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh là ba nhà thơ tiêu
biểu viết về đề tài miền núi. Từ trước đến nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đi
sâu, tìm hiểu về nhiều khía cạnh trong thơ của ba nhà thơ này xong tất cả mới
chỉ dừng lại là những công trình nghiên cứu đơn lẻ, chưa có sự nghiên cứu toàn
diện dựa trên thế đối chiếu so sánh giữa ba nhà thơ cùng sinh sống và làm việc
trên quê hương kháng chiến, cùng viết về đề tài miền núi. Việc lựa chọn ba nhà
thơ ở ba thế hệ để nghiên cứu là một sự nỗ lực nhằm kiến giải sự tiếp kiến và
giao thoa văn hóa được biểu hiện trong thơ Thái Nguyên nói chung và ba nhà

thơ trên nói riêng. Đó sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho rất nhiều người nghiên
cứu, giảng dạy, học tập về văn học Thái Nguyên.
1


- Là một người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thái Nguyên, chịu
sự tác động sâu sắc từ yếu tố địa lý, văn hóa đã làm nên bản sắc của đất và
người Thái Nguyên. Chúng tôi muốn dành công trình nghiên cứu đầu tiên của
mình để nghiên cứu về các tác giả thơ Thái Nguyên mà bản thân đã từng gặp
gỡ, quen biết và kính trọng.
Xuất phát từ những lí do nói trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài:
“Thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh từ góc nhìn văn hóa”
làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Văn hóa là một trong những lĩnh vực rất được quan tâm, vì vậy có rất
nhiều công trình nghiên cứu được đặt ra. Về văn hóa không thể không nhắc tới
cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh in lần đầu tiên năm 1938
được ấn hành bởi Quan Hải Tùng Thư. Ngoài ra, còn rất nhiều công trình
nghiên cứu khác như: “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, “Bản
sắc văn hóa Việt Nam” của Phan Ngọc, “Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối
cảnh văn hóa Đông Nam Á” của Đinh Gia Khánh, “Văn hóa Việt Nam đỉnh cao
Đại Việt” của Nguyễn Đăng Duy, “Văn hóa gia đình Việt Nam” của Vũ Gia
Khánh… Nhiều tác phẩm của các tác giả thơ văn nổi tiếng cũng đã được nhiều
người nghiên cứu, tiếp cận, tìm hiểu theo hướng từ góc nhìn văn hóa.
Bản thân Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh là ba nhà
thơ tiêu biểu của nền thơ Thái Nguyên nói riêng, nền thơ Việt Nam hiện đại nói
chung cho nên cũng có nhiều nhà nghiên cứu đi sâu, tìm hiểu thơ họ từ nhiều
hướng, nhiều góc độ khác nhau. Dưới đây, chúng tôi xin tổng hợp một số công
trình nghiên cứu, một số bài viết, luận văn nghiên cứu về ba nhà thơ này.
2.1. Những công trình nghiên cứu về thơ Ma Trường Nguyên

Ma Trường Nguyên là một trong những nhà thơ dân tộc thiểu số tiêu
biểu của "Cái nôi kháng chiến". Sáng tác của ông nhận được nhiều nhận xét,
đánh giá của nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học:

2


- Nguyễn Đức Thiện với bài viết "Một chút tình si trong thơ Ma Trường
Nguyên" đăng trên trang Văn học và Nghệ thuật số ra ngày 21/5/2006 đã đưa ra
nhận xét: "Ma Trường Nguyên đã sống căn cơ ở thị thành nhiều năm mà vẫn
giữ nguyên hồn của một người dân tộc... Trong bài thơ, chất chứa rất nhiều chi
tiết đời thường của quê hương rừng núi".[84]
- Duy Hồng trong bài viết: "Thơ văn Ma Trường Nguyên: Ngọn lửa cháy
đến khôn nguôi..." đăng trên Trang tin điện tử của Ủy ban Dân tộc ngày
11/9/2008 có viết: "Với ông, cả hai thể loại thơ và văn xuôi đều là sở trường.
Những gì không thể hiện hết trong tiểu thuyết, trong văn xuôi thì được thể hiện
trong thơ. Những gì không nói được trong thơ thì giãi bày trong tiểu thuyết.
Thơ và văn xuôi đều là nơi gửi gắm hành trình lịch sử, nơi bộc lộ trung thực
cuộc sống đa sắc diện của mỗi con người, mỗi cuộc đời" và "Thơ Ma Trường
Nguyên đẫm chất dân ca Tày".[35]
- Trong cuộc hội thảo "Nhà văn Ma Trường Nguyên - Tác giả, tác phẩm"
do chi hội nhà văn Việt Nam tỉnh Thái Nguyên tổ chức ngày 9 tháng 6 năm
2009, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã đưa ra những nhận xét về con người
và tác phẩm của Ma Trường Nguyên đồng thời cũng khẳng định những đóng
góp to lớn của nhà văn đối với thành tựu văn học tỉnh Thái Nguyên trên cả hai
mảng văn xuôi và thơ.
Trung Trung Đỉnh nhận xét Ma Trường Nguyên là "Người đốt lửa bằng
trái tim" với "Dáng vẻ chân tình đến thật thà và hiền lành" [Dẫn theo 12;3]. Phạm
Tiến Duật cho đó là "Tâm hồn nhiều đắm say" [Dẫn theo 12;3]. Hồ Thủy Giang
lại gọi Ma Trường Nguyên là "Một trái tim thức cùng năm tháng" và "Hiền lành

một cách bẩm sinh" [Dẫn theo 12;3]. Nguyễn Đức Thiện lại đưa ra ý kiến khác
cho rằng Ma Trường Nguyên "Nói năng chất phác, thật thà của người Tày nguyên
gốc" và "Chất rừng núi, chất dân tộc đã được thể hiện sâu sắc không chỉ ở tả
cảnh, tả người mà nó còn đậm đà trong tình cảm" [Dẫn theo 12; 3].
- Nguyễn Thúy Quỳnh trong bài viết "Ba phác thảo về thơ Ma Trường
Nguyên" đã đề cập đến ngôn ngữ và cách thức tổ chức ngôn ngữ trong thơ Ma
Trường Nguyên đồng thời tác giả cũng đề cập đến chất giọng chủ đạo trong thơ ông.
3


2.2. Những công trình nghiên cứu về thơ Võ Sa Hà
Võ Sa Hà là người dân tộc Kinh nhưng ông đã sống và gắn bó với miền
núi ngay từ nhỏ, hồn thơ ông có sự giao thoa giữa văn hóa Tày - Nùng với văn
hóa Việt. Tác phẩm của ông luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới
nghiên cứu, phê bình. Chẳng hạn như:
- Đào Nam Sơn (1998), "Sóng nhạc hồn tôi hay là lời núi hát", Tạp chí
Thế giới quanh ta. Trong đó, nhà thơ đưa ra nhận xét về tập thơ "Sóng nhạc
hồn tôi": "Thơ anh có vẻ không phải là một ca khúc hiện thực. Dường như anh
không mô tả cuộc sống mà tạo ra những ảo giác về cuộc sống. Đôi khi những
hình tượng thơ được bật ra từ cõi sâu thẳm của vô thức. Có lẽ anh muốn đứng
trên bản ngã để hướng về siêu ngã hoặc ngược lại. Nói theo luận điểm của
phân tâm học, đó là những "giấc mơ tỉnh". Tôi nghĩ thơ Võ Sa Hà có nét hiện
đại chính là ở chỗ đó" [73].
- Trịnh Thanh Sơn (2005), "Võ Sa Hà đi hoang vào lũng núi", trang Báo
điện tử đăng ngày 06/09/2005. Trong bài viết của mình, tác giả đã đưa ra nhận
xét khá xác đáng về tập thơ "Cánh chim về núi" - tập thơ đạt giải nhất giải
thưởng văn học nghệ thuật 5 năm (2001- 2006) tỉnh Thái Nguyên: "Thơ Võ Sa
Hà không điệu đàng, không làm dáng. Anh giản dị trong ngôn ngữ thơ tự chắt
lọc và nhiều sáng tạo. Anh làm thơ như người kể chuyện, mà chuyện của anh về
nỗi người, nỗi đau xót vô cùng" [74].

- Nông Quốc Chấn (2007), "Tuyển tập Văn học dân tộc và miền núi" (Nxb
Giáo dục). Cuốn sách giới thiệu những gương mặt tiêu biểu của thơ ca dân tộc
thiểu số, cung cấp cho độc giả những nét sơ lược, những bài thơ hay... Trong đó,
Võ Sa Hà có được giới thiệu hai bài thơ là "Anh khóc" và "Bài hát cũ".
- Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Nguyên (2008), "Văn học Thái Nguyên",
tài liệu giảng dạy văn học địa phương cấp Trung học cơ sở. Trong đó Võ Sa Hà
được giới thiệu bài thơ "Ông ngoại".
4


- Tạ Văn Sỹ (2008), "Võ Sa Hà nặng lòng quê núi", trang Báo điện tử
360 plus ngày 13/07/2008. Bài báo đã chỉ ra một số đặc sắc về nội dung trong
tập thơ "Cánh chim về núi": "Phải nói ngay rằng Võ Sa Hà là người tình sâu
nghĩa nặng với mảnh đất vùng cao Việt Bắc quê mình. Qua suốt tập thơ "Cánh
chim về núi" dường như không một trang nào không dính dáng ít nhiều đến
cảnh sắc, con người vùng cao địa đầu Tổ quốc" [77].
- Nguyễn Kiến Thọ (2009), "Võ Sa Hà - Hành trình đam mê và sáng tạo",
Báo văn nghệ số Tết.
- Đỗ Thu Hà (2011) có bài viết: "Thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỉ
XXI" - Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn. Luận văn trình bày những nét đặc
trưng về Thái Nguyên trong thập niên đầu thế kỉ XXI. Các tác giả đi vào tìm
hiểu một số cây bút tiêu biểu của thơ Thái Nguyên, trong đó có Võ Sa Hà.
- Nguyễn Bình Phương (2011), "Đọc thơ Võ Sa Hà", Tạp chí văn nghệ
quân đội.
- Phạm Văn Vũ (2011) trong "Ngẫu luận - Trò chuyện văn chương" đã
viết: "Trước, tôi hình dung nhà thơ Võ Sa Hà như một con người hết mình,
quyết liệt đến mức cực đoan. Điều đó có lẽ cũng không sai. Nhưng càng ngày
tôi càng nghĩ về ông như một nhà thơ của thiên tư và nghiệp chướng" [98;7].
- Anh Vũ (2012), "Rung theo tiếng gió lời thầm thì", Báo Văn nghệ Thái
Nguyên số 30 (470) - ra ngày 20/10/2012 đã đưa ra lời bình luận rất sắc sảo về

bài thơ "Thái Nguyên của tôi": "Thơ trẻ mãi, như sự sống miên viễn, lúc sôi sục,
lúc trầm lắng. Như sự cuốn hút mê đắm, mãi mãi tươi ròng căng nức sức thanh
xuân, sóng sánh và hương và sắc. Vậy nên kể chi từ ấy bài thơ "Thái Nguyên
của tôi" chịu trận ngót chục năm rồi, cứ cho mai đây ngót cả trăm năm nữa,
dưới cỏ xanh, Võ Sa Hà còn rung theo tiếng gió lời thầm thì câu Thái Nguyên
của tôi. Chất Thơ bao giờ chẳng là loài men quý. Càng ủ lâu, càng hạ thổ cố
quên đi lưu cữu lưu niên, chất men vàng càng ngấm, càng đượm, càng lóng
lánh say lịm lòng người nưng nức" [97].
5


Mới đây nhất là hai bài viết "Thái Nguyên thương nhớ" của Vi Thùy
Linh đăng trên báo online An ninh thế giới ra ngày 06/4/2016 và "Ghé thăm
cuộc rượu của Võ Sa Hà với Núi" của Cao Xuân Thử đăng trên trang Văn nghệ
Thái Nguyên của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên cũng đã đề cập
đến vai trò, vị trí cũng như tầm quan trọng của quê núi đối với mạch nguồn
cảm xúc trong thơ Võ Sa Hà.
2.3. Những công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Thúy Quỳnh
Một vài năm trở về đấy, Nguyễn Thúy Quỳnh đã và đang nhận được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học và nhiều độc giả trên khắp cả nước.
Có nhiều bài nghiên cứu, bài báo, luận văn về nhiều khía cạnh thơ của chị:
- Phạm Văn Vũ - nhà phê bình trẻ có bài "Ngẫu luận - Nguyễn Thúy
Quỳnh", "Sự nghiệp làm người tốt còn quan trọng hơn sự nghiệp văn chương".
- Nhà phê bình Vũ Nho có bài: "33 gương mặt thơ nữ tiêu biểu Việt
Nam" trong đó có nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh.
- Hồ Thủy Giang với "Thái Nguyên một dòng chảy văn chương"
- Sở GD & ĐT Thái Nguyên tổ chức và biên soạn cuốn "Văn học Thái
Nguyên" - tài liệu giảng dạy văn học địa phương cấp Trung học cơ sở. Cuốn sách
đã giới thiệu khái quát tiến trình văn học Thái Nguyên bao gồm văn học dân gian
và văn học Thái Nguyên từ sau Cách mạng tháng Tám tới nay trên nhiều phương

diện như thể loại, đặc điểm và những thành tựu nổi bật. Một số tác giả, tác phẩm
tiêu biểu đã được giới thiệu trong cuốn sách này. Trong đó, có tác giả Nguyễn
Thúy Quỳnh với bài thơ "Thơ về nhà mình" in trong tập "Mưa mùa đông".
Ngoài hệ thống tư liệu mang tính tập trung mà chúng tôi đã liệt kê ở trên
còn có những bài viết được đăng tải trên các báo, tạp chí như:
- "Người làm thơ không chỉ vì đam mê" - Nguyễn Hòa, đăng trên báo
Văn nghệ số 29, ra ngày 18/7/2011.
- "Nguyễn Thúy Quỳnh - mạnh mẽ và đôn hậu" - Vũ Nho
- "Ẩn ức về đêm trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh" - Nguyễn Kiến Thọ (Hội
thảo thơ nữ Thái Nguyên)
- "Thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỉ XXI" - Luận văn thạc sĩ của Đỗ
Thu Hà.
6


Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, những bài báo và luận văn
nghiên cứu về thơ của ba nhà thơ trên song những vấn đề văn hóa trong thơ của ba
nhà thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh vẫn còn là điều gì đó
mới mẻ, cần được khai thác, tìm hiểu triệt để. Chúng tôi rất trân trọng những ý kiến,
nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trước và coi đó như những tiền đề
khoa học quý báu, là những gợi ý bổ ích để chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích:
- Nhằm lí giải, cắt nghĩa những nét đặc trưng mang tính bản sắc của văn
hóa vùng miền qua ba nhà thơ thuộc ba thế hệ khác nhau.
- Đề tài chỉ đi sâu tập trung nghiên cứu vào các tập thơ tiêu biểu của ba
nhà thơ từ góc nhìn văn hóa. Đi sâu tìm hiểu về văn hóa Thái Nguyên qua ba
nhà thơ tiêu biểu.
- Làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Đánh giá những thành
công và đóng góp của ba nhà thơ trong nền văn học thơ Thái Nguyên.

- Đề tài cũng giúp người viết hiểu thêm về con người và phong cách sáng
tác của các nhà thơ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu ở trên,chúng tôi thực hiện
các nhiệm vụ sau:
- Vận dụng lí thuyết về văn hóa để đi sâu tìm hiểu.
- Tìm hiểu khái quát về ba nhà thơ và đi sâu vào các tập thơ có giá trị của
các nhà thơ.
- Tìm hiểu về văn hóa và con người Thái Nguyên đã tạo nên những nét
đặc sắc cho ba nhà thơ.
- Tìm hiểu đặc điểm thơ của ba nhà thơ trên một số phương diện nội
dung và nghệ thuật thơ.
- Xác định những đóng góp của ba nhà thơ cho thơ Thái Nguyên.
7


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn
Thúy Quỳnh từ góc nhìn văn hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Đi sâu vào nghiên cứu các tập thơ của các nhà
thơ và chỉ ra được sự khác biệt của ba thế hệ nhà thơ.
Ma Trường Nguyên thể hiện qua bốn tập thơ: “Cây nêu”, “Trái tim
không ngủ”, “Câu hát vắt qua vai”, "Mở núi".
Võ Sa Hà thể hiện qua bốn tập thơ: “Sóng nhạc hồn tôi”, “Ngựa đá”,
“Cánh chim về núi”, “Lửa trắng”.
Nguyễn Thúy Quỳnh thể hiện qua ba tập thơ: “Giá mà em từ chối”,
“Mưa mùa đông”, “Những tích tắc quanh tôi”.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng những
phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
7. Đóng góp của luận văn
- Khẳng định được những thành tựu và đóng góp của Ma Trường Nguyên,
Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh trong thơ Thái Nguyên.
- Luận văn thể hiện rõ sự khác biệt trong phong cách sáng tác của ba thế
hệ khác nhau khi viết về thơ Thái Nguyên.
- Góp thêm cái nhìn mới về thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn văn hóa.
- Đồng thời ở mức độ nào đó , luận văn cũng đóng góp làm tài liệu tham
khảo cho công tác học tập, nghiên cứu và giảng dạy về văn học Thái Nguyên.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có ba chương:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Cảm thức văn hóa trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà,
Nguyễn Thúy Quỳnh
Chương 3: Tương đồng và khác biệt trong biểu hiện cảm thức văn hóa
qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh

8


Chương 1
GIỚI THUYẾT CHUNG
Trong chương 1, đề tài xây dựng những khái niệm cần thiết để tìm hiểu đề
tài: Khái niệm văn hóa, khái niệm văn học, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học.
Đồng thời tìm hiểu khái quát về quá trình hình thành và phát triển thơ Thái

Nguyên… Từ đó đi sâu vào tìm hiểu ba nhà thơ Thái Nguyên và quá trình sáng
tác thơ của họ.
1.1. Khái niệm văn hóa, văn học
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra và chi phối toàn bộ hoạt
động của con người. Với vai trò quan trọng của mình, văn hóa đã trở thành một
trong những đối tượng được nghiên cứu nhiều nhất của khoa học nhân văn.
Thêm vào đó, văn hóa là một khái niệm rất phức tạp cho nên luôn tạo ra những
cuộc tranh luận hết sức phong phú. Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về văn hóa, sự khác nhau này tùy thuộc vào góc độ, phương diện mà người
nghiên cứu muốn nhấn mạnh. Theo thống kê, hiện nay có gần 500 định nghĩa
khác nhau về văn hóa. Tuy nhiên, ở đề tài này của mình, chúng tôi lựa chọn sử
dụng khái niệm văn hóa của một số nhà nghiên cứu tiêu biểu là Trần Ngọc Thêm,
Đào Duy Anh, Hồ Chí Minh và của UNESSCO làm nền tảng cơ sở.
Trần Ngọc Thiêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam đã đưa ra định
nghĩa: "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội" [80;10]. Đây là định
nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến và lựa chọn làm công cụ đắc lực
trong việc tìm hiểu văn hóa. Cũng từ khái niệm đó mà Vũ Ngọc Thêm đã đưa
ra hệ thống cấu trúc văn hóa bao gồm bốn tiểu hệ cơ bản là: văn hóa nhận thức,
văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa
ứng xử với môi trường xã hội.
9


Đào Duy Anh trong cuốn Văn hóa là gì? (1945) đã nhắc đến mối quan hệ
giữa văn hóa với sinh hoạt đồng thời phân tích sâu sắc mối quan hệ này để từ đó đi
đến quan niệm "Văn hóa là phương thức sinh hoạt". Với cách tiếp cận này, ông đã
đề cập đến phạm vi rất rộng của văn hóa, bao hàm tất cả các phương diện sinh

hoạt của con người, từ sinh hoạt vật chất, sinh hoạt tinh thần đến sinh hoạt xã hội.
Cái sinh hoạt mà nhà nghiên cứu dùng để chỉ văn hóa ở đây không phải là những
sinh hoạt bình thường trong cuộc sống hàng ngày mà là những sinh hoạt mang
tính chất sáng tạo. Ông cho rằng tất cả những sáng tạo đó đã kết tinh thành những
giá trị văn hóa của dân tộc, của nhân loại. Từ quan niệm đó, ông đi đến định
nghĩa: "Văn hóa là những giá trị biểu hiện cuộc sinh hoạt mạnh mẽ của loài người
trong cả phương diện vật chất, tinh thần và xã hội". Nó bao gồm: hình thái kinh tế,
hình thái chính trị, pháp luật, binh chế, giáo dục, ngôn ngữ, văn tự, văn học, nghệ
thuật, phong tục, tập quán... Như vậy, Đào Duy Anh đã xác định được cấu trúc
của văn hóa, mặc dù cách phân chia còn khá đơn giản nhưng nó vẫn có một ý
nghĩa khá lớn trong giai đoạn ở nước ta chưa có chuyên ngành lý luận văn hóa.
Đặc biệt khi tìm hiểu khái niệm văn hóa của các nhà nghiên cứu, chúng tôi
phát hiện ra có một điểm khá thú vị là giữa hai nhà nghiên cứu Đào Duy Anh và
Hồ Chí Minh có sự gặp gỡ nhau trong khái niệm văn hóa. Hồ Chí Minh cho rằng:
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật,
những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi hình thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn".
Ở nước ngoài, theo thời gian, khái niệm văn hóa được mở rộng và được
E.Tylor đưa vào trong cuốn sách "Văn hóa nguyên thủy" (1871). Sau khái niệm
của E.Tylor đã có rất nhiều định nghĩa về văn hóa được đưa ra, mỗi định nghĩa lại
phản ánh một cách nhìn, một cách đánh giá khác nhau. Trong số đó, định nghĩa
của UNESCO được đánh giá là có tính khái quát cao: "Văn hóa là tổng hợp các hệ
thống bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Văn hóa
không thuần túy bó hẹp trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn bao hàm cả
10



phương thức sống, những quyền cơ bản của con người, truyền thống, tín ngưỡng"
[dẫn theo cuốn Hướng tới một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, 78;18]. Đây
là định nghĩa mang tính tổng quát, nó nhấn mạnh đến tính riêng biệt của mỗi nền
văn hóa nhưng cũng đảm bảo mang đầy đủ nội hàm định nghĩa về văn hóa.
Qua những định nghĩa trên, chúng ta có thể nhận thấy văn hóa không
phải là một lĩnh vực riêng biệt. Đó là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra và phục vụ cho sự phát triển của xã hội. Văn hóa đã
cấu tạo nên một hệ thống các giá trị truyền thống, thẩm mĩ và lối sống mà từng
dân tộc dựa vào đó để khẳng định bản sắc riêng của mình.
1.1.2. Khái niệm văn học
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã
hội và con người. Trong đó phương thức sáng tạo của văn học được thông qua
sự hư cấu và nội dung các đề tài được thể hiện qua ngôn ngữ. Văn học có nhiều
thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch bản, lý luận phê bình.
Văn học có lịch sử phát triển từ lâu đời từ văn học dân gian (truyền miệng) đến
văn học viết. Văn học là một bộ phận quan trọng của văn nghệ.
Xét theo nghĩa rộng thì văn học chính là thuật ngữ dùng để gọi chung
cho mọi hành vi ngôn ngữ nói - viết và các tác phẩm ngôn ngữ, bao gồm cả
những tác phẩm được xếp vào loại chính trị, triết học, tôn giáo. Như vậy theo
nghĩa rộng thì văn học chính là văn hóa.
Xét theo nghĩa hẹp thì văn học lại là văn hóa - nghệ thuật mà chúng ta
vẫn thường dùng hiện nay. Nó bao gồm tất cả những tác phẩm ngôn từ được
sáng tác bằng hư cấu và tưởng tượng. Như vậy, nếu chúng ta hiểu văn học theo
nghĩa hẹp thì những tác phẩm về chính trị, tôn giáo, triết học lại nằm ngoài
phạm trù này. Nói cách khác, văn học hiểu theo nghĩa hẹp chính là văn chương.
Văn học chính là một hình thái ý thức xã hội thẩm mỹ. Văn học được bắt
nguồn từ đời sống, phản ánh mọi khía cạnh của đời sống hay bày tỏ một quan điểm,
một lập trường đối với đời sống, một sự việc, hiện tượng, số phận trong xã hội.
Theo định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học: văn học là sự phản ánh
đời sống xã hội, thể hiện nhận thức và sự sáng tạo của con người. Văn học lấy

con người làm đối tượng nhận thức trung tâm. Văn học nhận thức con người

11


với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống
phong phú và phức tạp của nó. Văn học xây dựng những hình tượng nghệ thuật
có khả năng tác động vào trí tuệ, vào liên tưởng của con người.
Do đó, văn học có thể phản ánh quá trình vận động không ngừng của đời
sống trong không gian và thời gian ở bất cứ giới hạn nào.
1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Giữa văn học và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, mật thiết với nhau. Văn
học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, phong tục, tập quán, đạo
đức, lễ nghi... là những bộ phận cấu thành nên văn hóa. Nếu như văn hóa là sự
biểu hiện của những quan niệm hay cách ứng xử của con người đối với tự nhiên
hoặc với một vấn đề của xã hội thì văn học lại là những tác phẩm lưu giữ lại
những biểu hiện đó một cách sinh động nhất. Để có thể có được những đặc
trưng riêng biệt, những giá trị riêng trong văn hóa của từng quốc gia, dân tộc
thì mỗi dân tộc, mỗi đất nước trên thế giới phải trải qua một quá trình hình
thành lâu dài với những sáng tạo, chọn lọc và đấu tranh thật sự nghiêm túc. Văn
học vừa thể hiện con đường đấu tranh, quá trình hình thành vừa là nơi khẳng
định những giá trị văn hóa đã được định hình, chọn lựa.
Văn học biểu hiện văn hóa cho nên có thể coi văn học chính là tấm gương
độc đáo của văn hóa. Trong các tập thơ, ta tìm thấy hình ảnh văn hóa qua ngòi
bút tái hiện của nhà thơ. Tác phẩm nào cũng ra đời trong những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, trong những bối cảnh văn hóa khác nhau. Vì thế, văn học mỗi thời kì
đều mang hơi thở văn hóa đặc trưng của giai đoạn mà nó trải qua và tồn tại.
Bản thân nhà thơ với thế giới nghệ thuật của mình là một sản phẩm văn
hóa. Như đã nói, nền văn học nào cũng được ra đời trong bối cảnh văn hóa nhất
định. Nó chi phối cách nhìn thực tại, quan niệm sáng tác của nhà thơ nên trong

các trang thơ của mỗi người, ta đều thấy thấp thoáng bóng dáng của văn hóa
qua từng câu văn, hình ảnh. Chính không gian văn hóa này chi phối cách xử lí
đề tài, thể hiện chủ đề, nội dung, cách xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp
nghệ thuật… trong quá trình sáng tác để làm nổi bật thông điệp, tư tưởng của
tác giả cùng như phản ánh một phần tính chất của xã hội. Đồng thời, văn hóa
cũng chi phối đến hoạt động nhận thức, cảm thụ và đánh giá trong quá trình
tiếp nhận tác phẩm văn học của độc giả.
12


Như vậy, các tác phẩm văn học được coi là những cơ sở, những dữ liệu
đáng tin cậy để nghiên cứu về các đặc trưng văn hóa của một dân tộc trong một
thời đại nào đó. Chẳng hạn, nghiên cứu về các tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn
đoàn hay các bài thơ của các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới chúng ta biết
được có sự xâm nhập của văn hóa phương Tây vào Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ thật sai lầm nếu như chỉ cho rằng mối quan hệ giữa văn
hóa và văn học là mối quan hệ một chiều: văn học chỉ là tấm gương phản chiếu
những biểu hiện của văn hóa. Bởi nếu coi như vậy thì sẽ vô hình chung làm cho
văn hóa xóa mờ, nuốt chửng những giá trị riêng của văn học.
Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học không phải là mối quan hệ một
chiều, đơn nhất mà nó là mối quan hệ hai chiều, song song. Tức là nếu như văn
hóa chi phối đến quá trình sáng tác, tiếp nhận và sự phát triển của văn học thì
ngược lại, văn học cũng tác động trở lại đến văn hóa. Bằng nghệ thuật ngôn từ,
các nhà văn, nhà thơ trong các tác phẩm văn học của mình đã lên án, đấu tranh
quyết liệt đối với những biểu hiện lỗi thời, cổ hủ không còn phù hợp với thời
đại hay vi phạm nghiêm trọng đến nhân quyền của con người. Đồng thời khẳng
định, cổ vũ, động viên, kêu gọi duy trì những giá trị văn hóa tiến bộ, nhân bản.
Bao giờ cũng vậy, từ xưa đến nay, dù phản ứng trước những biểu hiện văn hóa
tiêu cực hay cổ vũ cho sự tiếp biến của những yếu tố văn hóa tích cực thì những
nhà văn, nhà thơ cũng là những người đi tiên phong đầu tiên.

Xuất phát từ mối quan hệ qua lại giữa văn hóa và văn học mà xu hướng
tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa được coi là một hướng tiếp cận cần
thiết và có nhiều triển vọng. Cách tiếp cận này giúp chúng ta hiểu sâu hơn, lý
giải toàn diện hơn những gì được đề cập trong tác phẩm. Nói một cách đơn
giản, tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hóa thực chất là việc chúng ta đặt tác
phẩm văn học đó trong một không gian văn hóa với những đặc trưng cơ bản,
những đặc trưng đó đã được thẩm thấu, ẩn hiện trong thế giới nghệ thuật của
nhà văn. Có hai xu hướng thẩm thấu của văn hóa trong văn học: một là những
giá trị văn hóa truyền thống được lưu truyền từ lâu đời, từ thế hệ này sang thế
hệ khác như một mạch nước ngầm cứ rì rầm chảy suốt, không ngừng dần dần
thấm vào trong cách cảm, cách nghĩ, cách sử dụng ngôn từ hay cách ứng xử...

13


của nhà văn, nhà thơ một cách tự nhiên, vốn có. Hai là những giá trị văn hóa
mới được hình thành trong thời đại mà tác giả đó đang sinh sống; chính vì là
mới cho nên nó tồn tại rất nhiều những thắc mắc, cám dỗ đòi hỏi các nhà văn
tìm hiểu, lý giải, đánh giá bằng nghệ thuật ngôn từ của mình. Đôi khi, trong
một số tác phẩm của một số tác giả có sự hòa quyện, đồng điệu giữa hai xu
hướng thẩm thấu này của văn hóa.
Chính vì văn học là cái gương phản chiếu văn hóa cho nên văn học được
coi là cầu nối, là một trong những phương tiện góp phần duy trì, bảo lưu và phát
triển các giá trị văn hóa truyền thống. Cũng nhờ có sự ẩn hiện của các yếu tố văn
hóa mà chúng ta dễ dàng tìm được sự tiếp nối và gần gũi giữa các nhà văn, nhà
thơ của thời đại trước với các nhà văn, nhà thơ ở thời đại sau hay giữa các nhà
văn, nhà thơ trong cùng một thời đại lịch sử. Đặc biệt, văn học có vai trò rất lớn
trong việc giáo dục đạo đức cho con người: văn học nêu gương những người tốt,
lên án những kẻ xấu xa, độc ác, vô nhân tính; văn học khơi dậy sự ăn năn, hối
hận ở con người như một tòa án lương tâm. Thông qua các tác phẩm văn học,

người đọc tự rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm về cách ứng xử đạo đức,
biết được nên làm như thế nào thì đúng... Mặc dù, Văn học có tính giáo dục cao
nhưng sự giáo dục của văn học không hề cứng nhắc, rập khuôn, gượng ép mà
ngược lại rất tự nhiên, dễ đi vào lòng người. Bởi văn học không đưa ra những
triết lý khô khan, cứng nhắc, khó hiểu mà giáo dục thông qua những hình tượng,
những nhân vật sinh động, chân thực. Nhìn vào thực tiễn, chúng ta thấy ở tất cả
các quốc gia từ xưa đến nay không có một quốc gia nào trong hệ thống giáo dục
lại thiếu bộ môn văn học bởi văn học và giáo dục là hai lĩnh vực cùng đồng hành
với nhau trong việc xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng tồn tại trên thế giới nhưng mỗi dân tộc, mỗi quốc gia lại có một hệ
thống những phong tục, tập quán riêng, mang tính đặc trưng riêng. Tôn trọng
bản sắc văn hóa cũng chính là tôn trọng những phong tục, tập quán đó; và vì
phong tục, tập quán có tính đặc trưng cho từng dân tộc cho nên chúng ta không
được lấy chuẩn mực trong phong tục, tập quán của dân tộc này để so sánh với
phong tục, tập quán của dân tộc khác. Trong quá trình vận động của văn học
Việt Nam qua các thời kì lịch sử, chúng tôi thấy có sự xuất hiện của một dòng
14


văn viết về phong tục, đặc biệt là các phong tục, tập quán, lễ nghi ở chốn thôn
quê: Chân quê (Nguyễn Bính), Việc làng, Lều Chõng... (Ngô Tất Tố), Vợ
chồng A Phủ (Tô Hoài), Nằm vạ (Bùi Hiển)...
Tóm lại, văn học và văn hóa luôn luôn có mối tác động qua lại với nhau.
Một nhà văn đích thực cũng chính là một nhà hoạt động văn hóa chân chính,
tác phẩm văn học mà họ sáng tạo ra cũng chính là một tác phẩm văn hóa của
một dân tộc nào đó và khi đến với độc giả, được độc giả tiếp nhận thì quá trình
tiếp nhận tác phẩm văn học đó cũng chính là quá trình thưởng thức, tiếp nhận
văn hóa. Thời đại ngày nay, với sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ giữa các quốc
gia cũng làm cho nền văn hóa của các quốc gia, dân tộc ngày càng đa dạng hơn,
kéo theo đó văn học cũng ngày càng đa dạng, phong phú hơn.

1.2. Thơ Thái Nguyên và hành trình kiến tạo những giá trị văn hóa
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển thơ Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh nằm ở phía đông bắc Việt Nam với diện tích
hơn 3000Mm2, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên là tỉnh nổi tiếng với
những đồi chè bát ngát, với những nhà máy thép có sản lượng khai thác hàng
năm lớn và tốt vào loại nhất nhì trong cả nước. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, đây chính là Thủ đô gió ngàn, căn cứ địa
cách mạng của cuộc kháng chiến Việt Nam. Ngày nay, Thái Nguyên đã và
đang trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực đông bắc hay nói
rộng hơn là của cả vùng trung du và miền núi phía bắc Việt Nam.
Thái Nguyên cũng là một trong những mảnh đất có truyền thống văn
hóa từ lâu đời, những truyền thống văn hóa đó chính là mầm sống thúc đẩy sự
ra đời và phát triển của văn học. Cũng như tiến trình phát triển của văn học cả
nước, văn học nói chung và thơ ca Thái Nguyên nói riêng cũng được phát triển
bắt đầu từ văn học dân gian, thơ ca dân gian. Thái Nguyên là một tỉnh có nhiều
dân tộc anh em sinh sống, ngoài người Kinh còn có người Tày, Nùng, Sán Dìu,
Sán Chay, Dao, H'Mông và người Hoa cho nên nơi đây có một nền văn hóa rất
phong phú, đa dạng. Văn học dân gian Thái Nguyên chính là tổng hòa của tất
cả những giá trị văn học dân gian của các dân tộc anh em đang sinh sống trên
địa bàn Thái Nguyên. Nó vừa chứa đựng những nguồn sống trong mạch chảy

15


chung của văn hóa cộng đồng người Việt Nam nói chung vừa tích tụ những nét
bản sắc mang tính đặc trưng riêng của cộng động dân cư Thái Nguyên.
Trải qua rất nhiều những biến thiên của lịch sử và thời đại, văn học dân
gian Thái Nguyên vẫn liên tục phát triển với nhiều loại hình khác nhau như:
loại hình tự trự, loại hình trữ tình và loại hình trung gian. Ở đây, do sự giới hạn
của đối tượng nghiên cứu cho nên chúng tôi xin phép không nhắc đến loại hình

tự sự. Loại hình trữ tình có tính bao trùm trong văn học dân gian Thái Nguyên
là ca dao. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì ca dao bao gồm tất cả các thể loại hát
dân ca trong đời sống sinh hoạt dân gian các dân tộc Thái Nguyên, đặc biệt là
các bài hát Sli, Lượn. Những bài hát dân ca này đã phản ánh rõ nét sự giao lưu
văn hóa giữa người Kinh và người Tày.
Loại hình trung gian trong văn học dân gian Thái Nguyên bao gồm tục
ngữ, các bài hát mo, hát pụt, loàn, mại xòe, phuối rọi... Thể loại này cho đến
ngày nay vẫn ít được nghiên cứu đến.
Văn học dân gian Thái Nguyên nói chung và loại hình trữ tình dân gian
nói riêng chính là một kho báu về trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, thẩm mĩ của nhân
dân các dân tộc anh em ở Thái Nguyên. Nó chính là cội nguồn, là nền tảng cho
sự phát triển của văn học nói chung, thơ ca nói riêng giai đoạn sau này.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, cùng với các nhà thơ đàn anh ở
mọi miền đất nước, các tác giả là người dân tộc ít người có quê gốc ở Việt Bắc
đã viết những tác phẩm bằng tiếng Tày, Dao, Nùng góp phần làm cho văn học
kháng chiến thêm đa dạng, nhiều màu sắc.
Năm 1957, hội Văn nghệ Việt Bắc được thành lập ở thị xã Thái Nguyên
đã tạo nên một cuộc hội tụ lớn của tất cả các nhà thơ ở sáu tỉnh miền núi phía
bắc là Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn.
Sang đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước bùng nổ đã đưa văn
học bước sang một giai đoạn mới - giai đoạn toàn Đảng, toàn dân tập trung,
dồn toàn bộ sức lực cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước.
Những tác phẩm sáng tác trong thời kì này đều mang hơi thở nóng hổi của thời
đại. Tuy nhiên, do yêu cầu của thời đại mà trong giai đoạn của hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống mỹ cứu nước, văn xuôi là thể loại phát triển hơn
thơ ca trong văn học Thái Nguyên.
16


Năm 1987, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên ra đời đã tạo nên

một bước ngoặt mới của thơ ca tỉnh nhà.
Bước sang thế kỉ XXI, cùng với sự chuyển mình của đất nước, nền văn
học Thái Nguyên trong đó có thơ ca có bước tiến mới, đạt được nhiều thành tựu
mới cả về số lượng, giá trị tác phẩm cũng như đội ngũ sáng tác. Hòa vào dòng
chảy văn chương của thời đại, sự xuất hiện của hàng loạt các nhà thơ mới bên
cạnh những nhà thơ cũ với nhiều lứa tuổi, nhiều thể loại, nhiều bút pháp khác
nhau đã làm cho kho tàng thơ ca nói riêng, văn chương Thái Nguyên nói chung
ngày càng thêm phong phú. Tiêu biểu là: Trần Thị Vân Trung, Võ Sa Hà, Ma
Trường Nguyên, Minh Thắng, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Hoàng Tố Nga, Cao Hồng... Trong thơ của mình, các nhà thơ đều ít nhiều tự
tạo cho mình một hướng đi riêng, không hòa lẫn với nhau: có nhà thơ thì nhẹ
nhàng, có nhà thơ lại mạnh mẽ, thách thức hoặc khiêm nhường, gai góc hoặc
dịu êm... Tuy có những nét rất riêng như vậy nhưng giữa các nhà thơ vẫn có sự
gặp gỡ nhau ở nỗi buồn, sự cô đơn và đều có sự bứt phá về thi pháp thơ.
Các nhà thơ sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước thống nhất này đều
hướng ngòi bút của mình vào những biểu hiện của cuộc sống mới với những
chủ đề về tình yêu, gia đình, cuộc sống và con người. Sáng tác của các nhà thơ
giai đoạn này đã ít nhiều khẳng định được giá trị thông qua một số giải thưởng:
giải thưởng thơ của Văn nghệ Quân đội và Báo Văn nghệ, giải thưởng của Ủy
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học Nghệ thuật Việt Nam, giải thưởng
trong cuộc thi thơ tình... Điều này đã chứng tỏ thơ ca Thái Nguyên ngày càng
có một vị trí quan trọng trong nền thơ ca chung của cả dân tộc.
1.2.2. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của thơ Thái Nguyên
1.2.2.1. Giá trị nội dung của thơ Thái Nguyên
Giá trị nội dung thơ Thái Nguyên có sự thay đổi theo từng thời kì lịch sử
nhất định.
Ở thế kỉ trước, khi đất nước còn chìm trong hai cuộc kháng chiến chống
Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, mọi sáng tác nghệ thuật đều được giới hạn
trong khuôn khổ. Văn chương chủ yếu được sáng tác nhằm mục đích chiến đấu:
vạch trần bản chất tàn ác, giả dối, mị dân của chính quyền tay sai bù nhìn; sự

đạo đức giả của người Pháp núp sau lá cờ Tự do - Bình đẳng - Bác ái, khai hóa
17


văn minh nhưng thực chất là vào biến nước ta thành nô lệ; tái hiện cuộc sống
đau khổ, bế tắc đến cùng đường, tha hóa của những người dân Việt Nam hay
nêu gương những anh hùng bất khuất nhằm cổ vũ, động viên, khơi dậy lòng
yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc. Cũng xuất phát từ mục đích, chức năng ấy của
văn chương mà đề tài, cảm hứng của các nhà thơ cũng bị giới hạn. Những đề
tài viết về cái chung được đẩy mạnh còn những đề tài mang tính chất riêng tư,
cá nhân chẳng hạn như tình yêu đôi lứa lại bị hạn chế.
Sang đến thế kỉ XXI, mọi đề tài, cảm hứng đều được tự do mở rộng.
Chức năng tuyên truyền, giáo dục không còn là chức năng chủ yếu, cơ bản nữa,
văn học cũng như thơ ca lúc này mang nhiều chức năng hơn, đặc biệt là chức
năng thẩm mĩ - chức năng cơ bản của văn chương đã được đề cao. Các nhà thơ
được thỏa hồn mình vào những cảm hứng mới. Các nhà thơ Thái Nguyên bắt
đầu tìm về với cội nguồn, với truyền thống giàu màu sắc của dân tộc mình hay
cảm hứng về chính quê hương Thái Nguyên với những đồi chè thơm ngát, với
dòng sông Cầu thơ mộng hay nàng Công, chàng Cốc đầy huyền thoại. Cảm
hứng về tình yêu, đôi lứa được các nhà thơ khai thác rất nhiều bởi đó là một thứ
tình cảm phức tạp, nhiều màu nhiều vẻ của đời sống tinh thần mỗi con người.
Cảm hứng về thế sự và cảm hứng về chính công việc sáng tạo nghệ thuật cũng
được các nhà thơ khai thác mạnh. Với sự phong phú trong cảm hứng đã làm
cho thơ ca Thái Nguyên trở lên phong phú, nhiều vẻ hơn, hấp dẫn hơn, bao
quát hơn đối với cuộc sống và con người.
1.2.2.2. Giá trị nghệ thuật của thơ Thái Nguyên
Thơ ca Thái Nguyên theo thời gian, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với
biết bao nhiêu thăng trầm đã có sự đổi mới về hình thức thơ trên cả ba phương
diện là thể thơ, hình ảnh thơ và ngôn ngữ thơ.
Về thể thơ, các nhà thơ đã ít vận dụng những thể thơ truyền thống với

những niêm, luật, những ước lệ, tượng trưng; nếu có sử dụng thể thơ truyền
thống thì cũng là sự vận dụng sáng tạo hay kết hợp. Thay vào đó, các thể thơ
hiện đại được sử dụng nhiều hơn bởi nó không gò bó khiến cho mọi cảm xúc,
tâm tư, tình cảm của chủ thể sáng tạo bộc lộ một cách tự nhiên, đầy đủ nhất.
Về hình ảnh thơ và ngôn ngữ thơ: những hình ảnh và ngôn ngữ thơ đã
thoát khỏi sự sáo mòn, sự rập khôn, ước lệ, tượng trưng mà trở lên linh hoạt
18


×