Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

luận văn thạc sĩ chất lƣợng dịch vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại tổng công ty cổ phần petrolimex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.84 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

LÊ HỮU TIỆP

CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT
XE CƠ GIỚI TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN
PETROLIMEX

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Hà Nội, Năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

LÊ HỮU TIỆP

CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT
XE CƠ GIỚI TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN
PETROLIMEX

Chuyên ngành

: Tài chính ngân hàng

Mã số


: 60.34.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:
TS .NGUYỄN BÍCH THỦY


Hà Nội, Năm 2016


4

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài Luận văn với đề tài “Chất lượng dịch vụ bảo hiểm vật chất
xe cơ giới tại Tổng công ty cổ phần Petrolimex”, bên cạnh kết quả của quá trình học
tập, nghiên cứu kết hợp với kinh nghiệm trong quá trình công tác và sự nỗ lực cố
gắng của bản thân, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy, cô giáo, đặc
biệt là TS .Nguyễn Bích Thủy đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết chỉ bảo,
hướng dẫn tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã cố gắng hoàn thiện bài luận văn nhưng
khó tránh được thiếu sót, hạn chế. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các
thầy cô để bài luận văn được hoàn thiện hơn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2016
Tác giả luận văn

Lê Hữu Tiệp



5

MỤC LỤC


6

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG BIỂU

SƠ ĐỒ


7

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu

Giải thích

BH

Bảo hiểm

BTC
Cục QLGSBH
CP

Bộ tài chính
cục /quản lý giám sát bảo hiểm

Cổ phần

CNTT

Công nghệ thông tin

DNBH
GCNBH
GĐV
HHBH
KD

Doanh nghiệp bảo hiểm
Giấy chứng nhận bảo hiểm
Giám định viên
Hiệp hội bảo hiểm
Kinh doanh

KDBH
KH

PJICO
P.KHKV
P.BH

Kinh doanh bảo hiểm
Khách hàng
Lao động
Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
Phòng khách hàng khu vực

Phòng bán hàng

PGbank
PVI
PTI

Ngân hàng xăng dầu Petrolimex
Tổng công ty bảo hiểm dầu khí
Tổng công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện

TNDS
VC
XCG

Trách nhiệm dân sự
Vật chất
Xe cơ giới


8

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm là nghành dịch vụ có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà quan trọng
hơn nó góp phần đảm bảo ổn định kinh tế cho người tham gia bảo hiểm khi chẳng
may gặp sự cố gậy thiệt hại về tài sản, việc tham gia bảo hiểm sẽ giúp cho người
tham gia bảo hiểm được bảo toàn tương đối phần tài sản tham gia bảo hiểm, từ đó
có điều kiện khôi phục lại tình trạng trước khi xảy ra tổn thất, đồng thời tạo công ăn
việc làm và nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xă hội của đất nước. Cùng với sự

phát triển xă hội, trình độ dân trí được nâng cao thì nhận thức của người dân về tác
dụng và tầm quan trọng của bảo hiểm cũng nâng lên rõ rệt, và nghành bảo hiểm sẽ
phát triển theo sự phát triển văn minh nhân loại là một xu hướng tất yếu. Ở Việt
Nam, phương tiện vận tải ngày càng gia tăng với tốc độ chóng mặt, tỷ lệ tai nạn
giao thông cao nhất nhì thế giới. Để hạn chế và khắc phục hậu quả khôn lường do
tai nạn giao thông gây ra, nhiều chủ phương tiện đã tìm đến bảo hiểm như là một
biện pháp đề phòng hữu hiệu. Số lượng xe tham gia bảo hiểm càng nhiều thì nguy
cơ rủi ro mà chúng chuyển giao cho doanh nghiệp bảo hiểm càng lớn.
Trong xu thế cạnh tranh của thì trường bảo hiểm hiện nay, xuất hiện tình trạng
cạnh tranh thiếu lành mạnh, việc cạnh tranh diễn ra chủ yếu bằng phương pháp
giảm phí, thậm chí có nhiều công ty để cạnh tranh giành dịch vụ đã chấp nhận giảm
phí đến 20 đến 30%, ngoài ra tăng chi phí bán hàng lên tới 20 đến 30% trên tổng
doanh thu, thậm chídẫn đến tình trạng làm cho nhiều công ty bị lỗ ở nhóm nghiệp
vụ bảo hiểm XCG. Tuy nhiên đối với người tham gia bảo hiểm, chi phí chỉ là 1 yếu
tố. Người được bảo hiểm quan tâm nhất là chất lượng dịch vụ. Mặt khác, nhằm
chấn chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm được lành mạnh, an toàn, bền vững và
tạo ra sân chơi công bằng hơn cho các doanh nghiệp nhỏ thì Cục quản lý giám sát
bảo hiểm (Cục QLGS BH) thuộc BTC và Hiệp Hội Bảo Hiểm (HHBH) Việt Nam đã
đưa ra mức khung tỷ lệ phí bảo hiểm vật chất XCG ở mức trần và mức sàn. Qua đó


9

để giảm sự cạnh tranh bằng cách giảm tỷ lệ phí bảo hiểm giữa các công ty. Khi có
quy định về việc giới hạn mức tỷ lệ phí trần và sàn trong bảo hiểm vật chất XCG thì
Việc áp dụng công cụ cạnh tranh bằng việc giảm phí giờ đây không thực hiện được
nhiều như trước đây nữa. Nó thúc đẩy các doanh nghiệp phải đưa những giá trị gia
tăng khác để nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty mình với các đối thủ
cạnh tranh, đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm vật chất
XCG, và lấy chất lượng dịch vụ là công cụ cạnh tranh quan trọng.

Trong thời gian 21 năm qua, khi triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm thì nghiệp
vụ bảo hiểm XCG luôn là nghiệp vụ nòng cốt, đóng góp tỷ trọng lớn sấp xỉ 50%
vào doanh thu chung của PJICO. Trong nghiệp vụ XCG, thì bảo hiểm vật chất XCG
chính là xương sống khi chiếm tỷ trọng 80-90% tổng phí của nghiệp vụ XCG của
PJICO. Trong chiến lược kinh doanh của PJICO thì nghiệp bảo hiểm XCG luôn có
vai trò quan trọng, và nắm thế chủ đạo. PJICO đã chú trọng tới chất lượng dịch vụ
bảo hiểm vật chất XCG như là một giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh, mở
rộng thị phần,quảng bá thương hiệu.
Xuất phát từ tính cấp thiết trên ta có thể thấy nâng cao chất lượng dịch vụ
bảo hiểm vật chất xe cơ giới có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hoạt động
kinh doanh của các công ty bảo hiểm nói chung và của Tổng Công Ty Cổ Phần Bảo
Hiểm PETROLIMEX (PJICO). Tác giả chọn đề tài là: “ Chất lượng dịch vụ bảo
hiểm vật chất xe cơ giới của Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)”
làm luận văn thạc sĩ của mình là cần thiết và có ý nghĩa khoa học.
2 Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
+ Đối tượng nghiên cứu: chất lượng dịch vụ bảo hiểm vật chất XCG của Tổng
Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX (PJICO).
+ Về không gian: chất lượng dịch vụ bảo hiểm vật chất XCG của Tổng Công
ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX ( PJICO)
+ Về thời gian: thời gian 3 năm từ năm 2013 – 2015 để phục vụ cho công việc
hoàn thành tốt đề tài luận văn của mình.


10

3 Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài nhằm đạt tiêu chuẩn các mục tiêu như sau:
+ Hệ thống hóa một số lý thuyết cơ bản về bảo hiểm vật chất XCG, chất lượng
dịch vụ
+ Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng dịch vụ trong bảo

hiểm vật chất XCG của Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX (PJICO)
những năm gần đây.
+ Đưa ra các kết luận và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
dịch vụ trong bảo hiểm vật chất XCG của Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm
PETROLIMEX (PJICO) nói riêng và các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nói
chung trong thời gian tới.
4 Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quá trình tìm hiểu nghiên cứu cho thấy đã có nhiều công trình, bảo hiểm phi
nhân thọ, nghiên cứu về các cơ hội thách thức của ngành bảo hiểm trong thời kỳ
mới, trong giai đoạn ra nhập WTO. Có thể kể đến một số bài viết, nghiên cứu tiêu
biểu như sau:
Vũ Quang Tuấn (2012) “Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần
Bảo hiểm PJICO trong lĩnh vực tại thị trường Việt Nam” , Luận văn thạc sĩ kinh
tế , Trường đại học Thương Mại. Luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận về năng lực cạnh
tranh của PJICO trong lĩnh vực XCG tại thị trường Việt Nam. Về mặt lý luận,
nghiên cứu các vấn đề lý luận về cạnh trang và năng lực cạnh tranh của PJICO. Về
mặt thực tiễn, phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần bảo
hiểm PJICO trong lĩnh vực XCG, Đề xuất một số chiến lược nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của PJICO trong lĩnh vực XCG.
Nguyễn Thị Hương (2014 ), “Đo lường sự thỏa mãn của khách hàng đối với
dịch vụ bảo hiểm của Công ty cổ phần bảo hiểm Pjico”, luận văn thạc sĩ kinh tế,
Chương trình hợp tác quốc tế đào tạo thạc sĩ Việt Nam – Đông Nam Á của Đại học
Nants liên kết với trường đại học Kinh Tế Quốc Dân.Phân tích trong luận văn đã
cho thấy được góc nhìn của PJICO với chất lượng dịch vụ bảo hiểm XCG và Tiêu
chí đo lường sự hài lòng của khách hàng với dịch vụ của mình. Về cơ bản, luận văn


11

đã thực hiện được mục tiêu đo lường sự hài lòng của khách hàng, thực chất là đo

lường một cách tương đối các khoảng cách chênh lệch giữa “kỳ vọng của khách
hàng” và “thực tế nhận được” đối với mỗi yếu tố cấu thành nên Chất lượng dịch vụ.
Để từ đó có thể thiết kế các sản phẩm dịch vụ và những yếu tố xung quanh thu hẹp
tối đa khoảng cách này và đáp ứng được tốt nhất kỳ vọng của khách hàng. Bằng
nghiên cứu tổng thể sự hài lòng của khách hàng với chất lượng dịch vụ bảo hiểm
XCG của PJICO, luận văn đã đưa ra giải pháp theo từng tiêu chí đo lường và cũng
đã có những đề xuất cụ thể với các cơ quan quản lý trong việc hỗ trợ và tạo điều
kiện tốt hơn cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh bảo hiểm XCG.
Các công trình, đề tài nghiên cứu đó đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau
về bảo hiểm như quản lý rủi ro, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường khai thác
dịch vụ, phát triển khách hàng, đánh giá cơ hội. Mỗi công trình nghiên cứu đều có
giá trị tại một thời điểm nhất định …. Nhưng chưa có luận văn nào nghiên cứu dịch
vụ bảo hiểm vật chất XCG tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex trong giai
đoạn 2013-2015. Trên cơ sở đó,luận văn tiếp tục nghiên cứu theo hướng cụ thể và
không trùng lắp với những kết quả, công trình đã công bố trước đó.
5 Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề đặt ra cần nghiên cứu đề tài của luận văn :” Chất lượng
dịch vụ bảo hiểm vật chất XCG của Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
(PJICO) “ tác giả sử dụng phương pháp định tính và định lượng để nghiên cứu thông
qua các công cụ và phương pháp cụ thể là thu thập dữ liệu và tổng hợp phân tích dữ
liệu
Phương pháp thu thập dữ liệu
+ Thu thập dữ liệu sơ cấp :
 Phương pháp quan sát :

Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin qua việc sử dụng các
giác quan và các công cụ hỗ trợ để ghi nhận lại quá trình thực hiện công việc của
đối tượng cần quan sát, để từ đó đánh giá tính đúng đắn và đầy đủ công việc mà họ
thực hiện. Phương pháp này cũng thích hợp trong các tình huống khi phỏng vấn
không thu thập được thông tin chính xác hoặc không lấy được đầy đủ thông tin vì

đối tác không muốn trả lời hoặc tỏ ý không hợp tác.


12

Theo phương pháp này, tác giả tiến hành quan sát tại phòng chăm sóc khách
hàng, bộ phận kế toán giám định, bồi thường của công ty. Thông qua phương pháp
này, tác giả nghiên cứu hành vi của người người bán hàng và người có trách nhiệm
giải quyết sau bán hàng về dịch vụ bảo hiểm vật chất XCG về quy trình, thủ tục với
khách hàng....
 Phương pháp khảo sát.

Theo phương pháp này những người sử dụng dịch vụ bảo hiểm vật chất XCG
của Công ty theo mẫu phiếu điều tra do tác giả thiết kế. Phương pháp này được thực
hiện nhằm đánh giá tổng quan và cũng đảm bảo thông tin về chất lượng dịch vụ bảo
hiểm vật chất XCG của công ty. Để tiến hành điều tra, khảo sát, tác giả đã thực hiện
theo các bước sau :
Bước 1: Lên kế hoạch điều tra.
-Xác định mục đích điều tra : Điều tra nhằm thu thập các thông tin về chất
lượng dịch vụ bảo hiểm vật chất XCG cho khách hàng tại công ty.
-Xác định đối tượng điều tra : Đối tượng điều tra là khách hàng sử dụng dịch
vụ bảo hiểm vật chất XCG tại công ty.
-Thời gian và địa điểm điều tra: Điều tra được tiến hành bằng cách gửi phiếu
điều tra cho khách hàng đã sử dụng dịch vụ bảo hiểm vật chất XCG của PJICO.
Thời gian điều tra tiến hành từ 07/07/2016 – 10/10/2016.
-Xây dựng bảng hỏi
-Hình thức điều tra: Phát phiếu điều tra tới khách hàng qua email, gọi điện xin
ý kiến phản hồi của khách thông qua trung tâm dịch vụ khách hàng, tác giả lấy kết
quả phản hồi từ trung tâm dịch vụ khách hàng .
Bước 2: Tiến hành điều tra

Tiến hành phát phiếu trực tiếp các đối tượng khách hàng của công ty. Gửi
email cho những khách hàng thường liên lạc qua email. Gọi điện cho khách hàng
xin ý kiến khảo sát.
Tác giả đã sử giấy bút để ghi chép, thu lại cuộc nói chuyện để làm tư liệu sử
dụng trong việc viết luận văn này.


13

Bước 3: Tổng hợp lại phiếu điều tra được Công ty thiết kế ngay tại thông báo
bồi thường, để phục vụ cho công tác phân tích và xử lí số liệu.
+ Thu thập dữ liệu thứ cấp :
+ Thu thập thông tin: Số liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo thường
niên, các báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh Tổng công ty cổ phần bảo hiểm
Petrolimex giai đoạn 2013-2015, từ các cơ quan thống kê, phương tiện truyền
thông, số liệu lấy từ hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.
Sau khi thu thập đầy đủ các thông tin liên quan tới nội dung đề tài nghiên cứu, sử
dụng phương pháp so sánh, phương pháp biểu mẫu để phân tích , đánh giá dữ liệu. Đây
là một phương pháp hết sức quan trọng và là khâu trọng yếu trong quá trình viết bài
luận. Cụ thể:
Ngoài ra, tác giả tiến hành thu thập dữ liệu có liên quan như: tình hình dân
số, tình hình số lượng XCG tại Việt Nam giai đoạn 2013-2015.
Phương pháp phân tích dữ liệu
Sau khi thu thập đầy đủ các thông tin liên quan tới nội dung đề tài nghiên cứu,
cần phải sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp biểu mẫu để phân tích , đánh giá
dữ liệu. Đây là một phương pháp hết sức quan trọng và là khâu trọng yếu trong quá
trình viết bài luận. Cụ thể:
+Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh là phương pháp xem xét các chỉ tiêu phân tích bằng cách
dựa trên việc so sánh số liệu với một chỉ tiêu cơ sở ( chỉ tiêu gốc). Tiêu chuẩn để so

sánh thường là : tình hình thực hiện các kỳ kinh doanh đã qua. Điều kiện để so sánh
là : các chi tiêu so sánh phải phù hợp về yếu tố không gian, thời gian, cùng nội dung
kinh tế, đơn vị đo lường, phương pháp tính toán. Phương pháp so sánh có hai hình
thức: so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối. So sánh tuyệt đối dựa trên hiệu số của
hai chỉ tiêu so sánh là chỉ tiêu kỳ phân tích và chỉ tiêu kì cơ sở. So sánh tương đối là
tỷ lệ (%) của chỉ tiêu kì phân tích so với chỉ tiêu kì gốc để thể hiện mức độ hoàn
thành hoặc tỷ lệ của số chênh lệch tuyệt đối với chỉ tiêu gốc để nói lên tốc độ tăng
trưởng. Trong bài của mình, tác giả đã sử dụng phương pháp so sánh để xác định


14

mức độ biến động của dịch vụ bảo hiểm vật chất XCG giữa năm 2015 với năm
2014, tình hình thực hiện bồi thường, cũng như thực tế thực hiện quy trình cung cấp
dịch vụ của công ty, qua đó thấy được tình hình chất lượng dịch vụ bảo hiểm vật
chất XCG của công ty có đạt hiệu quả không.
+ Phương pháp biểu mẫu
Biểu phân tích được thiết lập theo các dòng, các cột để ghi chép các chỉ tiêu và số
liệu phân tích. Trong đó, có những dòng cột dùng để ghi chép các số liệu thu thập được
và có dòng cột để cần phải tính toán, phân tích. Các dạng biểu phân tích thường có mối
liên hệ với nhau: so sánh giữa số thực hiện được với số kế hoạch, so với số cùng kỳ
năm trước hoặc so sánh giữa chỉ tiêu cá biệt với chỉ tiêu tổng thể. Số lượng các dòng,
cột tùy thuộc vào mục đích và yêu cầu của nội dung phân tích.
Qua các thông tin sơ cấp và thứ cấp thu thập được, cùng với các phương pháp
trên: Sàng lọc các thông tin cần thiết đối với đề tài nghiên cứu, tiến hành phân tích
các thông tin thu thập được từ đó đưa ra các bảng số liệu thống kê, các đánh giá,
tổng hợp về tình hình cung cấp dịch vụ bảo hiểm vật chất XCG thông qua đánh giá
chất lượng dịch vụ này tại công ty góp phần hoàn thành nghiên cứu.
6 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái luận về chất lượng dịch vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Chương 2: Thực trạng chất lượng dịch vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại
Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex


15

CHƯƠNG 1. KHÁI LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ BẢO HIỂM
VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI
1.1. Công ty bảo hiểm và các nhóm sản phẩm bảo hiểm
1.1.1. Công ty bảo hiểm và các hoạt động kinh doanh cơ bản
1.1.1.1 Khái niệm về công ty bảo hiểm
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng
góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế, kĩ thuật, nghiệp vụ...
Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành, phân
phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi ro, các biến
cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn
ra bình thường.
Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít người
cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi
người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ
chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do
rủi ro đó gây ra.
Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp tài trợ
rủi ro, được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là tổn thất
về tài chính, nhân mạng,...
Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một
cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm.Bảo hiểm

hoạt động dựa trên Quy luật số đông bù số ít.
Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời, nhưng do
tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa
thống nhất về công ty bảo hiểm. Dưới giác độ khác nhau, có các quan niệm về công
ty bảo hiểm khác nhau.
Theo khoản 5 điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm: “Doanh nghiệp bảo hiểm là
doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật kinh
doanh bảo hiểm và các quy đinh khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh
bảo hiểm, tái bảo hiểm.”


16

Dưới góc độ là một tổ chức trung gian tài chính: Công ty bảo hiểm là trung
gian tài chính thực hiện nhiệm vụ chi trả cho các sự kiện không mong đợi xảy ra.
Như vậy, Chúng ta có thể hiểu Công ty bảo hiểm là tổ chức huy động vốn
bằng cách bán chứng nhận bảo hiểm cho công chúng và sử dụng vốn huy động
được để đầu tư trên thị trường chứng khoán. Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của
doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm
chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm,trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí
bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc
bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
1.1.1.2 Đặc trưng của công ty bảo hiểm
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng giống như các hoạt động kinh doanh
khác, đó là nhằm mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, có 1 số đặc thù của kinh doanh bảo
hiểm được thể hiện:
- Đây là dịch vụ tài chính đặc biệt, là hoạt động kinh doanh trên những rủi ro.
Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình, nó là sự đảm bảo về mặt tài chính
trước rủi ro cho người được bảo hiểm kèm theo là dịch vụ có liên quan.
- Chu kỳ kinh doanh bảo hiểm là chu kỳ đảo ngược, tức là sản phẩm được bán

ra trước, doanh thu được thực hiện sau đó mới phát sinh chi phí.
1.1.1.3 Các hoạt động kinh doanh cơ bản của công ty bảo hiểm
Cũng giống như các doanh nghiệp kinh doanh khác, công ty bảo hiểm cũng có
những sản phẩm riêng,mang tính đặc trưng của mình. Do đó, hoạt động kinh doanh
bảo hiểm của công ty bao gồm: Kinh doanh bảo hiểm , kinh doanh tái bảo hiểm;
Quản lý quỹ và đầu tư; Đề phòng hạn chế rủi ro, tổn thất và Giám định tổn thất. Cụ
thể từng hoạt động như sau:
Thứ nhất: kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm
-

Kinh doanh bảo hiểm :
Là hoạt động nhằm mục đích sinh lời. Ở đây, công ty bảo hiểm chấp nhận rủi
ro của đối tượng được bảo hiểm trên cơ sở đối tượng mua bảo hiểm đóng phí bảo
hiểm cho người bán bảo hiểm. Kinh doanh bảo hiểm phải dựa trên nguyên tắc lấy
số đông bù số ít.


17

- Kinh doanh tái bảo hiểm: Tái bảo hiểm là một loại nghiệp vụ mà Nhà bảo
hiểm sử dụng để phân tán rủi ro. Thực tế tái bảo hiểm được hình thành trên cơ sở
bảo hiểm gốc nên nó luôn gắn liền với nghiệp vụ bảo hiểm gốc. Người ta thường
nói “tái bảo hiểm chính là bảo hiểm cho các nhà bảo hiểm” bởi những tổn thất mà
các công ty bảo hiểm phải gánh chịu đã được dàn trải ra, chia sẻ rủi ro.
Thứ hai: quản lý quỹ và đầu tư vốn:
Mục đích của kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm là lợi nhuận. Do đó, quản
lý quỹ và đầu tư vốn là hết sức quan trọng và cần thiết.
Sau khi thu phí, công ty bảo hiểm chưa phải chi trả bồi thường ngay, doanh
nghiệp bảo hiểm (DNBH) có trong tay một quỹ tài chính tập trung khá lớn, nhưng
quỹ này chưa được sử dụng để bồi thường ngay nên DNBH có thể sử dụng lượng

tiền nhàn rỗi này để đầu tư. Ngoài ra công ty còn Quỹ trích lập quỹ dự phòng
nghiệp vụ: là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm mục đích
thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh
từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết. Các quỹ trích lập dự phòng bồi thường (đã
phát sinh trách nhiệm bồi thường, nhưng chưa hoàn thiện hồ sơ để bồi thường,
hoặc lí do khác...)
Trong thực tế ở Việt Nam hiện nay thì lãi đầu tư chính là lọi nhuận chủ yếu
của các công ty bảo hiểm, vì vậy nghiệp vụ này đóng vai trò rất quan trọng.
Thứ ba : Doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện các hoạt động khác như : đề
phòng hạn chế rủi ro, tổn thất và quản trị rủi ro.
Thứ tư : Giám định tổn thất; đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi
thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn và các hoạt động khác theo quy định của
pháp luât.
1.1.2 Sản phẩm bảo hiểm
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, bảo hiểm ngày nay đã bao gồm nhiều
hình thức hết sức đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở các tiêu chí khác
nhau, chúng ta lại có được các loại hình khác nhau của bảo hiểm. Người ta có thể
phân loại dựa trên cơ chế hoạt động, tính chất, đối tượng của bảo hiểm, cũng như có
thể dựa theo quy định của pháp luật.


18

 Phân loại theo đối tượng bảo hiểm:

Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm thì toàn bộ các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm
được chia thành ba nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm trách
nhiệm:
(1)Bảo hiểm tài sản: là loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo hiểm.Khi
xảy ra rủi ro tổn thất về tài sản như mất mát, hủy hoại về vật chất,người bảo hiểm

có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào giá trị thiệt hại
thực tế và số tiền bảo hiểm trên hợp đồng;
(2) Bảo hiểm con người: đối tượng của các loại hình này,chính là tính mạng,
thân thể, sức khỏe của con người. Người ký kết hợp đồng bảo hiểm, nộp phí bảo
hiểm để thực hiện mong muốn nếu như rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tính mạng, sức
khỏe của người được bảo hiểm thì họ hoặc một người thụ hưởng hợp pháp khác sẽ
nhận được khoản tiền do người bảo hiểm trả. Bảo hiểm con người có thể là bảo
hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm tai nạn – bệnh.
(3) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm phát
sinh do ràng buộc của các quy định trong luật dân sự, theo đó, người được bảo hiểm
phải bồi thường bằng tiền cho người thứ 3 những thiệt hại gây ra do hành vi của
mình hoặc do sự vận hành của tài sản thuộc sở hữu của chính mình. Bảo hiểm trách
nhiệm dân sự có thể là bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc bảo hiểm trách
nhiệm công cộng, bảo hiểm trách nhiệm của bên thứ ba trong đơn bảo hiểm Xây
dựng, lắp đặt, đơn bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm
 Phân loại theo tính chất của tiền bảo hiểm trả:

(1) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi thường:
Theo nguyên tắc này,số tiền mà người bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không
bao giờ vượt quá giá trị thiệt hại thực tế mà anh ta đã phải gánh chịu. Các loại bảo
hiểm này gồm có: bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự (gọi chung là
bảo hiểm thiệt hại). Với loại bảo hiểm này, về nguyên tắc, người mua bảo hiểm
không được ký hợp đồng trên giá hoặc bảo hiểm trùng;


19

(2) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc khoán: Người
được bảo hiểm sẽ nhận được số tiền khoán theo đúng mức mà họ đã thỏa thuận
trước trên hợp đồng bảo hiểm với người bảo hiểm tùy thuộc và phù hợp với nhu cầu

cũng như khả năng đóng phí. Đây chính là các loại bảo hiểm nhân thọvà một số
trường hợp của bảo hiểm tai nạn, bệnh tật.Với loại bảo hiểm này, về nguyên
tắc,người mua bảo hiểm có thể cùng một lúc ký nhiều hợp đồng bảo hiểm cho một
đối tượng và không bị hạn chế số tiền bảo hiểm.
 Phân loại theo phương thứcquản lý:

Với cách phân loại này, các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại được chia làm 2
hình thức: bắt buộc và tự nguyện
(1) Bảo hiểm tự nguyện: Là những loại bảo hiểm mà hợp đồng được kết lập
dựa hoàn toàn trên sự cân nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm. Đây là tính
chất vốn có của bảo hiểm thương mại khi nó có vai trò như là một hoạt động dịch
vụ cho sản xuất và sinh hoạt con người.
(2) Bảo hiểm bắt buộc: Được hình thành trên cơ sở luật định nhằm bảo vệ
lợi ích của nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của toàn bộ nền kinh
tế - xã hội. Các hoạt động nguy hiểm có thể dẫn đến tổn thất con người và tài
chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề nghiệp thường là đối tượng
của sự bắt buộc này.
1.2 Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.2.1 Khái niệm bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Bảo hiểm vật chất XCG là 1 loại hình bảo hiểm tài sản, do đặc thù là tài sản có
thể di chuyển trên bộ, vì vây được xếp sang nhóm nghiệp vụ bảo hiểm XCG, nó
được thể hiện dưới hình thức tự nguyện. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất nhằm
mục đích bồi thường cho các thiệt hại vật chất đối với xe của mình do rủi ro thuộc
phạm vi bảo hiểm gây ra. Vì vậy, để có thể trở thành đối tượng được bảo hiểm,
XCG phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu
hành, đó là: được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký, biển kiểm soát, giấy
chứng nhận kiểm định an toán kỹ thuật và môi trường, giấy phép lái xe.


20


Đây là gói bảo hiểm không bắt buộc nhưng lại là gói bảo hiểm rất cần cho việc
sử dụng xe. Tham gia sử dụng bảo hiểm vật chất xe ô tô, trong trường hợp xảy ra
các sự cố va chạm gây hư hỏng hay bị mất cắp, bên bảo hiểm sẽ bù đắp những
khoản chi phí khắc phục thiệt hại giúp bạn chủ động hơn về tài chính và yên tâm
trong việc sử dụng xe.
1.2.2 Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Trong hoạt động bảo hiểm, thì yếu tố đối tượng bảo hiểm là yếu tố rất quan
trọng, xác định được đối tượng bảo hiểm thì các công ty bảo hiểm sẽ thiết kế các
sản phẩm và các điều kiện điều khoản phù hợp.
XCG được tham gia bảo hiểm vật chất bao gồm: ô tô, xe chuyên dụng. Bảo
hiểm vật chất XCG là bảo hiểm cho chính giá trị chiếc xe hoặc số tiền bảo hiểm mà
người tham gia bảo hiểm đăng ký (số tiền có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của xe)
và số tiền bảo hiểm chính là cơ sở để công ty bảo hiểm tính phí, cũng như là cơ sở
bồi thường khi có tổn thất xảy ra.
-Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường cho những thiệt
hại vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây ra.
Đây là loại hình bảo hiểm tài sản vì vậy được thực hiện dưới hình thức tự
nguyện. Khi tham gia bảo hiểm chủ xe phải lưu ý 4 vấn đề sau:
- Trong mọi trường hợp không bao giờ bảo hiểm bồi thường vượt quá số tiền
ghi trong đơn bảo hiểm, hay nói cách khác đó là giới hạn tối đa để bồi thường.
- Nếu chủ xe cũ đã mua bảo hiểm, sau đó chuyển quyền sở hữu cho người
khác thì chủ xe mới vẫn được hưởng quyền bảo hiểm đó cho đến hết hợp đồng,
nhưng chủ xe phải báo cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ cấp sửa đổi bổ
sung thay đổi thông tin của người được bảo hiểm.
- Bảo hiểm không chịu phần hao mòn tự nhiên của chiếc xe, ngoài ra chủ xe
phải chịu các khoản miễn thường, hao mòn, hỏng hóc máy móc, hỏng lốp xe do sử
dụng bị hao mòn hay thủng.



21

1.2.3 Phạm vi bảo hiểm vật chất xe cơ giới
XCG là tài sản lớn cần được bảo vệ, việc tham gia bảo hiểm XCG giúp bảo vệ
được tài sản một cách tốt nhất. Công ty bảo hiểm chỉ bảo hiểm những rủi ro bất
ngờ, không lường trước được như tai nạn, cháy nổ… Các yếu tố rủi ro thường gặp
như hao mòn, mất cắp.. đều không được công ty bảo hiểm chi trả. Cụ thể phạm vi
bảo hiểm vật chất XCG bao gồm:
 Các rủi ro được bảo hiểm thông thường bao gồm:

- Tai nạn do đâm va, lật đổ;
- Cháy nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá;
- Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên;
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được
bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho
chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi
ro được bảo hiểm;
- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất;
- Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm;
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm
không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm.
 Công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất

của xe gây ra bởi:
- Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết
tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa.
- Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp bị hư hỏng mà
không do tai nạn gây ra.
- Mất cắp bộ phận xe (trừ khi có thỏa thuận khác).

- Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới
với người thứ ba.


22

- Hành vi trục lợi của khách hàng, hành vi gian lận hoăc cố ý hủy hoại hoặc
không cứu chữa tài sản của khách hàng.
1.2.4 Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Giá trị bảo hiểm là giá giá trị của chiếc xe tham gia bảo hiểm.Còn Số tiền bảo
hiểm là giới hạn trách nhiệm tối da mà công ty bảo hiểm phải trả trong rường hợp
xảy ra sự kiện bảo hiểm.Trong đó số tiền bảo hiểm luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị
bảo hiểm.
Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa trên các yếu tố sau để xác
định giá trị xe:
- Loại xe;
- Năm sản xuất;
- Mức độ cũ, mới của xe;
- Thể tích làm việc của xi lanh…
Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm hay áp
dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao.
1.2.5 Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể, các
công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau:
+ Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ
rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất xe được tính riêng cho từng loại. Thông
thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu xác định phí bảo hiểm phù hợp
cho hầu hết các xe thông dụng thông qua việc phân loại xe thành các nhóm. Việc
phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ
khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng. Đối với các xe hoạt động

không thông dụng như xe kéo rơ moóc, xe chở hàng nặng… do có mức độ rủi ro
cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí
cơ bản.
Giống như cách tính phí bảo hiểm nói chung, phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi
đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức sau:


23


24

P=f+d
Trong đó: P – Phí thu mỗi đầu xe
d – Phụ phí
f – Chi Phí bồi thường
Theo công thức trên, việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào những nhân tố
sau:
- Tình hình bồi thường tổn thất của những năm trước đó. Căn cứ vào số liệu
thống kê, công ty bảo hiểm sẽ tính toán được phần phí bồi thường “f” cho mỗi đầu
xe như sau:
F

=

Σ Si x Ti
Σ Ci

(Với i = 1, 2, … , n)
Trong đó:


Si – Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i

Ti – Thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i
Ci – Số xe hoạt động thực tế trong năm thứ i
- Các chi phí khác hay còn gọi là phần phụ phí (d), bao gồm các chi phí như
chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý …
+ Khu vực giữ xe và để xe: Trong thực tế, không phải công ty bảo hiểm
nào cũng quan tâm đến nhân tố này. Tuy nhiên, cũng có một số công ty bảo hiểm
tính phí bảo hiểm dựa theo khu vực giữ xe và để xe rất chặt chẽ.
+ Mục đích sửa dụng: Đây là nhân tố quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó
giúp công ty bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ, xe do một người
về hưu sử dụng cho mục đích đi lại đơn thuần chắc chắn sẽ đóng phí bảo hiểm thấp
hơn so với xe do một thương gia sử dụng để đi lại trong những khu vực rộng lớn. Rõ
ràng xe lăn bánh trên đường càng nhiều, rủi ro tai nạn càng lớn.
+ Tuổi tác kinh nghiệm lái xe : của người yêu cầu bảo hiểm và những người
thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm. Số liệu thống kê cho thấy rằng các
lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các
công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 hoặc 55


25

tuổi, do kinh nghiệm cho thấy số người này gặp ít tai nạn hơn so với các lái xe trẻ
tuổi. Tuy nhiên, với những lái xe quá lớn tuổi (thường từ 65 tuổi trở lên) thường
phải xuất trình giấy chứng nhận sức khoẻ phù hợp để có thể lái xe thì công ty
bảo hiểm mới nhận bảo hiểm.
Ngoài ra, để khuyến khích hạn chế tai nạn, các công ty bảo hiểm thường yêu
cầu người được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra với xe (hày còn gọi là
mức miễn thường). Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này thường

cao hơn so với những lái xe lớn tuổi.
+ Giảm phí bảo hiểm: Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia
bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí
so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các
công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia bảo
hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỷ lệ giảm giá này cho một số năm không có
khiếu nại gia tăng. Có thể nói đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới.
Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động
một số ngày trong một năm, thì chủ xe phải đóng phí bảo hiểm cho những ngày
hoạt động đó theo công thức sau:
Phí bảo hiểm

= Mức phí cả năm x

Số tháng hoạt động trong năm
12 tháng

+ Biểu phí đặc biệt: Khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều,
các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính
toán biểu phí riêng cũng tương tự như cách tính biểu phí được đề cập ở trên, chỉ
khác là chỉ dựa trên các số liệu về bản thân khách hàng đó, cụ thể:
- Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm;
- Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hang ở
những năm trước đó;
- Tỷ lệ phụ phí theo quy định của công ty;
Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo
hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt tính được là cao



×