Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

PHÂN TÍCH NHỮNG TIỀM NĂNG DU LỊCH CỦA TỈNH QUẢNG NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.21 KB, 50 trang )

TIỀM NĂNG DU LỊCH
QUẢNG NINH

Mục lục
I.

Lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh
Quảng Ninh.

II. Điều kiện tự nhiên.
III. Hệ thống cảnh quan tự nhiên.
IV. Hệ thống di sản văn hóa.
V. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật.

1


Lời mở đầu
Nhắc tới du lịch Việt Nam không thể không nhắc tới tỉnh Quảng Ninh.
Đây là một trong những tỉnh có tiềm năng cũng như điều kiện để phát triển về
kinh tế du lịch hàng đầu Việt Nam. Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng
Đông Bắc Việt Nam với nhiều thành phố lớn như Uông Bí, Cẩm Phả, Móng
Cái, Hạ Long. Nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc và vùng duyên
hải Bắc Bộ.
Quảng Ninh được ví như một Việt Nam thu nhỏ vì có cả biển, đảo, đồng
bằng, trung du, đồi núi và đường biên giới. Không những thế Quảng Ninh
còn có nhiều dân tộc sinh sống như : Kinh, Tày, Dao, Sán Chay, Sán Dìu,
Hoa.
Khi đến với Quảng Ninh các bạn sẽ được trải nhiệm qua nhiều tầng lớp
không gian khác nhau, rất thú vị và độc đáo. Và hôm nay chúng ta sẽ cùng
tìm hiểu về mảnh đất xinh đẹp này.



2


Nội dung.
I.

Lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh Quảng Ninh.
1.1. Thời tiền sử.
Quảng Ninh là vùng đất lịch sử lâu đời. Ở khu vực Vịnh Hạ Long đã khảo

cổ được di chỉ của người tiền sử từ 3000 - 1500 năm TCN. Đặc trưng trong giai
đoạn này là Văn hóa Hạ Long. Với nhiều di chỉ khảo cổ vỏ sò dùng làm trang
sức và tiền trao đổi. Xương thú và xương người Cổ đại. Khi hình thành Nhà
nước đầu tiên của người Việt. Thời Hùng Vương vùng đất Quảng Ninh nay là bộ
Lục Hải. Một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang.
1.2. Thời Phong kiến.
Khu vực tỉnh Quảng Ninh hiện nay thời phong kiến có tên là:
Thời Tự chủ và nhà Ngô là Lục Châu.
Thời nhà Lý là Lộ Đông Hải.
Thời nhà Trần là Lộ Hải Đông.
Thời nhà Lê là Trấn An Bang.
Thời nhà Nguyễn là Tỉnh Quảng Yên.
1.3. Thời Pháp thuộc.
Sau khi xâm chiếm Bắc Kỳ, năm 1899 thực dân Pháp lại tách một phần
bắc tỉnh Quảng Yên mà lập tỉnh Hải Ninh. Thấy được tài nguyên khoáng sản
than đá. Thực dân Pháp tăng cường khai thác than đá. Cùng với công nghiệp
than, Quảng Ninh là một trong những nơi giai cấp công nhân Việt Nam hình
thành sớm nhất.
Cuộc Tổng bãi công của hơn 30,000 Thợ Mỏ Ngày 12 tháng 11 năm 1936

đòi tăng lương giảm giờ làm giành thắng lợi vẻ vang đã trở thành một trong

3


những sự kiện lịch sử tiêu biểu nhất của phong trào cách mạng Việt Nam trong
thời kỳ đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ và độc lập dân tộc
1.4. Sau cách mạng tháng tám.
Sau Cách mạng tháng Tám Việt Nam giành độc lập. Năm 1963 với nền
tảng là khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa thành lập tỉnh Quảng Ninh.
II. Điều kiện tự nhiên.
2.1. Vị trí địa lý.
Quảng Ninh là một tỉnh ở địa đầu Ðông Bắc Việt Nam, nằm giữa các kinh
độ đông 106º26’-108º31’3’’ và các vĩ độ bắc 20º40’-21º40’, khoảng dài nhất từ
đông sang tây là 195km, từ bắc xuống nam là 102km. Là một tỉnh miền núi
duyên hải, Quảng Ninh có 80% diện tích đất đai là đồi núi. Hơn 2.000 hòn đảo
nổi trên mặt biển phần lớn đều là núi, với tổng diện tích là 620km². Phía bắc
giáp Quảng Tây (Trung Quốc) với đường biên giới dài 132,8km và tỉnh Lạng
Sơn. Phía tây giáp Bắc Giang, Hải Dương, phía nam giáp Hải Phòng. Phía đông
nam giáp biển Ðông với 250km bờ biển.
2.2.Điều kiện tự nhiên.
Khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam.
Một năm có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Ðây là vùng biển nhiệt đới gió mùa. Mùa
hạ nóng, ẩm, mưa nhiều, gió thịnh hành là gió nam. Mùa đông lạnh, khô hanh, ít
mưa, gió đông bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 21ºC. Mùa lạnh
thường bắt đầu từ hạ tuần tháng 11 và kết thúc vào cuối tháng 3 năm sau, trong
khi đó mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng. Mùa ít mưa bắt
đầu từ tháng 11 cho đến tháng 4 năm sau, mùa mưa nhiều bắt đầu từ tháng 5và
kết thúc vào đầu tháng 10. Ngoài ra, do tác động của biển, nên khí hậu của

Quảng Ninh nhìn chung mát mẻ, ấm áp, thuận lợi đối với phát triển nông

4


nghiệp, lâm nghiệp và nhiều hoạt động kinh tế khác. Ðộ ẩm trung bình hàng năm
là 84%. Lượng mưa hàng năm lên đến 1.700 – 2.400mm.
Ðịa hình được chia ra thành các vùng đồi núi, vùng trung du đồng bằng và
vùng biển đảo. Vùng núi miền đông gồm hai dãy núi chính là Quảng Nam Châu
và Cao Xiêm có độ cao trên dưới 1.400m. Miền tây là những dãy núi thuộc cánh
cung Ðông Triều với hai đỉnh Yên Tử và Am Váp cao trên 1.000m. Vùng trung
du và đồng bằng ven biển: gồm những dải đồi thấp và những cánh đồng ven các
triền sông và bờ biển, trong đó đồng bằng Yên Hưng và Ðông Triều là mầu mỡ
nhất và là những vựa lúa chính của tỉnh.
Quảng Ninh có tất cả khoảng 30 sông, suối với chiều dài trên 10 km. Diện
tích lưu vực thông thường không quá 300 km2, trong đó có 4 con sông lớn là hạ
lưu sông Thái Bình, sông Tiên Yên và sông Ba Chẽ. Tuy nhiên, hầu hết các sông
suối đều ngắn, nhỏ và độ dốc lớn. Lưu lượng và lưu tốc rất khác biệt giữa các
mùa.
III. Hệ thống cảnh quan thiên nhiên.
3.1. Khái quát.
Quảng Ninh là một địa danh giàu tiềm năng du lịch, là một đỉnh của tam
giác tăng trưởng du lịch miền Bắc Việt Nam, Quảng Ninh có danh thắng nổi
tiếng là vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế
giới và di sản thế giới bởi giá trị địa chất địa mạo. Vịnh Hạ Long là địa điểm du
lịch lý tưởng của Quảng Ninh cũng như miền bắc Việt Nam. Tiềm năng du lịch
Quảng Ninh nổi bật với:
Vịnh Hạ Long một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới (N7W), di sản
thiên nhiên thế giới, có diện tích 1.553 km2 với 1969 đảo. Trong đó khu di sản
thế giới được UNESCO công nhận có diện tích trên 434 km2 với 788 đảo, có giá

5


trị đặc biệt về văn hoá, thẩm mĩ, địa chất, sinh học và kinh tế. Trên vịnh có
nhiều đảo đất, hang động, bãi tắm, cảnh quan đẹp thuận lợi cho phát triển nhiều
điểm, nhiều hình thức du lịch hấp dẫn. Vịnh Hạ Long cùng với đảo Cát
Bà là khu du lịch trọng điểm quốc gia, động lực phát triển vùng du lịch Bắc Bộ.
Vịnh Bái Tử Long nằm liền với vịnh Hạ Long ở phía bắc với nhiều đảo đá
trải dài ven biển. Một vẻ đẹp hoang sơ cùng với các bãi tắm tại các đảo như
Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng...(Vân Đồn). Phục vụ các du khách thích
khám phá tận hưởng vẻ đẹp nguyên sơ của thiên nhiên.
Hàng chục bãi tắm bãi tắm đẹp hiện đại như Trà Cổ (Móng Cái), Bãi
Cháy, đảo Tuần Châu, Bãi dài ( Vân đồn )… được cải tạo, nâng cấp với nhiều
loại hình dịch vụ phục vụ đa dạng các nhu cầu của du khách.
Đảo Cô Tô (phía đông bắc Quảng Ninh). Các bãi tắm đẹp như Hồng Vàn,
Bắc Vàn, Vàn Chảy, đảo Cô Tô Con. Được đánh giá là những bãi biển đẹp nhất
tại phía bắc.
3.2. Kỳ quan thiên nhiên thế giới – Vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long đã được UNESSCO công nhận là kỳ quan thiên nhiên thế
giới năm 2012. Với cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nên thơ. Hạ Long xúng đáng trở
thành 7 kỳ quann thiên nhiên mới của thế giới.
3.2.1. Truyền thuyết.
Vịnh Hạ Long có từ xa xưa do những kiến tạo địa chất. Tuy nhiên, trong
tâm thức của người Việt từ thời tiền sử với trí tưởng tượng dân gian và ý niệm
về cội nguồn con Rồng cháu Tiên, một số truyền thuyết cho rằng khi người
Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo
một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ
6



ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức
phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức
tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước
tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người
nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con
không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ
con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp
xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ
(bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15 km).
Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc
ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh
xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của
thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
3.2.2. Tên gọi.
Tên gọi Hạ Long đã thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử, thời Bắc thuộc khu
vực này được gọi là Lục Châu, Lục Hải. Các thời Lý, Trần, Lê Vịnh mang các
tên Hoa Phong, Hải Đông, An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn hay Lục Thủy. Tên Hạ
Long (rồng đáp xuống) mới xuất hiện trong một số thư tịch và các bản đồ hàng
hải của Pháp từ cuối thế kỷ 19.
Trên tờ Tin tức Hải Phòng xuất bản bằng tiếng Pháp có bài viết về sự xuất
hiện của sinh vật giống rồng trên khu vực là vịnh Hạ Long ngày nay với nhan
đề Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long, khi viên thiếu úy người Pháp Legderin,
thuyền trưởng tàu Avalence cùng các thủy thủ bắt gặp một đôi rắn biển khổng lồ
ba lần (vào các năm 1898, 1900 và 1902). Có lẽ người Châu Âu đã liên tưởng
7


con vật này giống như con rồng châu Á, loài vật huyền thoại được tôn sùng
trong văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa các nước đồng văn châu Á nói

chung. Bên cạnh những truyền thuyết của Việt Nam về Rồng Mẹ và Rồng Con
đáp xuống khu vực vịnh đảo vùng Đông Bắc này, sự xuất hiện con vật lạ hiện
hữu như rồng trong thực tại, có thể đã trở thành các lý do khiến vùng biển đảo
Quảng Ninh được người Pháp gọi bằng cái tên vịnh Hạ Long từ đó và phổ biến
đến ngày nay.
3.2.3. Vị trí.
Là một vịnh nhỏ, bộ phận của vịnh Bắc Bộ, Vịnh Hạ Long được giới hạn
với phía Đông Bắc giáp vịnh Bái Tử Long; phía Tây Nam giáp quần đảo Cát Bà;
phía Tây và Tây Bắc giáp đất liền bằng đường bờ biển khoảng 120 km kéo dài
từ thị xã Quảng Yên, qua thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả đến hết huyện
đảo Vân Đồn; phía Đông Nam và phía Nam hướng ra vịnh Bắc Bộ. Trong diện
tích 1.553 km² gồm vùng lõi và vùng đệm, nằm tại các tọa độ từ 106°58'-107°22'
Đông và 20°45'-20°50' Bắc, vịnh Hạ Long bao gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ,
trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa được đặt tên.
3.2.4. Môi trường, khí hậu.
Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo có khí hậu phân hóa 2 mùa rõ rệt: mùa
hạ nóng ẩm với nhiệt độ khoảng 27-29 °C và mùa đông khô lạnh với nhiệt độ
16-18 °C, nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng 15-25°C. Lượng
mưa trên vịnh Hạ Long vào khoảng từ 2.000mm–2.200mm tuy có tài liệu chi tiết
hóa lượng mưa là 1.680mm với khoảng trên 300mm vào mùa nóng nhất trong
năm (từ tháng 6 đến tháng 8) và dưới 30mm vào mùa khô nhất trong năm (từ
tháng 12 đến tháng 2 năm sau). Hệ thủy triều tại vịnh Hạ Long rất đặc trưng với
mức triều cường vào khoảng 3,5-4m/ngày. Độ mặn trong nước biển trên vùng

8


Vịnh dao động từ 31 đến 34.5MT vào mùa khô nhưng vào mùa mưa, mức này
có thể thấp hơn. Mực nước biển trong vùng Vịnh khá cạn, có độ sâu chỉ khoảng
6m đến 10m và các đảo đều không lưu giữ nước bề mặt.

3.2.5. Cảnh quan.
Vùng di sản trên vịnh Hạ Long được thế giới công nhận (vùng lõi) có diện
tích 434 km², như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ(phía Tây), hồ
Ba Hầm (phía Nam) và đảo Cống Tây (phía Đông), bao gồm 775 đảo với nhiều
hang động, bãi tắm. Vùng kế bên (vùng đệm), là di tích danh thắng quốc gia đã
được bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng từ năm 1962. Địa hình Hạ Long
là đảo, núi xen kẽ giữa các trũng biển, là vùng đất mặn có sú vẹt mọc và những
đảo đá vôi vách đứng tạo nên những vẻ đẹp tương phản, kết hợp hài hòa, sinh
động các yếu tố: đá, nước và bầu trời.
3.2.6. Biển và đảo.
Các đảo ở vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập
trung ở hai vùng chính là vùng phía Đông Nam Vịnh Bái Tử Longvà vùng phía
Tây Nam vịnh Hạ Long. Theo thống kê của ban quản lý vịnh Hạ Long, trong
tổng số 1.969 đảo của vịnh Hạ Long có đến 1.921 đảo đá với nhiều đảo có độ
cao khoảng 200m. Đây là hình ảnh cổ xưa nhất của địa hình có tuổi kiến tạo địa
chất từ 250-280 triệu năm về trước, là kết quả của quá trình vận động nâng lên,
hạ xuống nhiều lần từ lục địa thành trũng biển. Quá trình carxtơ bào mòn, phong
hóa gần như hoàn toàn tạo ra một vịnh Hạ Long độc nhất vô nhị, với hàng ngàn
đảo đá nhiều hình thù, dáng vẻ khác nhau lô nhô trên mặt biển, trong một diện
tích không lớn của vùng Vịnh.
Vùng tập trung các đảo đá có phong cảnh ngoạn mục và nhiều hang động
đẹp là vùng trung tâm Di sản Thiên nhiên vịnh Hạ Long, bao gồm phần lớn vịnh
9


Hạ Long (vùng lõi), một phần vịnh Bái Tử Long và vịnh Lan Hạ thuộc quần đảo
Cát Bà (vùng đệm).
Các đảo trên vịnh Hạ Long có những hình thù riêng, không giống bất kỳ
hòn đảo nào ven biển Việt Nam và không đảo nào giống đảo nào. Có chỗ đảo
quần tụ lại nhìn xa ngỡ chồng chất lên nhau, nhưng cũng có chỗ đảo đứng dọc

ngang xen kẽ nhau, tạo thành tuyến chạy dài hàng chục kilômét như một bức
tường thành. Đó là một thế giới sinh linh ẩn hiện trong những hình hài bằng đá
đã được huyền thoại hóa. Đảo thì giống khuôn mặt ai đó đang hướng về đất liền
(hòn Đầu Người); đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước
(hòn Rồng); đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá (hòn Lã Vọng);
phía xa là hai cánh buồm nâu đang rẽ sóng nước ra khơi (hòn Cánh Buồm); đảo
lại lúp xúp như mâm xôi cúng (hòn Mâm Xôi); rồi hai con gà đang âu yếm vờn
nhau trên sóng nước (hòn Trống Mái); đứng giữa biển nước bao la một lư
hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất (hòn Lư Hương); đảo khác tựa
như nhà sư đứng giữa mặt Vịnh bao la chắp tay niệm Phật (hòn Ông Sư); đảo lại
có hình tròn cao khoảng 40m trông như chiếc đũa phơi mình trước thiên nhiên
(hòn Đũa), mà nhìn từ hướng khác lại giống như vị quan triều đình áo xanh, mũ
cánh chuồn, nên dân chài còn gọi là hòn Ông ...
Bên cạnh các đảo được đặt tên căn cứ vào hình dáng, là các đảo đặt tên
theo sự tích dân gian (núi Bài Thơ, hang Trinh Nữ, đảo Tuần Châu), hoặc căn cứ
vào các đặc sản có trên đảo hay vùng biển quanh đảo (hòn Ngọc Vừng, hòn Kiến
Vàng, đảo Khỉ v.v.). Dưới đây là một vài hòn đảo nổi tiếng:
Hòn Con Cóc: Hòn Con Cóc nằm cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng
12 km về phía Đông Nam, trên vùng vịnh Hạ Long. Đây là hòn núi đá rất đẹp có

10


góc nghiêng và hình dáng như một con cóc ngồi xổm giữa biển nước, cao
khoảng 9m
Hòn Gà Chọi: Là một trong những hòn đảo nổi tiếng trên vịnh Hạ Long,
hòn Gà Chọi (hay đôi khi gọi là Hòn Trống Mái) nằm gần hòn Đỉnh Hương ở
phía Tây Nam của Vịnh, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 5 km. Đây là
cụm gồm 2 đảo có hình thù giống như một đôi gà, một trống một mái, có chiều
cao khoảng hơn 10m với chân thót lại ở tư thế rất chênh vênh. Là biểu tượng

trên logo của vịnh Hạ Long, hòn Gà Chọi cũng là biểu tượng trong sách hướng
dẫn du lịch Việt Nam nói chung.
Đảo Ngọc Vừng: Đảo Ngọc Vừng nằm cách cảng tàu du lịch khoảng 34
km, thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, có đặc điểm là một trong số ít đảo
đất trên vùng vịnh Hạ Long. Xung quanh đảo có nhiều bãi biển đẹp, có núi Vạn
Xuân cao 182m và có di chỉ khảo cổ thuộc văn hoá Hạ Long rộng 45.000m².
Đảo Ngọc Vừng rộng 12 km², có người ở, có bến cảng cổ Cống Yên thuộc
hệ thống thương cảng cổ Vân Ðồn từ thế kỷ 11, và có di tích thành cổ nhà Mạc,
thành nhà Nguyễn. Phía đông của đảo có bãi cát dài tới hàng kilômét với cát
trắng trải ra tới tận bến tàu.
Khu vực này tương truyền trước kia có nhiều ngọc trai, đêm đêm phát
sáng cả một vùng trời biển, nên có một số đảo mang tên đảo Ngọc như đảo Ngọc
Vừng (ngọc phát sáng), hay Minh Châu (ngọc châu, ngọc sáng) ]. Trước kia cư
dân trên đảo sống bằng nghề đánh bắt hải sản và khai thác ngọc trai. Ngày nay
cư dân ở đây vẫn còn mò trai lấy ngọc, đồng thời nghề nuôi trai lấy ngọc cũng
đang phát triển mạnh.
Đảo Ti Tốp: Đảo Ti Tốp, thời Pháp thuộc mang tên hòn Cát Nàng, nằm
trên khu vực vịnh Hạ Long cách Bãi Cháy chừng 14 km về phía Đông. Đảo
11


được đặt tên Ti Tốp từ khi Hồ Chí Minh đến thăm vịnh Hạ Long cùng với nhà
du hành vũ trụ người Nga Gherman Titov, vào năm 1962.
Đảo Ti Tốp có bờ dốc đứng và bãi cát trắng phẳng hình vầng trăng nằm dưới
chân. Các tour du lịch thường ghé tàu vào đảo để du khách lên bờ leo núi ngắm
toàn cảnh vùng Vịnh, tắm biển, chèo thuyền kay-ắc, kéo phao và kéo dù.
Đảo Tuần Châu: Nằm cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 4 km về
phía Tây Nam trên vùng vịnh Hạ Long, Đảo Tuần Châu là một đảo đất rộng
khoảng 3 km², gần bờ, có làng mạc và dân cư thưa thớt. Trước kia trên đảo các
nhà khoa học đã tìm được nhiều di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hóa Hạ Long. Từ

năm 2001, một con đường lớn đã được xây dựng nối đảo với đất liền. Một tổ
hợp dịch vụ vui chơi, giải trí, quần thể khách sạn, nhà hàng và bãi tắm sang
trọng được xây dựng, đưa vào phục vụ góp phần làm thay đổi bộ mặt của Hạ
Long từ năm du lịch 2003 tới nay.
3.2.6. Hang động.
Không chỉ những biến đổi của những đảo đá màu xanh đen trên mặt nước
biếc vùng Vịnh hấp dẫn du khách, trên những chiếc thuyền dơi màu nâu đỏ xuất
phát từ bến tàu Hạ Long bắt đầu hành trình ngoạn cảnh, những khám phá lại tiếp
tục khi du khách lên đảo, thăm thú những hang động ẩn chứa nhiều chứng tích
lịch sử. Những hang động tại Hạ Long, theo các nhà thám hiểm địa chất người
Pháp, khi nghiên cứu về vịnh Hạ Long đầu thế kỷ 20, khẳng định rằng hầu hết
trong số chúng đều được kiến tạo trong thế Pleistocen kéo dài từ 2 triệu đến 11
ngàn năm trước, nằm trong 3 nhóm hang ngầm cổ, hang nền carxtơ và các hàm
ếch biển.
*Hang Sửng Sốt.

12


Hang Sửng Sốt, hay động Sửng Sốt nằm trên đảo Bồ Hòn ở trung tâm
vịnh Hạ Long, được người Pháp đặt tên "Grotte des surprises" (động của những
kỳ quan). Ðây là một hang động rộng và đẹp vào bậc nhất của vịnh Hạ Long.
Nằm ở vùng trung tâm du lịch của Vịnh với hệ thống trong tuyến du lịch bao
gồm bãi tắm Ti Tốp - hang Bồ Nâu - động Mê Cung-hang Luồn - hang Sửng
Sốt.
Vị trí và diện tích: Hang Sửng Sốt là một hang dạng ống, nằm ở độ cao
25m so với mực nước biển hiện tại. Diện tích khoảng 10.000m2, chiều dài hơn
200m, chỗ rộng nhất 80m, khoảng cách lớn nhất từ nền tới trần hang xấp xỉ 20m.
Hang được chia thành 2 ngăn chính.
Quá trình phát hiện và quản lý: - Do có cửa hang mở rộng, hang Sửng Sốt

được phát hiện khá sớm trên Vịnh Hạ Long (cuối thế kỷ thứ XIX). Tên của hang
mãi đến năm 1946 mới được xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng
do một số đoàn thám hiểm đã đến đây. - Năm 1999, Ban Quản lý Vịnh Hạ Long
đã đầu tư tôn tạo Hang Sửng Sốt. Hệ thống đường đi, ánh sáng để du khách có
thể quan sát và cảm nhận được vẻ đẹp của những khối nhũ, măng đá trong lòng
hang.Ánh sáng được thiết kế phù hợp với kiến trúc hang đồng thời hài hoà với
ánh sáng tự nhiên từ phía cửa hang. - Hiện nay Hang Sửng Sốt thuộc sự quản lý
của Trung tâm bảo tồn Công viên hang động (BQL Vịnh Hạ Long).
Ðường lên hang Sửng Sốt quanh co uốn lượn dưới những tán lá rừng, với
những bậc đá ghép cheo leo, khúc khuỷu. Ðộng được chia làm hai ngăn chính,
toàn bộ ngăn thứ nhất như một nhà hát lớn rộng thênh thang với trần hang được
phủ bằng nhũ đá, những tượng đá, voi đá, hải cẩu, mâm xôi, hoa lá, mở ra một
thế giới của cổ tích. Ngăn 2 cách biệt với ngăn 1 qua một lối đi hẹp. Bước vào
lòng ngăn này, động mở ra một khung cảnh mới khác lạ hoàn toàn với lòng ngăn

13


rộng có thể chứa được hàng ngàn người. Trong lòng ngăn 2 của hang Sửng Sốt
có những hình tượng được gắn với truyền thuyết Thánh Gióng: cạnh lối ra vào là
khối đá hình chú ngựa, thanh gươm dài và trong lòng hang có những ao hồ nhỏ
như vết chân ngựa Gióng.
*Động Thiên Cung: Cách thành phố Hạ Long khoảng 8 km và cách bến
tàu du lịch 4 km là đảo Vạn Cảnh, còn gọi là đảo Canh Độc có tọa độ
107°00'54" và 20°54'78". Trong sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: hòn Canh
Độc lưng chừng đảo có động rộng rãi chứa được vài ngàn người, gần đó có hòn
Cặp Gà, Hòn Mèo, Hòn La.... Ngày nay, qua khảo cứu, đảo Vạn Cảnh có đỉnh
cao 189m, hình dáng như một chiếc ngai ôm hai hang động là hang Đầu Gỗ nằm
chênh vênh trên cao và động Thiên Cung ở cách mép nước không xa. Hang Đầu
Gỗ và động Thiên Cung cách nhau chừng 100m, được thông nhau bằng những

lối đi quanh co, uốn lượn dưới tán lá rừng.
Động Thiên Cung nằm ở lưng chừng đảo Canh Độc, ở độ cao 25m so với
mực nước biển. Du khách vừa bước vào cửa động Thiên Cung, lòng động đột
ngột mở ra không gian có tiết diện hình tứ giác với chiều dài hơn 130 mét, với
những măng đá như một đền đài mỹ lệ. Vách động cao và thẳng đứng được bao
bọc bởi những nhũ đá và trên mỗi vách động ấy thiên nhiên đã khảm nhiều hình
thù kỳ lạ, hấp dẫn người xem. Đó là 4 cột trụ to lớn giữa động mà từ chân cột tới
đỉnh đều được chạm nổi nhiều hình thù kỳ lạ như chim cá, cảnh sinh hoạt của
con người, hoa lá cành; là những thạch nhũ mang hình tượng Nam Tào, Bắc
Đẩu, tiên nữ múa hát; là trần hang với những điêu khắc người, chim, hoa, muông
thú đang dự tiệc, hoàn toàn do bàn tay nhào nặn của tạo hóa tác thành qua hàng
vạn năm. Cửa động nhỏ hẹp được giấu kín trong lòng núi nhưng càng đi vào bên
trong, lòng động càng mở lớn và rộng, dẫn dắt người xem đi từ bất ngờ này đến
bất ngờ khác.
14


*Hang Đầu Gỗ:
Từ cửa Suốt nhìn vào hòn Canh độc, người ta thấy đầu của hòn núi này
nhô ra trông giống như đầu một cây gỗ nổi lập lờ trên mặt nước. Hai bên "đầu
gỗ" có hai hốc lõm vào, trông tựa như "mắt gỗ" mà thợ sơn tràng thường khoét
vào đầu gỗ dể kéo - lôi khi khai thác. Những cư dân vạn chài của vùng sông
nước dã căn cứ vào hình dáng đó mà đặt tên cho cái hang mà họ thường lưu lại
tại đảo này trong những ngày nghỉ ngơi, tránh mùa dông bão. Tên đảo Đầu gỗ;
hang Đầu gỗ phải chăng đã được hình thành như vậy. Người Pháp khi lập bản đồ
khu vực này, y cứ theo lời kể của cư dân sông nước mà ghi tên thành hang
"daugo", cũng như tên "hòn đảo của những búi gai" thành "hongai" để rồi thành
Hồng Gai.
Có lẽ vì quá yêu lịch sử chiến công của thời Trần mà người ta cố ghép tên
hang "Đầu gỗ", "Giấu gỗ" cho trận chiên Bạch Đằng năm 1288, găn với tên tuổi

của vị anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư.
Trong sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: hòn Canh Độc lưng chừng đảo
có động rộng rãi chứa được vài ngàn người, gần đó có hòn Cặp Gà, Hòn Mèo,
Hòn La.... Động nói ở đây chính là hang "Đầu gỗ"; Động Thiên cung chỉ mới
được phát hiện vào những năm tám mươi của thế kỉ trước.
Đi hết động Thiên Cung cũng là lúc du khách bước chân sang hang Đầu
Gỗ, còn gọi là hang Giấu Gỗ, một hang động với những nhũ đá tráng lệ. Tên gọi
Hang Đầu Gỗ (tập trung gỗ) có từ sau khi tướng Trần Hưng Đạo chỉ huy ba quân
giấu các cọc gỗ lim tại đây, trước khi đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng để
bày thế trận cùng thủy quân đánh úp, đốt cháy đoàn thuyền tải lương thực của
giặc Nguyên Mông vào mùa xuân năm 1288. Hiện các nhà khảo cổ còn tìm thấy
rất nhiều khúc gỗ và mẩu gỗ vụn còn sót lại trong động. Nếu động Thiên Cung

15


hoành tráng khoẻ khoắn, hiện đại thì hang Ðầu Gỗ trầm mặc uy nghi nhưng cũng
rất đồ sộ. Cuốn Merveilles du Monde (kỳ quan thế giới) của Pháp xuất bản năm
1938 chuyên về du lịch giới thiệu về các danh thắng nổi tiếng thế giới đã mệnh
danh hang Ðầu Gỗ là "Grotte des merveilles" (động của các kỳ quan).
Cửa hang Đầu Gỗ ở lưng chừng vách núi và trong lòng hang được chia
thành 3 ngăn chính. Ngăn phía ngoài hình vòm cuốn tràn ánh sáng tự nhiên, với
trần hang như một bức tranh khổng lồ vẽ phong cảnh thiên nhiên hoang sơ với
những đàn voi, những chú hươu sao, sư tử trong những tư thế sinh động. Phía
dưới là rừng măng đá, nhũ đá nhiều mầu với nhiều hình thù tùy theo trí tưởng
tượng của từng người. Chính giữa lòng hang là một cột trụ đá khổng lồ hàng
chục người ôm, từ phía dưới chân cột lên trên là những hình mây bay, long phi
phượng vũ, hoa lá, dây leo. Qua ngăn thứ nhất, vào ngăn thứ 2 bằng một khe cửa
hẹp lòng hang mở ra với ánh sáng chiếu vào mờ ảo, những bức tranh đá trở nên
long lanh hơn và những chùm hoa đá lúc ẩn lúc hiện. Tận cùng hang là một

chiếc giếng nước ngọt và những hình tượng bằng đá như đang diễn tả một trận
hỗn chiến kỳ lạ.
Năm 1917, hang Đầu Gỗ được vua Khải Ðịnh lên thăm và cho khắc một
tấm văn bia với nội dung ca ngợi cảnh đẹp của non nước Hạ Long nói chung và
hang Ðầu Gỗ nói riêng. Hiện nay, tấm bia đá vẫn còn ở phía bên phải cửa động
tuy chữ đã bị mài mòn.
3.2.7. Hệ sinh thái.
Hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vịnh Hạ Long rất
đặc trưng, phong phú với tổng số loài thực vật sống trên các đảo khoảng trên
1.000 loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau bao gồm các loài ngập
mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá,

16


trên đỉnh núi hoặc mọc ở của hang hay khe đá. Các nhà nghiên cứu của Hiệp hội
Bảo tồn thiên nhiên thế giới đã phát hiện 7 loài thực vật đặc hữu của vịnh Hạ
Long. Danh sách những loài thực vật đặc hữu khác tại vịnh Hạ Long rất có thể
còn được bổ sung nhiều hơn, do chưa có một công trình nghiên cứu nào thực sự
đầy đủ, toàn diện về thực vật trên tất cả các đảo trong khu vực Vịnh và vùng lân
cận. Chẳng hạn loài trúc mọc ngược mà mấy năm gần đây các nhà khoa học mới
phát hiện ra trên một số đảo đá của vịnh Hạ Long, một giống trúc có cành chĩa
xuống đất, khác các giống trúc thông thường chĩa cành lên trời.
Theo thống kê, hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở
vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long có 477 loài mộc lan, 12 loài dương xỉ và 20
loài thực vật ngập mặn; đối với động vật người ta cũng thống kê được 4
loài lưỡng cư, 10 loài bò sát, 40 loài chim và 14 loài thú. Ở vùng này còn có
loại khỉ thân nhỏ, hiện được nuôi theo phương pháp đặc biệt tại đảo Khỉ.
Hệ sinh thái biển và ven
Hệ sinh thái biển và ven bờ của vịnh Hạ Long bao gồm trong đó "hệ sinh

thái đất ướt" và "hệ sinh thái biển" với những điểm đặc thù:
*Hệ sinh thái đất ngập nước:


Sinh thái vùng triều và vùng ngập mặn trên Vịnh: bao gồm 20 loài thực
vật ngập mặn; là nơi sống cho 169 loài giun nhiều tơ, 91 loài rong biển, 200
loài chim, 10 loài bò sát và 6 loài khác.



Dạng sinh thái đáy cứng, rạn san hô: tập trung ở Hang Trai, Cống Đỏ, Vạn
Giò, có 232 loài san hô đã được tìm thấy. Rặng sinh thái đáy cứng, san hô là
nơi sinh cư của 81 loài chân bụng, 130 loài hai mảnh vỏ, 55 loài giun nhiều
tơ, 57 loài cua.

17




Dạng sinh thái hang động và tùng, áng: dạng sinh thái này tại vịnh Hạ
Long rất tiêu biểu và hiếm nơi có được. Đặc biệt khu vực Tùng Ngón là nơi
cư trú của 65 loài san hô, 40 loài động vật đáy, 18 loài rong biển. Tại đây
cũng có 4 loài sinh vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam.



Dạng sinh thái đáy mềm: đây là dạng sinh thái của quần xã cỏ biển với 5
loài, là nơi sống của 140 loài rong biển, 3 loài giun nhiều tơ, 29 loài nhuyễn
thể, 9 loài giáp xác.




Dạng sinh thái bãi triều không có rừng ngập mặn: sinh vật sống trên vùng
triều đặc trưng là động vật nhuyễn thể hai mảnh vỏ và giun biển có giá trị
dinh dưỡng cao như sá sùng, hải sâm sò, ngao v.v.
*Hệ sinh thái biển:



Thực vật phù du: ở vịnh Hạ Long có 185 loài.



Động vật phù du: vùng Hạ Long-Cát Bà có 140 loài động vật phù du sinh
sống.



Động vật đáy: thống kê sơ bộ, vùng Hạ Long có đến 500 loài động vật
đáy, trong đó có 300 loài động vật nhuyễn thể, 200 loài giun nhiều tơ, 13
loài da gai.



Động vật tự du: đã xác định được 326 loài động vật tự du, phân bố trong
vịnh Hạ Long.
Đến nay sơ bộ đánh giá hệ thực vật trong vùng vịnh Hạ Long có khoảng

347 loài, thực vật có mạch thuộc 232 chi và 95 họ. Trong tổng số 347 loài thực

vật đã biết, có 16 loài đang nằm trong danh sách đỏ của Việt Nam đã nguy cấp
và sắp nguy cấp. Trong các loài thực vật quý hiếm, có 95 loài thuộc cây

18


làm thuốc, 37 loài cây làm cảnh, 13 loài cây ăn quả và 10 nhóm có khả năng sử
dụng khác nhau.
Các đảo tại vịnh Hạ Long có các loài động vật thân mềm đa dạng, đặc biệt
là các loài cư trú trong hốc đá, và có tới 60 loài động vật đặc hữu. Hải sản Hạ
Long được khai thác và nuôi trồng bao gồm bào ngư, hải sâm, sá
sùng, tôm, cá, mực (mực ống, mực nang, mực thước), bạch tuộc, sò huyết, trai
và điệp nuôi lấy ngọc. Tài liệu của Phân viện Hải dương học Hải Phòng cho thấy
trong 1.151 loài động vật tại Hạ Long thì đã có tới gần 500 loài cá, 57 loài cua.
IV.

Hệ thống di sản văn hóa.

4.1. Di tích lịch sử văn hóa.
4.1.1. Khu di tích nhà Trần ở Đông Triều.
Đền và lăng mộ nhà Trần thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh
Quảng Ninh, nằm rải rác trong một khu đất rộng có bán kính 20 km để thờ "Bát
Vị Hoàng Đế" thời Trần. Đây là một trong những công trình tưởng niệm có giá
trị lớn. Đền và lăng mộ nhà Trần được xây dựng thời nhà Trần, được trùng tu
vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn, quần thể di tích gồm một đền và 8 lăng
mộ.Trải qua thời gian và thăng trầm của lịch sử, khu vực này đã bị hư hỏng
nặng. Ngày nay với ý thức và lòng tự hào dân tộc nên khu đền Sinh và các lăng
mộ nhà Trần đang dần được quan tâm khôi phục đúng với tầm cỡ của nó để bảo
tồn và phát huy một di sản văn hoá quý báu của dân tộc và góp phần giáo dục
truyền thống cho các thế hệ mai sau, tạo thành một khu di tích thu hút du khách

bốn phương.
4.1.2 Khu di tích Yên Tử.

19


Khu di tích Yên Tử bao gồm một hệ thống chùa, am, tháp và rừng cây cổ
thụ hoà quyện với cảnh vật thiên nhiên, nằm rải rác từ dốc Đỏ đến núi Yên Tử
theo chiều cao dần thuộc xã Thượng Yên Công, TP Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Ngay từ thời Lý, Yên Tử đã có chùa thờ Phật gọi là chùa Phù Vân và đạo sĩ Yên
Kỳ Sinh đã tu hành đắc đạo ở đây. Nhưng Yên Tử thật sự trở thành trung tâm
của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành
và thành lập một giáo phái Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, đó là phái Thiền
Trúc Lâm và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh: Điều Ngự Giác Hoàng Trần
Nhân Tông (1258-1308), ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên
núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo. Trong 19 năm tu hành,
ông đã soạn ra bộ sách "Thạch thất ngôn ngữ” và cho xây dựng 800 ngôi chùa,
am, tháp lớn nhỏ trong nước với hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có
những chùa nổi tiếng như viện Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên ở Đông Triều... khu
di tích Yên Tử là sự kết tinh, sự hội tụ của nền văn hoá dân tộc với dáng dấp
kiến trúc, hoa văn trang trí và các mảng chạm khắc mang đậm dấu ấn của các
thời đại.
4.1.3. Vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long có tổng diện tích 1553 km2 gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ,
trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo của vịnh Hạ Long có hai
dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch. Vùng Di sản thiên nhiên thế giới được
Unesco công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam
giác với 3 đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây
(phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ
Văn hoá Thông tin xếp hạng năm 1962. Ngày 17/12/1994, Vịnh Hạ Long được

Unesco cấp bằng Di sản thế giới “khẳng định giá trị ngoại hạng và giá trị toàn

20


cầu của một di sản văn hoá và thiên nhiên cần thiết phải được bảo vệ vì lợi ích
của toàn thế giới”. Ngày 29/11/2000, Hội đồng Di sản thế giới lại thông qua
quyết định công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thế giới về giá trị địa chất - địa
mạo. Một số hang động tiêu biểu: Hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt, động Tam
Cung, động Mê Cung,động Thiên Cung, hồ Ba Hầm...
4.1.4 Di tích thương cảng Vân Đồn.
Vân Đồn là cảng ngoại thương đầu tiên ở nước ta. Vân Đồn thuộc quẩn đảo Vân
Hải, ngày nay thuộc huyện Vân Đồn, nằm ở phía đông nam vịnh Hạ Long.
Ngoài việc phát hiện những dấu vết hoạt động thương nghiệp ở Vân Đồn, các
nhà khảo cổ học còn tìm thấy kiến trúc tôn giáo, các chùa, tháp. Trong số đó có
khu di tích chùa Lấm rất rộng xây dựng từ thời nhà Trần. Ngôi chùa này được
xây dựng ở sườn núi phía Tây đảo Cống Đông, đối diện với bến thuyền ở sườn
núi phía đông. Những di tích của khu chùa tam quan, chùa Hộ, chùa Phật,
Thượng diện, nhà Tổ, bệ đá, toà sen, lan can chạm sóc, chạm rồng... nói lên rằng
khu di tích chùa Lấm là trung tâm Phật giáo quan trọng của vùng hải đảo. Cách
chùa Lấm 3 km về phía đông bắc đảo, trên ngọn đồi cao cùa đảo Cống Đông còn
phế tích của một ngọn bảo tháp xây bằng gạch nung. Mặt ngoài gạch được trang
trí hình rồng giun, khuôn trong hình lá đề. Trong khu đựng hộp xá lị còn có 13
mảnh vỡ của một bình sứ màu men ngà. Bình sứ này đựng tro thi hài vị cao tăng
mà cuộc đời gắn liền với khu trung tâm Phật giáo chùa Lấm. Căn cứ vào kích
thước của ngăn đựng hộp xá lị, tac có thể đoán được quy mô của ngọn bảo tháp
khs đồ sộ, ít ra là tương đương với tháp Phổ Minh xây dựng từ đời Trần ở Nam
Định.
4.1.5. Đền Cửa Ông.


21


Đền Cửa Ông tọa lạc trên một ngọn núi thấp trông ra vịnh Bái Tử Long,
có cảnh quan tuyệt đẹp, thuộc phường Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng
Ninh, cách thành phố Hạ Long hơn 40 km về phía đông bắc. Đền được xây dựng
từ đầu thế kỷ 19, gồm ba khu vực chính: đền Hạ, đền Trung và đền Thượng,
được phân bố ở ba vị trí khác nhau theo chiều lên cao dần. Đền Hạ thờ Mẫu, khu
đền Thượng gồm đền chính thờ Trần Quốc Tảng, lăng Trần Quốc Tảng, đền
Quan Châu, đền Quan Chánh và chùa. Đền chính lúc đầu thờ Hoàng Cầu, người
anh hùng của địa phương, sau thờ Trần Quốc Tảng, người có công trấn ải vùng
cửa Suốt và cũng là con trai thứ 3 của Trần Hưng Đạo.
4.1.6 Núi Bài Thơ.
Là một ngọn núi đá vôi cao 106m nằm ở trung tâm thành phố hạ long, kề
ngay bên Vịnh Hạ Long, nhìn từ xa như 1 tòa lâu đài khổng lồ. Leo núi Bài thơ
là một thú vui hấp dẫn. Đứng trên núi Bài Thơ du khách không khỏi ngỡ ngàng
trước quang cảnh kỳ vĩ của Vịnh Hạ Long. Núi Bài Thơ - một di tích danh thắng
nổi tiếng của Hạ Long.
4.1.7. Đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn.
Ngôi đền toạ lạc tại chân núi Bài Thơ thuộc khu vực Bến Đoan - Hòn Gai,
thành phố Hạ Long. Đền được xây dựng trên một nền đất cao, lưng tựa vào vách
núi, mặt hướng ra vịnh. Đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn, (Đền Đức Ông )
con thứ của Trần Hưng Đạo và là vị tướng tài ba dũng mãnh trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên. Ông còn là một người con tận hiếu, là người tôi tận
trung. Để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, một ngôi đền thờ do các chủ
thuyền thường hay qua lại dựng tại chân núi Bài Thơ.
4.1.8. Chùa Long Tiên

22



Chùa Long Tiên được xây dựng vào năm 1941, là ngôi chùa lớn nhất và là
một di tích lịch sử danh thắng nổi tiếng ở thành phố Hạ Long. Chùa toạ lạc dưới
chân núi Bài Thơ, gần chợ Hạ Long, tại phố cũng mang tên "Phố Long Tiên”.
Chùa có phong cách kiến trúc độc đáo hiếm thấy, mang phong cách kiến trúc và
điêu khắc của các ngôi chùa thời nhà Nguyễn. Trước kia, chùa Long Tiên mở
hội chính vào ngày 24/3 (âm lịch). Còn hiện nay ngày nào cũng là hội. Khách du
lịch Việt Nam và nước ngoài đến vãn cảnh chùa, các tín đồ dâng hương cúng
Phật, tụng kinh... nhưng đông nhất là ngày rằm và mồng một hàng tháng và đặc
biệt vào dịp Tết Nguyên đán.
4.1.9 Cụm di tích chiến thắng Bạch Đằng.
Bãi cọc Bạch Ðằng nằm trong khu đầm nước của xã Yên Giang giáp đê
sông Chanh thuộc xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.
4.1.10 Đền Trần Hưng Đạo.
Đền Trần Hưng Đạo toạ lạc trên đôi đất bên bờ sông Bạch Đằng thuộc
địa phận xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, Quảng Ninh. Đền được Bộ Văn hoá
Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử cùng với miếu Vua Bà (số 100
VH/QĐ ngày 21/ 1/ 1990) bổ sung cho di tích Bãi cọc Bạch Đằng. Đền được
xây dựng ngay trên mảnh đất diễn ra trận đại thắng Bạch Đằng năm 1288 mà
những cọc gỗ dưới đầm Yên Giang là một minh chứng.
4.1.11 Miếu Vua bà.
Miếu Vua Bà thuộc xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh,
được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử cùng với đền
Trần Hưng Đạo. Tương truyền rằng trong chuyến đi thị sát địa hình chuẩn bị
chiến trường, Trần Hưng Đạo qua bến đò gặp một cụ bà bán nước đã hỏi thăm
vùng đất này. Bà cụ đã cung cấp cho Trần Hưng Đạo lịch triều con nước, địa thế
23


dòng sông và còn bày cho chiến thuật hoả công để đánh giặc. Sau khi thắng trận,

Trần Hưng Đạo đã quay lại bến đò tìm bà cụ bán hàng nước thì không thấy nữa,
ông đã xin vua Trần phong sắc cho bà là “Vua Bà” và lập đền thờ tại đây. Đây là
một trong số di tích nằm trong quần thể bãi cọc Bạch Đằng, đình Yên Giang, đền
Trung Cốc và đình Trung Bản, những dấu ấn của Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử
1288.
Ngoài ra cả tỉnh có gần 500 di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật... gắn với
nhiều lễ hội truyền thống, trong đó có những di tích nổi tiếng như miếu Tiên
Công, đình phong Cốc (TX Quảng Yên), Đệ tứ chiến khu Đông Triều, đình
Quan Lạn, chùa Cái Bầu - Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm (Vân Đồn)…... Đây
là những điểm thu hút khách thập phương đến với các loại hình du lịch văn hoá,
tôn giáo, nhất là vào những dịp lễ hội.
4.2. Lễ hội.
Có nhiều lễ hội được tổ chức trên tỉnh Quảng Ninh như: Lễ hội hoa anh
đào, đình Trà Cổ, Lễ hội chùa Long Tiên, Lễ hội Quan Lạn,Lễ hội Thập Cửu
Tiên Công, Lễ hội đền Cửa Ông… sau đây là 1 số lễ hội lớn tiêu biểu
4.2.1.Lễ hội hoa anh đào Hạ long.
Trong 3 ngày từ 11 đến 13-4, tại TP Hạ Long đã diễn ra Lễ hội Hoa anh
đào Hạ Long. Đây là lần thứ 2 tỉnh Quảng Ninh tổ chức Lễ hội Hoa anh đào và
sự kiện này đang dần trở thành lễ hội truyền thống khẳng định tình hữu nghị của
Việt Nam – Nhật Bản nói chung và tỉnh Quảng Ninh với các tỉnh, thành phố của
Nhật Bản nói riêng.
Năm 2013, lần đầu tiên tỉnh Quảng Ninh tổ chức Lễ hội Hoa anh đào với
mong muốn giới thiệu, quảng bá hình ảnh Hạ Long ra thế giới, thu hút khách du

24


lịch, các nhà đầu tư; trong đó có Nhật Bản đến với Hạ Long, đến với Quảng
Ninh; đồng thời, giới thiệu nét văn hoá Nhật Bản tới nhân dân Quảng Ninh và du
khách. Khẳng định rõ mối quan hệ hữu nghị, lâu dài giữa Việt Nam và Nhật

Bản, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đặng Huy Hậu cho biết: Trong những năm qua,
tỉnh Quảng Ninh và các địa phương, tổ chức, doanh nghiệp Nhật Bản đã hợp tác
trên nhiều lĩnh vực và đã có kết quả, mang lại dấu ấn quan trọng góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh… Lễ hội Hoa anh đào sẽ được tỉnh tổ chức
vào tháng tư hàng năm nhằm tăng cường mối quan hệ hữu nghị giữa Quảng
Ninh và các địa phương của Nhật Bản. Cùng với đó, tạo nên một sản phẩm du
lịch đặc sắc, phục vụ du khách đến với Hạ Long, Quảng Ninh.
Tham dự lễ hội , du khách được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của 20 cây hoa anh
đào thuộc loại hoa kép có 3 màu đặc trưng là trắng, hồng, đỏ và 400 cành hoa
anh đào để kết thành 2 cây hoa lớn trưng bày tại sân khấu. Đồng thời, được
thưởng thức nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc, đậm nét đặc trưng của hai nước
như: chương trình khai mạc và biểu diễn giao lưu nghệ thuật Việt - Nhật; triển
lãm và trưng bày hoa anh đào; trưng bày ảnh nghệ thuật về văn hóa Nhật Bản và
giới thiệu một số địa danh di sản Nhật Bản.
Bên cạnh đó, trong khuôn khổ lễ hội còn diễn ra các hoạt động như: hội
thảo xúc tiến hợp tác và đầu tư du lịch giữa TP Hạ Long và các địa phương của
Nhật Bản; hoạt động biểu diễn văn hóa, nghệ thuật Nhật Bản; tổ chức cho các
đoàn đại biểu Nhật Bản tham quan một số điểm du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh... Ngoài ra, Ban Tổ chức cũng bố trí gần 40 gian hàng để giới thiệu các sản
phẩm du lịch, ẩm thực, hàng lưu niệm, sinh vật cảnh của tỉnh Quảng Ninh và
một số địa phương của Nhật Bản. Trong đó nổi bật là các gian hàng trưng bày áo

25


×