Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.5 MB, 71 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, nhân loại đang bước sang một kỷ nguyên mới kỷ nguyên
của nền kinh tế thông tin và tri thức. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã
tác động mạnh mẽ tới mọi hoạt động của đời sống xã hội trong đó có hoạt
động Thông tin – Thư viện. Đặc biệt, các thư viện trên thế giới đang có xu
hướng tự động hóa nghiệp vụ hoặc chuyển sang các loại hình thư viện điện
tử, thư viện số nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tri thức và thông tin không
ngừng gia tăng nhanh chóng trong xã hội. Giờ đây các tài liệu trong thư viện
không chỉ đơn thuần là các tài liệu truyền thống như sách báo, tạp chí mà còn
bao gồm các loại tài liệu dạng số như: Cơ sở dữ liệu (CSDL) trên mạng, đĩa
CD, DVD…Chính vì vậy mà công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác
nguồn tài liệu số được các thư viện đặc biệt quan tâm và coi đây là vấn đề
quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả cung cấp thông tin tới người
dùng tin.
Thư viện Quốc gia Việt Nam là Thư viện trung tâm của cả nước, là
thư viện đứng đầu trong hệ thống thư viện công cộng, đi đầu trong công tác
tự động hoá và ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin vào hoạt
động của mình, ngoài việc hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, tăng
cường đào tạo đội ngũ cán bộ thì công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác
nguồn tài liệu số cũng là một vấn đề đang được Thư viện đặc biệt quan tâm
nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu tin ngày càng tăng cao và đa dạng.
Nhận thấy được tầm quan trọng đó tôi đã quyết định chọn đề tài: “Số
hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu của khóa luận nhằm tìm hiểu và bổ sung những
kiến thức thực tế cho bản thân và góp một phần nhỏ bé vào việc tìm ra giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai


thác nguồn tài liệu số tại Thư viện, phục vụ cho công tác nghiên cứu, giáo
K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

dục, đào tạo và các nhu cầu khác của người dùng tin góp phần vào sự nghiệp
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là khảo sát thực trạng công tác số hóa
tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt
Nam. Qua việc khảo sát đề tài sẽ phân tích, đánh giá, đưa ra một số nhận xét
và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho công tác số hóa tài liệu và
tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để giải quyết được mục đích đề ra, nhiệm vụ của khóa luận là:
- Nêu được vị trí và vai trò của nguồn tài liệu số đối với sự phát triển
của Thư viện Quốc gia Việt Nam.
- Khảo sát thực trạng công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác
nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam.
- Nhận xét, đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện
Quốc gia Việt Nam.
3. Tình hình nghiên cứu theo hướng đề tài
Cho đến nay đã có rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và tìm hiểu
về Thư viện Quốc gia Việt Nam với các đề tài như:
- “Nghiên cứu hoạt động tra cứu thông tin tại Thư viện Quốc gia Việt

Nam trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn
Thị Hoài Thu, khóa luận tốt nghiệp năm 2001.
- “Công tác bảo quản vốn tài liệu ở Thư viện Quốc gia Việt Nam” của
Ngô Thị Hằng Nga, khóa luận tốt nghiệp năm 2004
- “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động lưu chiểu ở
Thư viện Quốc gia Việt Nam” của Nguyễn Thị Hảo, khóa luận tốt nghiệp
năm 2004.
K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

- “Lịch sử phân loại tài liệu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam” của Vũ
Quỳnh Nhung, khóa luận tốt nghiệp năm 2005.
- “Công tác phát triển vốn tài liệu của Thư viện Quốc gia Việt Nam”
của Nguyễn Thị Thu Hiền, khóa luận tốt nghiệp năm 2006.
- “Tìm hiểu công tác tổ chức và phục vụ kho mở tại Thư viện Quốc
gia Việt Nam” của Nguyễn Thị Thảo Hà, khóa luận tốt nghiệp năm 2008.
- “Công tác tổ chức và bảo quản vốn tài liệu quý hiếm tại Thư viện
Quốc gia Việt Nam” của Nghiêm Thị Bình, khóa luận tốt nghiệp năm 2008.
Ngoài ra còn nhiều đề tài khác về Thư viện Quốc gia Việt Nam như:
Nguồn nhân lực tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, tìm hiểu công tác xây
dựng và phát triển vốn tài liệu…
Tuy nhiên, đề tài về công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác
nguồn tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam thì chưa được nghiên cứu
sâu và hoàn chỉnh. Vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài này nhằm tìm hiểu
thực trạng công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số của
Thư viện và vận dụng những kiến thức đã học từ nhà trường áp dụng vào

một số hoạt động của Thư viện. Từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại
Thư viện Quốc gia Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài được xác định là công tác số
hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn về mặt không gian và
thời gian là: “Công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số
tại Thư viện Quốc gia Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
- Khóa luận được viết trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác Lê nin
K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
- Phương pháp trao đổi với cán bộ thư viện và phỏng vấn người dùng
tin.
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu liên quan.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Về lý luận: Khóa luận làm rõ nội hàm các khái niệm liên quan đến

tài liệu số: số hóa tài liệu, thư viện số, tài liệu số,...; Tầm quan trọng của
công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số đối với thư
viện.
- Về thực tiễn: Đưa ra một số nhận xét và đề xuất giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn
tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
từ viết tắt, phụ lục thì bố cục chính của khóa luận được chia thành 3 chương:
Chương 1: Thư viện Quốc gia Việt Nam và những vấn đề chung về tài
liệu số.
Chương 2: Thực trạng số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài
liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam.
Chương 3: Một số nhận xét và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho
công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số tại Thư viện
Quốc gia Việt Nam.

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
THƯ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI LIỆU SỐ
1.1. Khái quát về Thư viện Quốc gia Việt Nam
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển

Tiền thân của Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQGVN) là Thư viện
Trung ương Đông Dương trực thuộc Nha lưu trữ và Thư viện Đông Dương,
được thành lập theo Nghị Định của toàn quyền Pháp Anbe Xarô (Alert
Sarraut) ký ngày 29/11/1917. Trụ sở Nha đặt tại đường Boocnhi Đêboocđơ
(Borguis Deborders) Hà Nội, mà trước đó là khu vực trường thi tuyển chọn
nhân tài thời phong kiến rồi đến trụ sở Nha Kinh lược Bắc Kỳ, nay là số 31
phố Tràng Thi.
Sau gần hai năm chuẩn bị, ngày 01/09/1919 Thư viện chính thức mở
cửa phục vụ bạn đọc.
Ngày 28/02/1935, Thư viện Trung ương Đông Dương đổi tên là Thư
viện Pie Patxkiê (Pierre Pasquier), tên một viên Toàn quyền có nhiều đóng
góp cho Thư viện. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ
lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định đổi tên Thư viện Pie
Patxkie (Pierre Pasquire) thành Quốc gia Thư viện.
Tháng 02/1947 Pháp chiếm lại Hà Nội Thư viện lại được đổi tên thành
Thư viện Trung ương trực thuộc Phủ cao ủy Pháp tại Sài Gòn.
Năm 1953, Thư viện Trung ương sát nhập vào Viện Đại học Hà Nội
và đổi tên là Tổng Thư viện Hà Nội. Giữa năm 1954, trước khi rút chạy khỏi
miền Bắc, thực dân Pháp đã đưa một phần kho sách của Tổng Thư viện vào
Sài Gòn.

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

Đến tháng 10/1954, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản
Hà Nội, tiếp quản thư viện, trên văn bản mang tên là Thư viện Trung ương từ

Bộ Giáo dục sang Bộ Tuyên truyền (sau là Bộ Văn hóa).
Ngày 29/06/1957, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cho phép đổi tên
Thư viện thành Thư viện Quốc gia Việt Nam.
Ngày 28/11/1958, Thư viện chính thức mang tên Thư viện Quốc gia
do Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định.
Năm 1982, TVQGVN được Thư viện Liên hiệp quốc công nhận là
Thư viện tàng trữ tài liệu Liên Hiệp Quốc của khu vực Đông Dương.
Năm 2000, Thư viện Quốc gia chính thức gia nhập Hiệp hội Thư viện
Quốc tế IFLA (International Federation of Library Association and
Institution).
Thư viện Quốc gia với bề dày hơn 90 năm xây dựng và phát triển, qua
nhiều giai đoạn lịch sử, từ Thư viện Trung ương đến Thư viện Quốc gia, bao
giờ cũng là Thư viện hàng đầu của nước ta. Nó chính là Thư viện Khoa học
Tổng hợp lớn nhất trong cả nước, là Thư viện đứng đầu trong Hệ thống Thư
viện Công cộng nhà nước, là Thư viện tiêu biểu cho nền văn hóa của dân tộc,
là trung tâm giao lưu các mối quan hệ giữa các Hệ thống Thư viện trong cả
nước và quan hệ quốc tế.
1.1.2. Đội ngũ cán bộ Thư viện Quốc gia Việt Nam
Như chúng ta đã biết, cán bộ thư viện là linh hồn của thư viện. Trong
hệ thống giao tiếp “Tài liệu – Thư viện – Người sử dụng”, cán bộ thư viện là
yếu tố cực kỳ quan trọng, vai trò của họ rất lớn. Nhiệm vụ của người cán bộ
rất phức tạp.
Trong mối quan hệ với tài liệu, cán bộ thư viện là người lựa chọn, xử
lý, bảo quản, sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định, giới thiệu chúng với
người sử dụng thư viện.

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp


Lê Thị Thúy

Trong mối quan hệ với cơ sở vật chất – kỹ thuật, cán bộ thư viện tiến
hành trang bị chuyên biệt cho các diện tích và luôn luôn giữ cho cơ sở vật
chất – kỹ thuật ở tình trạng tốt nhất.
Trong mối quan hệ với bạn đọc, cán bộ thư viện là người môi giới
giữa sách và người đọc, là người tổ chức mối quan hệ giữa sách và người
đọc, làm trung gian giữa bạn đọc với bạn đọc, họ không chỉ tuyên truyền giới
thiệu một cách tích cực tài liệu mà còn nghiên cứu nhu cầu đọc, hướng dẫn
đọc phù hợp với nhu cầu, đồng thời tạo ra các dịch vụ thỏa mãn các nhu cầu
đó. Cán bộ thư viện là người tổ chức, tạo điều kiện tối ưu cho việc phối hợp
thành công mối quan hệ giữa con người với thông tin, làm cho việc khai
thác, sử dụng thông tin có hiệu quả, làm tăng giá trị thông tin.
Như vậy, cán bộ thư viện không chỉ là cầu nối giữa sách và bạn đọc
mà còn là cầu nối tài liệu với tài liệu, tài liệu với cơ sở vật chất – kỹ thuật, cơ
sở vật chất – kỹ thuật với người đọc.
Theo số liệu thống kê về số lượng cán bộ tại TVQGVN năm 2010 có
tới 176 người. Họ là những người cán bộ có trình độ về chuyên môn, nghiệp
vụ, ngoại ngữ, tin học có khả năng đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ phát triển
của Thư viện. Trong 176 cán bộ có: 1 cán bộ trình độ tiến sỹ, gần 20 cán bộ
trình độ thạc sỹ, 70% cán bộ có trình độ đại học.
Số lượng cán bộ cụ thể ở các phòng ban như sau:
- Phòng lưu chiểu: 7 cán bộ
- Phòng bổ sung: 7 cán bộ
- Phòng phân loại – biên mục: 16 cán bộ
- Phòng đọc sách: 26 cán bộ
- Phòng Báo, tạp chí: 19 Cán bộ
- Phòng Thông tin – tư liệu: 8 cán bộ
- Phòng Nghiên cứu khoa học: 5 cán bộ

- Phòng Quan hệ quốc tế: 4 cán bộ

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

Ngoài ra còn có 1Giám đốc và 3 Phó Giám đốc cùng các phòng ban
chức năng khác nhau nữa.
1.2. Tầm quan trọng của nguồn tài liệu số đối với sự phát triển của
Thư viện Quốc gia Việt Nam
1.2.1. Một số khái niệm chung
Ngày nay, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của sự bùng nổ thông
tin. Trong thời gian gần đây có rất nhiều những khái niệm mới được dùng
trong sách, báo, trên internet như thư viện điện tử, thư viện số, tài liệu điện
tử, tài liệu số, số hóa…Các khái niệm này hiện nay đang được dùng chưa
hoàn toàn thống nhất, do vậy, trong khóa luận cần làm rõ nội hàm các khái
niệm này.
- Thư viện điện tử (TVĐT):
Khái niệm về thư viện điện tử được định nghĩa như sau: “Một hệ
thống thông tin trong đó các nguồn thông tin đều có sẵn dưới dạng có thể xử
lý được bằng máy tính và trong đó tất cả các chức năng bổ sung, lưu trữ, bảo
quản, tìm kiếm, truy cập và hiển thị đều sử dụng công nghệ thông tin”.
Sự xuất hiện khái niệm này có liên quan trực tiếp tới sự bùng nổ thông
tin trên Internet và Web mang lại. Khái niệm này đang được các chuyên gia
công nghệ thông tin sử dụng để chỉ toàn bộ hệ thống bất kể có dựa trên một
thư viện truyền thống hay không. Môi trường kỹ thuật Internet hiện nay thậm
chí cho phép một số người coi toàn thể nguồn thông tin trên mạng một lúc

nào đó như một thư viện số ảo toàn cầu mà độc giả là toàn thể những người
sử dụng mạng trên hành tinh và các công cụ tìm tin, sự hiện diện của Web
bảo đảm các chức năng thư mục cho thư viện đó. Tuy nhiên sự khác biệt
giữa Thư viện điện tử, Thư viện số với kho thông tin khổng lồ trên Internet
đó là World Wide Web (www) thiếu hẳn những đặc điểm quan trọng của
việc sưu tầm có chọn lọc và tổ chức thông tin chặt chẽ như trong thư viện
điện tử và thư viện số.

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

Thư viện điện tử cũng có thể hiểu theo nghĩa tổng quát: Là một loại
hình thư viện đã tin học hóa toàn bộ hoặc một số dịch vụ thư viện; Là nơi
người sử dụng có thể tới để tra cứu, sử dụng các dịch vụ thường làm như với
một thư viện truyền thống nhưng đã được tin học hóa. Nguồn lực của Thư
viện điện tử bao gồm cả tài liệu in giấy và tài liệu đã được số hóa.
- Thư viện số (TVS):
Theo Michael Lesk – 1997: “Các thư viện số là các bộ sưu tập thông
tin số hóa được tổ chức. Chúng bao gồm việc cấu trúc và thu thập thông tin
là các công việc mà các thư viện truyền thống vẫn luôn phải làm và các máy
tính có nhiệm vụ trình bày các thông tin đó…Một thư viện số thực sự cũng
tạo ra các nguyên tắc quản lý những yếu tố cấu thành thư viện và các phương
thức tổ chức thư viện”.
Theo Gladney – 1994: “Một thư viện số phải là tập hợp các thiết bị
máy tính, lưu trữ, truyền thông cùng với các nội dung số và phần mềm để tái
tạo, thúc đẩy và mở rộng các dịch vụ thông tin của các thư viện truyền thống

chứa các tài liệu trên giấy và các vật mang tin khác vẫn làm như thu thập,
biên mục, tìm kiếm, phân phát thông tin. Một dịch vụ thư viện số đầy đủ trọn
vẹn phải bao gồm đảm bảo có cả các dịch vụ chính yếu của các thư viện
truyền thống và khai thác tối đa các ích lợi của công nghệ lưu trữ số, tìm
kiếm thông tin số và truyền thông số”
Tựu chung lại, các thư viện số với mục đích đạt được các yêu cầu cao
của xã hội đều phải:
- Phục vụ một cách lý tưởng một cộng đồng hay một tập hợp cộng
đồng người dùng tin xác định nào đó.
- Không phải là một thực thể đơn độc.
- Được cấu tạo bởi cấu trúc thống nhất, logic và tổ chức.
- Kết hợp giữa việc học tập, giáo dục với quá trình truy cập.
- Tận dụng tối đa yếu tố con người (cán bộ thư viện) cũng như các yếu
tố công nghệ.
K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

- Tạo sự truy cập thông tin nhanh chóng và hiệu quả cùng với một loạt
các phương thức truy cập đa dạng, đa chiều.
- Cung cấp truy cập miễn phí (có thể đối với một cộng đồng người
dùng tin xác định)
- Sở hữu và quản lý, kiểm soát được các nguồn tài nguyên thông tin
của mình (cũng có thể phải mua ở bên ngoài)
- Có một tập hợp nguồn tài nguyên thông tin với các đặc điểm sau:
+ Lớn và ổn định.
+ Được tổ chức và quản trị tốt.

+ Có nhiều khổ mẫu và khuôn dạng khác nhau…
- Tài liệu điện tử:
Hiện nay khái niệm về tài liệu điện tử ở Việt nam vẫn còn rất mơ hồ,
chưa có một khái niệm rõ ràng.
Có thể xem tài liệu điện tử là tài liệu được trình bày và lưu trữ trên các
vật mang tin điện tử và có thể truy cập được thông qua hệ thống máy tính
điện tử và mạng máy tính. Các vật mang tin ở đây có thể là băng từ, đĩa từ,
các bộ phận lưu trữ thông tin của máy tính.
Sự ra đời của tài liệu điện tử là kết quả tất yếu của bùng nổ thông tin
và bùng nổ công nghệ.
- Tài liệu số (TLS):
Theo từ điển giải nghĩa của Mindwrap, “Tài liệu số” là những tài liệu
được lưu giữ bằng máy tính. TLS có thể được tạo lập bởi máy tính như việc
xử lý các file văn bản, các bảng biểu hoặc chúng có thể được chuyển đổi
sang dạng số từ những tài liệu dạng khác. TLS cũng được đề cập đến như là
tài liệu điện tử.
Từ định nghĩa trên cho thấy, TLS được xây dựng thông qua hai kênh:
- Kênh 1: Tạo lập tài liệu gốc bằng máy tính thông qua việc xử
lý các file văn bản, hình ảnh, bảng biểu,…

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

- Kênh 2: Tạo lập TLS thông qua hình thức chuyển đổi định
dạng các tài liệu đã được tạo lập ở dạng khác như (Scan, ghi âm,…)
Tóm lại có thể hiểu TLS là tất cả những tài liệu được trình bày dưới

dạng số mà máy tính có thể đọc được.
Như vậy tài liệu số và tài liệu điện tử có thể xem như là hai khái niệm
có cùng nội hàm và có thể được dùng thay thế cho nhau.
- Số hóa:
Thư viện Trường Đại học Cornell định nghĩa số hóa: “là quá trình tỷ
biến các tài liệu in ấn trên giấy được chuyển sang dạng số, cho phép các
trang thiết bị như máy tính để đọc, máy quét hình phẳng, camera số, camera
động và một loạt các thiết bị khác được sử dụng để số hóa tài liệu”.
Tóm lại: Số hóa là tiến trình chuyển tài liệu thư viện truyền thống, cụ
thể là sách và văn bản sang dạng điện tử và lưu trữ trên máy tính.
- Siêu dữ liệu: (tiếng Anh “METADATA”):
Để mô tả tài nguyên thông tin số người ta dùng siêu dữ liệu
(Metadata). Thuật ngữ “meta” xuất xứ là một từ Hy Lạp để chỉ một cái gì đó
có bản chất cơ bản hoặc cao hơn. Vì vậy có thể hiểu “metadata” là dữ liệu về
dữ liệu và được sử dụng thông thường nhất để mô tả tài nguyên thông tin
trên web.
Theo tiến sỹ Warwick Cathro, “siêu dữ liệu là những thành phần mô tả
tài nguyên thông tin hoặc hỗ trợ thông tin truy cập đến tài nguyên thông tin”.
Siêu dữ liệu được xác định là “dữ liệu mô tả các thuộc tính của đối tượng
thông tin và trao cho các thuộc tính này ý nghĩa, khung cảnh và tổ chức. Siêu
dữ liệu còn có thể định nghĩa là dữ liệu có cấu trúc về dữ liệu”. Gail Hodge
định nghĩa siêu dữ liệu là “thông tin có cấu trúc mà nó mô tả, giải thích, định
vị, hoặc làm cho nguồn tin trở nên dễ tìm kiếm, sử dụng và quản lý hơn. Siêu
dữ liệu được hiểu là dữ liệu về dữ liệu hoặc thông tin về thông tin”.

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp


Lê Thị Thúy

Theo Dempsey và Heery, 1997: “siêu dữ liệu là dữ liệu đi kèm với đối
tượng thông tin và nó cho phép những người sử dụng tiềm năng có thể biết
trước sự tồn tại cũng như đặc điểm của đối tượng thông tin này”.
Nói tóm lại, siêu dữ liệu là thông tin mô tả tài nguyên thông tin.
1.2.2. Vai trò, vị trí của nguồn tài liệu số đối với sự phát triển của
Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Tài liệu số trong thư viện chính là di sản văn hóa của dân tộc. Bởi
cũng giống như các loại tài liệu truyền thống khác tài liệu số lưu giữ, truyền
bá và bảo quản những giá trị văn hóa truyền thống của nhân loại từ đời này
qua đời khác. Đồng thời nó còn là cơ sở quan trọng để phục vụ bạn đọc;
phục vụ các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…của đất nước.
- Xây dựng và tổ chức khai thác nguồn tài liệu số sẽ tạo khả năng truy
cập và bảo quản thông tin cho thư viện từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động
của thư viện và rồi người sử dụng sẽ trở nên năng động hơn trong việc tìm
kiếm thông tin bởi bởi khả năng truy cập nhanh chóng và dễ dàng bằng cách
sử dụng các tiện ích tìm kiếm của máy tính điện tử.
- Tài liệu số giúp thư viện tăng tính linh hoạt và khả năng đáp ứng nhu
cầu thông tin thể hiện ở chỗ một bản tài liệu số có thể cùng lúc phục vụ cho
nhiều đối tượng khác nhau, không phụ thuộc vào số lượng người dùng, thời
gian và vị trí địa lý của người học. Từ đó họ chủ động trong việc sắp xếp
thời gian học tập, họ có thể lấy được tài liệu qua hệ thống mạng thông tin ở
mọi lúc, mọi nơi.
- Tiết kiệm thời gian và kinh phí: Thư viện đỡ tốn kinh phí xây dựng
kho tàng, kinh phí bổ sung tài liệu, bảo quản và kinh phí trả lương cho người
phục vụ. Hơn thế nữa là giúp cho người dùng tin được dễ dàng thuận tiện,
tiết kiệm được thời gian, tiền bạc trong việc tìm thông tin. Họ có thể ngồi
ngay tại nhà hay phòng làm việc cũng có thể truy cập được tài liệu từ khắp
nơi trên thế giới.


K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

- Đối với công tác bảo quản trong thư viện thì nó giúp bảo quản được
phiên bản gốc của tài liệu, giữ gìn và tăng tuổi thọ của tài liệu quý hiếm bằng
việc giảm hao mòn, rách nát do quá trình tiếp xúc trực tiếp với tài liệu của
người sử dụng. TLS ngăn chặn những rủi ro hủy hoại do thời gian, thiên tai,
khí hậu và tần suất sử dụng.
- Nguồn tài liệu số giúp thư viện mở rộng đối tượng phục vụ: Phạm vi
phục vụ các tài liệu của thư viện không bị bó hẹp trong khuôn viên của thư
viện mà nó vươn tới các vị trí địa lý khác như tại nhà, tại trường, tại nơi làm
việc... Tài liệu số tạo ra môi trường và cơ hội bình đẳng rộng mở cho tất cả
mọi người đều có cơ hội sử dụng nguồn tài liệu học tập bởi nguồn tài liệu số
không bị giới hạn về không gian và thời gian. Loại bỏ khoảng cách tri thức
giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các quốc
gia.
- Tài liệu số giúp thư viện tăng khả năng đa truy cập cho phép người
dùng có thể tra tìm tài liệu đồng thời theo nhiều dấu hiệu khác nhau. Ví dụ
như tìm theo các yếu tố mô tả thư mục với các toán tử tìm được xây dựng
dựa trên các toán tử Boole, các toán tử thu gon, mở rộng, tìm theo các liên
kết tới các nguồn tham khảo, trích dẫn. Điều này cho phép người dùng tin có
thể mở rộng hay thu hẹp phạm vi tìm kiếm, rút ngắn thời gian và giảm thiểu
nhiễu tin.
- Tuyên truyền, phổ biến các tài liệu của nước ta với thế giới. Tài liệu
số được lưu giữ trên hệ thống máy tính do đó bạn đọc dù ở bất cứ đâu, không

gian và khoảng cách như thế nào thì cũng có thể tiếp cận tới nguồn tài liệu
của thư viện thông qua máy tính kết nối mạng internet hay intranet.
1.3. Nguồn tài liệu số trong cơ cấu vốn tài liệu của Thư viện Quốc gia
Việt Nam
Thư viện Quốc gia Việt Nam là một trong những thư viện có nguồn
TLS lớn trong cả nước. Trong đó, bên cạnh nguồn TLS mua từ bên ngoài,

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

các nguồn TLS do Thư viện tạo lập cũng rất phong phú về nội dung và đa
dạng về hình thức. Trong phạm vi đề tài này, tác giả phân chia chúng thành
hai loại CSDL chính là CSDL thư mục và CSDL toàn văn.
1.3.1. Cơ sở dữ liệu thư mục
Các CSDL thư mục là một trong những nguồn tài liệu số lớn nhất hiện
có của Thư viện, chúng đóng vai trò quan trọng giúp người dùng tin có thể
tiếp cận tới nguồn tài nguyên truyền thống quý báu với hàng triệu bản mà
Thư viện đang sở hữu. Các cơ sở dữ liệu này bao gồm:
STT

Cơ sở dữ liệu

Biểu ghi

1


Sách

340.000

2

Báo, tạp chí các ngôn ngữ

6.727

4

Luận án tiến sỹ

13.762

5

Bài trích

50.130

- CSDL sách của Thư viện Quốc gia: 340.000 biểu ghi (sách tiếng
Việt xuất bản từ 1954 đến nay, sách hệ chữ Latinh thừ 1982 đến nay, sách
tiếng Pháp kho Đông dương.
- CSDL Báo, tạp chí các ngôn ngữ: 6.272 biểu ghi.
- CSDL Báo, tạp chí nghiên cứu các ngôn ngữ nhập về thư viện trước
năm 1954: 1.718 biểu ghi
- CSDL Luận án tiến sỹ: 13.762 biểu ghi.
- CSDL Bài trích từ hơn 60 tạp chí: 50.130 biểu ghi.

1.3.2. Cơ sở dữ liệu toàn văn
Là loại hình CSDL rất được chú ý trên thế giới nhưng mới chỉ xuất
hiện trong hệ thống thư viện công cộng trong những năm gần đây với số

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

lượng không nhiều. Hiện tại ở TVQGVN có hai loại CSDL toàn văn chủ yếu
là: CSDL toàn văn do TVQGVN tạo lập và CSDL toàn văn mua từ bên
ngoài.
1.3.2.1. Cơ sở dữ liệu toàn văn do Thư viện Quốc gia Việt Nam tạo lập
- Luận án tiến sỹ
Thư viện Quốc gia là cơ quan duy nhất thu nhận các bản luận án tiến
sĩ trực tiếp từ các tác giả Việt Nam bảo vệ trong và ngoài nước và của các tác
giả nước ngoài bảo vệ tại Việt Nam. Đây là kho tài liệu quý và đặc biệt của
thư viện. Hiện tại Thư viện đã số hóa 6.402 bản tóm tắt tiếng Việt (172.002
trang) và gần 9.356 bản toàn văn (khoảng 1.812.000 trang).
Bao gồm các chủ đề:
- Khoa học tự nhiên và ứng dụng
- Khoa học xã hội và nhân văn
- Kinh tế
- Nông, lâm nghiệp
- Mỹ thuật…
- Bộ sưu tập số sách Hán Nôm cổ
Chữ Nôm là một trong những di sản quý giá của nền văn hóa Việt
Nam. Bộ sưu tập Hán Nôm của Thư viện Quốc gia Việt Nam được thu thập,

gây dựng từ những năm 60 của thế kỷ trước, đến nay đã có 1.308 cuốn,
91.768 trang ảnh và 180.000 trang tài liệu với nhiều chủng loại phong phú và
có giá trị cao. Kho sách này phản ánh xác thực các mặt trong đời sống xã
hội, lịch sử, giáo dục, khoa học địa lý của Việt Nam trong suốt tiến trình lịch
sử. Do thời gian, khí hậu, sự hạn chế về cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo quản
nên kho sách đang dần bị xuống cấp và hư hại.

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

Tài liệu Hán Nôm gốc
- Bộ sưu tập số: sách, báo Đông Dương
Sách Đông Dương: Bao gồm sách tiếng Pháp và tiếng Việt xuất bản ở
Đông Dương, viết về Đông Dương và Việt Nam. Đây là hợp đồng giữa Thư
viện Quốc gia và Chính phủ Pháp từ dự án Valease: “Tổ chức và thực hiện
chương trình số hóa tài liệu tiếng Pháp thuộc vốn di sản cổ đã được công
nhận ở Việt Nam và Đông Dương”. Thư viện Quốc gia đã tạo lập Ebook các
tài liệu viết về Việt Nam trước năm 1932. CSDL hiện có 758 tên sách,
89.512 trang, 175 bản đồ, trọn bộ tạp chí: Nam Phong; Tri Tân
- Bộ sưu tập số: Thăng Long – Hà Nội:
Bao gồm:
- Bản đồ cổ Hà Nội và vùng phụ cận
- Sách báo xuất bản sau năm 1954
- Sách báo xuất bản trước năm 1954
- Sách Hán - Nôm cổ
- Luận án tiến sỹ về Hà Nội

Có thể nói, Thư viện Quốc Gia Việt Nam đã thu thập, lưu trữ tương
đối đầy đủ bộ sưu tập tư liệu về dân tộc xưa và nay hết sức quý hiếm, trong
đó có tài liệu về Thăng Long – Hà Nội. Đặc biệt, bộ sưu tập bản đồ cổ Hà

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

Nội và vùng phụ cận mà Thư viện Quốc gia trưng bày gồm 55 bản đồ, có
niên đại khác nhau từ năm 1873 đến năm 1965. Các bản đồ được phục chế
và số hoá trong khuôn khổ Quỹ đoàn kết ưu tiên phát huy hệ thống thư tịch
cổ của các nước Đông Nam Á đã cho thấy sự thay đổi đô thị của Thủ đô Việt
Nam trải qua trong hơn một thế kỷ.

Bản đồ Thành phố Hà Nội năm 1873

Bản đồ Hà Nội năm 1945

Những tài liệu trong bộ sưu tập mang những giá trị lịch sử và văn hóa
được lựa chọn để chuyển dạng số nằm trong 5 kho tài liệu quý của Thư viện
Quốc gia Việt Nam được xuất bản từ thế kỷ XVII đến nay, đang được lưu trữ
tại các kho: sách, báo - tạp chí, bản đồ Đông Dương, kho Hán Nôm và Luận
án Tiến sỹ cùng với một số tài liệu của Nhà xuất bản Hà Nội mới phát hành
trong Dự án Hành trình tìm kiếm Di sản văn hiến Thăng Long – Hà Nội, và
của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bộ sưu tập này sẽ được cập nhật thường
xuyên nhằm cung cấp thêm tư liệu quý về Thăng Long – Hà Nội nghìn năm
văn hiến.

- Bộ sưu tập số: Sách tiếng Anh về Việt Nam
Thuộc Dự án CONSAL: 92.520 trang (338 cuốn)

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

1.3.2.2. Cơ sở dữ liệu toàn văn bổ sung từ bên ngoài

1

2

3

KEESING

PROQUEST

WILSON

- CSDL Keesing:
Đây là CSDL tập hợp toàn diện, chính xác và súc tích tất cả các bài
báo trên thế giới về chính trị, kinh tế và xã hội, các sự kiện trên toàn thế giới
từ năm 1931. Được xuất bản bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng
Hà Lan.
- CSDL ProQuest:

Đây là CSDL toàn văn tổng hợp lớn nhất hiện nay, cho phép truy cập
tới hơn 11.700 tên tạp chí, với gần 8.800 tạp chí toàn văn. ProQuest còn sở
hữu gần 30.000 luận văn, luận văn toàn văn, hồ sơ doanh nghiệp, báo cáo thị
trường, báo cáo quốc gia, cùng nhiều dạng tài liệu tham khảo bao trùm hơn
160 chuyên ngành, lĩnh vực: Quản trị kinh doanh, Tài chính, Thương mại,
Ngân hàng, Kế toán, …
- CSDL WILSON:

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

Wilson cung cấp truy cập toàn văn, thông tin tóm tắt, trích dẫn, hình
ảnh từ 11 cơ sở dữ liệu con với khoảng 4.000 tạp chí điện tử có phạm vi
thông tin từ năm 1982 – nay:
+ Wilson Applied Science and Technology Full Text
+ Wilson Art Full Text
+ Wilson Business Full Text
+ Education Full Text
+ Humanities Full Text
+ Social science Full Text
+ Index to legal Periodicals Full Text.
1.4. Đặc điểm nhu cầu tin và người dùng tin tại Thư viện Quốc gia
Việt Nam
1.4.1. Đặc điểm người dùng tin
Người dùng tin là đối tượng phục vụ của bất kỳ một cơ quan thông tin
– thư viện nào. Người dùng tin là người sử dụng thông tin đồng thời là người

sáng tạo và làm giàu nguồn tin. Thỏa mãn nhu cầu tin cho người dùng tin
cũng đồng nghĩa với việc phát triển nguồn tin của thư viện. Sự thỏa mãn nhu
cầu tin cho người dùng tin chính là cơ sở để đánh giá chất lượng hoạt động
thông tin trong thư viện.
Hiện nay, người dùng tin của Thư viện Quốc gia phát triển nhanh
chóng cả về số lượng và thành phần. Trình độ của người dùng tin có nhiều
cấp độ khác nhau. Đối tượng người dùng tin mà thư viện hướng tới là các
nhà quản lý, lãnh đạo các cấp, các ngành; cán bộ giảng dạy ở các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các trường phổ thông; cán bộ công
tác tại các đơn vị hành chính, sự nghiệp và sản xuất kinh doanh; sinh viên
các trường đại học, cao đẳng (Trước đây Thư viện chỉ làm thẻ đọc cho sinh
viên năm thứ 3, 4, nay Thư viện đã mở rộng đối tượng là sinh viên năm thứ

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

2). Qua khảo sát thực tế tôi chia đối tượng người dùng tin của TVQGVN
thành 3 nhóm chính sau:
- Nhóm 1: Cán bộ quản lý, lãnh đạo
- Nhóm 2: Cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, cán bộ trong các đơn vị
hành chính, sự nghiệp và sản xuất kinh doanh
- Nhóm 3: Sinh viên năm thứ hai trở lên ở các trường đại học và cao
đẳng
1.4.2. Đặc điểm nhu cầu tin
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra một cách mạnh mẽ
trên toàn thế giới. Nhiều thành tựu khoa học mới ra đời đã tạo nên một hiện

tượng “bùng nổ thông tin”. Lượng thông tin trong xã hội vô cùng phong phú
và đa dạng. Cũng từ đây thông tin trở thành động lực cho sự phát triển của
xã hội. Nhu cầu thông tin ngày càng lớn và trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nhu cầu tin chính là đòi hỏi khách quan của con người đối với việc tiếp nhận
và xử lý thông tin để duy trì và phát triển sự sống. Nhu cầu tin xuất phát từ
nhu cầu nhận thức của của con người tăng lên cùng với sự gia tăng các mối
quan hệ trong xã hội và mang tính chất chu kỳ. Nếu nhu cầu tin được thỏa
mãn kịp thời, chính xác thì nhu cầu tin sẽ ngày càng được phát triển. Ngược
lại, nếu nhu cầu tin không thỏa mãn thường xuyên thì nhu cầu tin sẽ bị triệt
tiêu. Càng thỏa mãn ở mức độ cao bao nhiêu thì chu kỳ càng được rút ngắn
bấy nhiêu.
Dưới đây là nhu cầu tin của các nhóm người dùng tin tại Thư viện
Quốc gia Việt Nam
1.4.2.1. Nhu cầu tin của cán bộ quản lý, lãnh đạo
Đây là nhóm người dùng tin chiếm số lượng rất ít (khoảng 5%) song
họ lại là nhóm người dùng tin rất quan trọng của Thư viện. Đáp ứng nhu cầu
tin của họ là việc mà thư viện hết sức quan tâm. Bởi lẽ họ là những người
K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

đưa ra các quyết định mang tính chiến lược và sách lược ở tầm vĩ mô hay vi
mô có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của xã hội; họ có thể là những
người xây dựng, phác thảo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, của
các bộ, các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh. Ngoài công tác quản lý,
một số cán bộ còn trực tiếp tham gia nghiên cứu khoa học. Do đó, nhu cầu
tin của họ rất đa dạng, phong phú và đòi hỏi tính kịp thời, đầy đủ và chính

xác cao. Thông tin phải vừa rộng đồng thời cũng phải mang tính chuyên sâu,
bảo mật và hệ thống.
1.4.2.2. Nhu cầu tin của cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, cán bộ trong các
đơn vị hành chính, sự nghiệp và sản xuất kinh doanh
Nhóm người dùng tin này chiếm tỷ lệ khá nhiều tại Thư viện (khoảng
27%). Họ có nhu cầu tài liệu khá cao. Thông tin họ cần vừa mang tính tổng
hợp lại vừa mang tính chuyên sâu. Nhóm người dùng tin này có khả năng sử
dụng mọi loại hình tài liệu cả truyền thống lẫn hiện đại. Tài liệu họ cần
thường là những tài liệu quý hiếm; tài liệu xám, tài liệu đã được số hóa; các
tài liệu chuyên sâu về một ngành, một lĩnh vực cụ thể mà họ quan tâm.
1.4.2.3. Nhu cầu tin của sinh viên năm thứ hai trở lên của các trường đại
học và cao đẳng
Đây là nhóm người dùng tin chiếm tỷ lệ lớn nhất tại Thư viện (gần
70%). Nhu cầu tin của họ rất cao và đa dạng. Họ mong muốn tham khảo tài
liệu để mở rộng kiến thức. Đặc biệt, các sinh viên năm cuối có nhu cầu tài
liệu chuyên ngành rất cao như: giáo trình, tài liệu nghiên cứu, tài liệu chuyên
ngành,…Bên cạnh tài liệu quốc văn, ngoại văn họ có nhu cầu sử dụng khá
cao các nguồn tài liệu số của Thư viện.
Như vậy việc nghiên cứu đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin tại
Thư viện Quốc gia Việt Nam là giúp cho việc nhận dạng được nhu cầu thông
tin và sử dụng các nguồn tài liệu số của họ, qua đó tìm ra những biện pháp

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

phù hợp để đáp ứng đúng với nhu cầu. Điều này khẳng định vai trò của Thư

viện ngày càng nâng cao.

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SỐ HÓA TÀI LIỆU VÀ
TỔ CHỨC KHAI THÁC NGUỒN TÀI LIỆU SỐ
TẠI THƯ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM
2.1. Hoạt động số hóa tài liệu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam
Công tác số hóa tài liệu là bước đầu tiên của quá trình xây dựng bộ
sưu tập số. Quá trình này quyết định đến:
- Định dạng của TLS (Dạng text, dạng ảnh và dạng đa phương tiện)
- Chất lượng của TLS nói riêng và bộ sưu tập số nói chung
- Sự đa dạng và mức độ bao quát nguồn thông tin
- Chất lượng TLS trong bộ sưu tập về mặt nội dung
Do nguồn tài nguyên của Thư viện rất phong phú và đa dạng, bao gồm
nhiều loại CSDL khác nhau nên việc tạo lập TLS cũng liên quan đến nhiều
phương thức kỹ thuật. Hiện nay, bên cạnh việc mua các CSDL khác ở bên
ngoài thì thư viện đang sử dụng hình thức tạo lập TLS chủ yếu là số hoá tài
liệu.
Trong phần này tôi xin tập trung vào quy trình số hóa tài liệu tại
TVQGVN được tiến hành thông qua 9 bước sau đây:
2.1.1. Khuôn khổ pháp lý
Thư viện Quốc gia Việt Nam là Thư viện trung tâm của cả nước với
chức năng và nhiệm vụ được quy định theo Pháp lệnh thư viện được ủy ban

thường vụ Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 28/12/2000 và được Chủ tịch
nước ký Sắc lệnh CNT ban hành ngày 11/01/2001, đồng thời là Thư viện
đứng đầu trong hệ thống Thư viện Công cộng, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trong đó, nguồn TLS đóng vai trò quan
trọng, quyết định đến hiệu quả toàn bộ nguồn tin trong nước tại Thư viện, do
vậy vấn đề số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn TLS là một nhiệm vụ

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

tất yếu. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai xây dựng và phát triển nguồn
tài nguyên này, Thư viện cũng gặp phải một số khó khăn nhất định, trong đó
có vấn đề về bản quyền cho nguồn tài liệu số hoá.

Vấn đề bản quyền thực sự đang là rào cản làm nhụt chí những người
có tâm huyết với công việc số hoá tài liệu thư viện. Sở dĩ như vậy là vì
chúng ta chưa thực sự nắm vững những quy định cụ thể của Luật bản quyền
(Luật sở hữu trí tuệ). Các cơ quan chức năng nhà nước cũng chưa có những
văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành.
Vấn đề bản quyền đối với tài liệu trong Thư viện số chia làm 2 loại:
- Các tài liệu hết luật bản quyền
Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005: Điều 27, khoản (a), (b) “Tác
phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo
hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường
hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ 50
sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.”

- Đối với tài liệu còn luật bản quyền
Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005: Điều 25: Các trường hợp sử
dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận
bút, thù lao cụ thể:
1, Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng
dạy cá nhân;

K51 Thông tin – Thư viện


Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thúy

2, Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên
cứu
Như vậy, việc số hoá tài liệu cho TVS/ TVĐT là không vi phạm bản
quyền nếu:
- Tài liệu nằm ngoài bản quyền: Tài liệu xuất bản bởi chính phủ: văn
bản pháp quy, số liệu thống kê, tài liệu thuộc lĩnh vực tư pháp (theo Luật sở
hữu trí tuệ Việt Nam; chương 1, mục 1, điều 15: Các đối tượng không thuộc
phạm vi bảo hộ quyền tác giả: “Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin; văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư
pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó; quy trình hệ thống, phương
pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu”.
- Tài liệu được bảo hộ bản quyền nhưng số hoá để sử dụng với mục
đích phi thương mại trong phạm vi hạn chế của thư viện, trường học, viện
nghiên cứu. Bản thân việc số hoá tài liệu không vi phạm bản quyền, việc vi
phạm hay không phụ thuộc vào mục đích sử dụng (chẳng hạn dùng với mục
đích thương mại làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người nắm giữ bản

quyền là vi phạm) và phạm vi sử dụng (như phổ biến rộng rãi ra công chúng
ngoài phạm vi thư viện là vi phạm).
Vậy, công tác số hoá tài liệu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam có vi
phạm bản quyền hay không? Hiện có rất nhiều quan điểm giải thích cho vấn
đề này. Tuy nhiên để có câu trả lời chính xác, cần xem xét và đối chiếu các
văn bản pháp lý vào trường hợp cụ thể của Thư viện Quốc gia Việt Nam.
Qua việc đối chiếu với các văn bản trên cho thấy, việc số hoá tài liệu tại Thư
viện là đáp ứng được yêu cầu về mục đích (phục vụ nghiên cứu, giảng dạy,
học tập), song vẫn chưa đáp ứng được những quy định đã nêu tại khoản 3
Điều 20 và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ. Việc số hoá tài
liệu khi chưa xin phép chủ sở hữu đã vi phạm khoản 6 Điều 28 Luật Sở hữu
trí tuệ về những hành vi xâm phạm quyền tác giả đó là "Sao chép tác phẩm
mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả".
K51 Thông tin – Thư viện


×