Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

luận văn thạc sĩ Hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần đầu tƣ và phát triển đô thị hải dƣơng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.76 KB, 123 trang )

1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học, độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc
rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ HÀ PHƯƠNG


2


3
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trong
khoa Sau đại học đã tận tình dạy bảo và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá
trình học tập cũng như trong thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo – PGS.TS Phạm
Công Đoàn đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi và cho tôi những lời khuyên vô
cùng quý báu trong suốt quá trình nghiên cứu thực tế để hoàn thành tốt luận văn
của mình.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn toàn thể Ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên của
Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương đã cung cấp cho tôi những
thông tin và dữ liệu cần thiết trong quá trình điều tra khảo sát để nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên giúp đỡ rất nhiều để tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do trình độ, năng lực và thời gian có hạn
nên luận văn của tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô và độc giả để luận văn được hoàn thiện


tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học Viên
Nguyễn Thị Hà Phương


4

MỤC LỤC

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


5

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Viết tắt

CP
ĐVT
NVDH
NVNH
TSCĐ
TSDH
TSNH
VCĐ
VLĐ
VCSH
VKD

Nội dung đầy đủ
Cổ phần
Đơn vị tính
Nguồn vốn dài hạn
Nguồn vốn ngắn hạn
Tài sản cố định
Tài sản dài hạn
Tài sản ngắn hạn
Vốn cố định
Vốn lưu động
Vốn chủ sở hữu
Vốn kinh doanh


6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trước những biến đổi sâu sắc của nền kinh tế toàn cầu hóa, khi mà mức độ
cạnh tranh hàng hóa dịch vụ giữa các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong
nước và quốc tế ngày càng khốc liệt đã buộc tất cả các doanh nghiệp không những
phải vươn lên trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn phải biết phát huy tiềm
lực tối đa để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất. Vì thế các nhà quản
trị doanh nghiệp phải luôn nắm rõ được thực trạng sản xuất kinh doanh và thực
trạng tài chính của doanh nghiệp mình, từ đó có những chiến lược, kế hoạch phù
hợp nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp được coi là một tế bào của nền
kinh tế với nhiệm vụ là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho xã hội, từ đó đạt được mục đích tối đa hóa
lợi nhuận của mình. Và để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, doanh
nghiệp buộc phải có một lượng vốn nhất định. Như vậy, vốn là điều kiện không thể
thiếu cho việc hình thành và phát triển của doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện
của nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp đang phải tồn tại trong một môi trường
cạnh tranh và hoàn toàn tự chủ thì vấn đề vốn ngày càng trở nên quan trọng, nó quyết
định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường.
Trong một nền kinh tế đang nóng như hiện nay, nhu cầu vể vốn cho nền kinh
tế nói chung và cho các doanh nghiệp nói riêng là một vấn đề mang tính cấp thiết
đòi hỏi sự quan tâm lớn của các doanh nghiệp và Nhà nước. Nếu như doanh nghiệp
kinh doanh không hiệu quả và không đảm bảo được nhu cầu về vốn thì khó có thể
tồn tại và phát triển được ngay cả khi đó là một doanh nghiệp Nhà nước. Ngược lại,
khi đã đảm bảo được nhu cầu về vốn thì việc sử dụng làm sao cho hiệu quả cũng
không phải là vấn đề đơn giản.
Trên thực tế, khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường thì có nhiều doanh
nghiệp thích nghi được và kinh doanh có hiệu quả, song bên cạnh đó nhiều doanh


7
nghiệp có sức ì lớn đã không có được sự thay đổi kịp thời dẫn đến tình trạng thua lỗ

và phá sản. Tuy nhiên một lý do phải kể đến và là một trong những nguyên nhân
chính là do công tác quản lý vốn của doanh nghiệp còn hạn chế.
Trong những năm gần đây, xây dựng cơ bản nói chung và ngành xây dựng nói
riêng giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một trong những lĩnh
vực sản xuất vật chất lớn của nền kinh tế quốc dân, cùng các ngành sản xuất khác,
trước hết là ngành công nghiệp chế tạo và ngành công nghiệp vật liệu xây dựng,
nhiệm vụ của ngành xây dựng là trực tiếp thực hiện và hoàn thành khâu cuối cùng
của quá trình hình thành tài sản cố định cho toàn bộ các lĩnh vực sản xuất của nền
kinh tế quốc dân và các lĩnh vực phi sản xuất khác.
Sự xuất hiện của quá nhiều các công ty xây dựng cũng như vấn đề về sự chậm
trễ trong việc rót vốn vào các công trình xây dựng đã gây ra những bất lợi lớn đối với
Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương. Trong 3 năm gần đây, kết quả
hoạt động của công ty luôn sụt giảm cũng như hiệu quả hoạt động của công ty, điều
này chứng tỏ cơ chế quản lý cũng như giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty đều rất yếu kém đòi hỏi công ty cần có những cải tổ mạnh trong
mọi khía cạnh kinh doanh của công ty. Trong đó việc tìm ra những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả sử vốn của công ty là điều quan trọng nhất bởi nếu hiệu quả sử
dụng vốn tốt thì sẽ đảm bảo được tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng
thanh toán, gia tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Nhận thấy tầm quan
trọng đó nên em quyết định tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “Hiệu quả sử dụng vốn
tại Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hiệu quả sử dụng vốn trong
công ty, cụ thể là:
Nghiên cứu về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có các đề tài:
Luận án tiến sĩ đề tài “Nghiên cứu nâng cao hiệu qua sử dụng vốn kinh doanh
tại các doanh nghiệp khai thác than tại tình Quảng Ninh,áp dụng công ty TNHH một
thành viên than thống nhất - TKV” của tác giả Nguyễn Quốc Tuấn (2012). Luận án



8
đã làm rõ được những lý luận về vốn, khái niệm sử dụng vốn, các nhân tố ảnh hưởng
đến nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các doanh nghiệp trong kinh tế thị trường.
Ngoài ra Luận án còn đưa ra và làm rõ các giải pháp huy động vốn một cách linh hoạt
và sử dụng vốn một cách có hiệu quả tại công ty than Thống Nhất.
Luận án tiến sĩ đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của các
doanh nghiệp xây dựng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Cao Văn Kế (2015). Luận
án đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của các
doanh nghiệp xây dựng. Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng của một số quốc gia, từ đó rút
ra một số bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp xây dựng ở Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ
phần xây lắp Bưu điện Hà Nội” của tác giả Trần Lệ Phương (2011). Luận văn đã hệ
thống hóa về mặt lý luận những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp, phân tích đánh giá thực trạng sử dụng vốn tại Công ty cổ phần xây
lắp Bưu điện Hà Nội, đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho
Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ “Hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Sông Đà 11” của tác giả
Nguyễn Văn Kỳ (2015). Luận văn đã nghiên cứu tổng quan về vốn và hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp, phân tích và đánh giá thực trạng sử dụng vốn của Công
ty cổ phần Sông Đà 11, đề xuất các giải pháp chuyên sâu nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn cho Công ty cổ phần Sông Đà 11.
Bài viết của tác giả Bùi Anh Trâm “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn”, đăng trên báo An ninh thủ đô ngày 28/3/2013. Trên cơ sở phân tích, đánh giá
thực trạng tình hình sử dụng vốn của các doanh nghiệp hiện nay, tác giả phân tích
tầm quan trọng của việc các doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Những đề tài trên đã nêu lên tương đối sát thực tế về những tồn tại hiện nay về
hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Trên cơ sở đó học viên tiếp tục nghiên cứu
theo hướng chuyên sâu, cụ thể và không trùng lắp với những kết quả, công trình đã

công bố trước đó. Đề tài “Hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần đầu tư và phát


9
triển đô thị Hải Dương” sẽ tham khảo những thành quả đạt được của các luận án,
luận văn, bài báo trên, đồng thời tiếp tục nghiên cứu những lý luận chung về hiệu
quả sử dụng vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phân tích thực trạng sử dụng
vốn, hiệu quả sử dụng vốn và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương.
Những điểm mới của luận văn:
Thông qua kết quả nghiên cứu tổng quan về vốn kinh doanh. Luận văn chỉ ra
khoảng trống khoa học cả về lý luận cũng như trong thực tiễn về vốn kinh doanh và
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty, cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung và hoàn thiện.
Từ kết quả nghiên cứu luận văn đã đưa ra những đánh giá khách quan khoa
học về thực trạng sử dụng vốn của các Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị
Hải Dương trong giai đoạn 2013-2015. Từ đó luận văn đưa ra nhận xét Công ty cổ
phần đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương đã kinh doanh chưa có hiệu quả và gặp
nhiều khó khăn trong việc sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận /
doanh thu luôn thấp. Đồng thời luận văn đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty trong cơ chế hiện nay.
Trên cơ sở nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của công ty, kết hợp với kinh nghiệm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của các doanh nghiệp xây dựng có hiệu quả. Áp dụng vào điều kiện cụ thể
của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương, luận văn đã đề xuất và
tính toán giải pháp và nhóm giải pháp cụ thể.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.


Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp,
nghiên cứu thực trạng sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty cổ phần
đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương từ năm 2013 - 2015; luận văn đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận cho công ty giai đoạn 2016 – 2020.


10

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về vốn kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty cổ phần
đầu tư và phát triển Hải Dương, nắm bắt được các thuận lợi cũng như khó khăn mà
công ty gặp phải.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hiệu quả sử dụng vốn tại công ty
cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương, luận văn đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cho giai đoạn đến 2020.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp và thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Cổ phần đầu tư và phát
triển đô thị Hải Dương. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
giai đoạn 2016 - 2020

5. Phạm vi và nội dung nghiên cứu:
- Nội dung : Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hiệu quả sử dụng vốn
từ năm 2013 – 2015. Đánh giá những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế trong việc sử
dụng vốn của công ty trong ba năm vừa qua. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao

lợi nhuận cho công ty giai đoạn 2016 – 2020
- Về thời gian: Số liệu phục vụ nghiên cứu về thực trạng hiệu quả sử dụng vốn
tại công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương từ năm 2013 đến năm
2015. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho công ty giai đoạn
2016 – 2020.
- Về không gian: Nghiên cứu, đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn và đề xuất các
giải pháp tại Công ty cổ phần đầu tư và phát triền đô thị Hải Dương.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu, nghiên cứu tài liệu
Kế thừa các số liệu và kết quả nghiên cứu đã có, được sử dụng để giải quyết
các vấn đề liên quan của đề tài.


11
Tham khảo các tài liệu về tình hình tài chính, doanh thu, chi phí, lợi nhuận
của Công ty cổ phần đầu tư và phát triền đô thị Hải Dương trong thời gian qua.
Nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập tại bộ phận có liên quan của Công ty cổ
phần đầu tư và phát triền đô thị Hải Dương.
- Phương pháp phân tích tư liệu:
Nghiên cứu được thực hiện thông qua tài liệu thứ cấp trong khoảng thời gian
từ năm 2013 đến năm 2015. Việc thực hiện nghiên cứu thực tiễn và thu thập số liệu
minh chứng cho quá trình tìm hiểu về hiệu quả sử dụng vốn và các giải pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần đầu tư và phát triền đô thị Hải Dương
được tác giả thực hiện từ năm 2013 đến năm 2015 từ đó tác giả đề xuất giải pháp
của đề tài định hướng giải pháp cho năm 2016 – 2020.
Địa điểm thực hiện nghiên cứu: Việc thực hiện nghiên cứu được tiến hành tại
Công ty cổ phần đầu tư và phát triền đô thị Hải Dương.
- Phương pháp thống kê mô tả: Thu thập, hệ thống hóa, xử lý số liệu và thông
qua các số bình quân, số tuyệt đối, số tương đối để đánh giá các chỉ tiêu nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh:

Là phương pháp được dùng chủ yếu trong phân tích hoạt động sản xuất kinh
doanh, phương pháp này đòi hỏi các chỉ tiêu đánh giá có cùng điều kiện, có tính so
sánh được để rút ra kết luận về hiện tượng và trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Các điều kiện để so sánh được của các chỉ tiêu kinh tế như sau:
+ Phải thống nhất về nội dung phản ánh.
+ Phải thống nhất về phương pháp tính toán.
+ Số liệu thu thập được của các chỉ tiêu kinh tế phải cùng một khoảng thời
gian tương ứng.
+ Các chỉ tiêu kinh tế phải có cùng đại lượng biểu hiện là đơn vị đo lường.
Tùy theo mục đích yêu cầu, tính chất và nội dung của việc phân tích các tiêu chí
kinh tế mà sử dụng phương pháp so sánh cho thích hợp.
Số tuyệt đối: Là mức độ biểu hiện quy mô, khối lượng, giá trị của một chỉ tiêu
kinh tế nào đó trong thời gian và địa điểm cụ thể. Nó có thể tính bằng thước đo hiện
vật, giá trị, giờ công. Số tuyệt đối là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác.
So sánh tuyệt đối: Là so sánh giữa các chỉ tiêu kinh tế của kỳ kế hoạch với kỳ
thực tế, giữa những khoảng thời gian, không gian khác nhau để thấy được mức độ


12
hoàn thành, quy mô phát triển của chỉ tiêu kinh tế nào đó.
So sánh tương đối: Là tỉ lệ phần trăm (%) của chỉ tiêu phân tích so với chỉ tiêu
gốc để thực hiện mức độ hoàn thành hoặc tỷ lệ của số chênh lệch tuyệt đối với chỉ
tiêu gốc để nói lên tốc độ tăng trưởng.
- Phương pháp xử lý dữ liệu: Phần mềm Excel được sử dụng để thống kế hệ
thống các dữ liệu có được.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
Chương :
Chương 1: Lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Chương 2 : Thực trạng và hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần đầu tư

và phát triển đô thị Hải Dương
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ
phần đầu tư và phát triển đô thị Hải Dương


13

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VỐN VÀ QUẢN LÝ VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh

Theo lý thuyết kinh tế cổ điển thì vốn là một trong những yếu tố đầu vào để sử
dụng trong kinh doanh. Vốn bao gồm các sản phẩm lâu bền được chế tạo để sử dụng
kinh doanh như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, ... theo quan điểm
này vốn được nhìn nhận dưới góc độ hiện vật là chủ yếu.
Trong cuốn "Kinh tế học", David Begg đã đưa ra 2 định nghĩa về vốn: Vốn hiện
vật và vốn tài chính của doanh nghiệp.
"Vốn hiện vật": là dự trữ các hàng hóa đã sản xuất để sản xuất ra hàng hóa khác.
"Vốn tài chính": Là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp.[2, tr213]
P. Samuelson có quan niệm về vốn trên một giác độ rộng hơn khi ông cho rằng
vốn là hàng hóa được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu
vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp. Như vậy, vốn kinh doanh có thể tồn
tại dưới cả hình thái tiền tệ và hình thái hiện vật như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
nguyên vật liệu, hàng hóa trung gian.....[1, tr73]
Do đó, có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn nhưng vốn đều thể hiện là một
yếu tố cơ bản, là tiền đề cần thiết cho việc hình thành và hoạt động sản xuất kinh doanh
của một doanh nghiệp.

Dưới góc độ là một phạm trù kinh tế, vốn là một điều kiện tiên quyết của bất
cứ doanh nghiệp ngành kinh tế, dịch vụ và kỹ thuật nào trong nền kinh tế thuộc hình
thức sở hữu khác nhau. Trong các doanh nghiệp kinh doanh nói chung, vốn là hình
thái giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý
có kế hoạch vào việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.


14
Vốn của một doanh nghiệp bao gồm: con người, công nghệ, tiền tệ… Có thể
nói, vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn phi tiền tệ và vốn tiền tệ.
-

Vốn phi tiền tệ: Là nguồn vốn không thể nhìn thấy, chạm vào hay đo lường được,
nhưng lại chứa đứng những động lực quan trọng nhất tạo nên lợi nhuận cho doanh
nghiệp.

-

Vốn tiền tệ: là tiền huy động vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện nay tất cả các loại vốn này đều có thể được
quy ra tiền tệ. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả xin nghiên cứu về
vốn tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành SXKD mỗi doanh nghiệp đòi hỏi phải
có một lượng vốn tiền tệ nhất định để đầu tư vào SXKD. Lượng vốn tiền tệ đó gọi là
vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên
vận động và chuyển hóa từ hình thái ban đầu là tiền sang hình thái hiện vật và cuối
cùng lại trở về hình thái ban đầu là tiền. Sự vận động của Vốn kinh doanh như vậy
được gọi là sự tuần hoàn của vốn, thể hiện qua sơ đồ sau:
T - H ----> TLSX (TLLĐ + ĐTLĐ) - SX - H' - T'
SLĐ

Quá trình vận động của vốn bắt đầu từ việc nhà sản xuất bỏ vốn tiền tệ để mua
sắm các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Lúc này vốn tiền tệ được chuyển hóa thành vốn
dưới hình thức vật chất (TLLĐ, ĐTLĐ, SLĐ....). Sau quá trình sản xuất, số vốn này kết
tinh vào sản phẩm. Sau quá trình tiêu thụ sản phẩm số vốn này lại quay lại hình thái
ban đầu là vốn tiền tệ.
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên liên tục nên sự tuần
hoàn của vốn kinh doanh cũng diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo
thành sự chu chuyển của vốn kinh doanh.
Từ các phân tích trên, ta có thể định nghĩa tổng quát về Vốn kinh doanh
như sau:


15
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài
sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhằm mục đính sinh lời.
Chỉ có những tài sản có giá trị được sử dụng vào sản xuất kinh doanh mới được
coi là Vốn kinh doanh.
1.1.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh.

- Vốn đại diện cho một lượng tài sản nhất định.
Vốn là biểu hiện bằng tiền cho giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình
như: nhà xưởng, đất đai, máy móc, nguyên vật liệu, bằng phát minh sáng
chế....Nhưng vốn không đồng nhất với hàng hóa, tiền tệ thông thường. Tiền tệ, hàng
hóa là hình thái biểu hiện của vốn nhưng chỉ khi chúng được đưa vào quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời, chúng mới được coi là
vốn. Với tư cách là vốn, các tài sản của doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh nhưng nó không bị tiêu mất đi mà được thu hồi giá trị. Nhận thức
được đặc trưng này của vốn, các doanh nghiệp tìm mọi cách để khai thác, sử dụng
biến vốn tiềm năng thành vốn hoạt động.

- Vốn phải được vận động nhằm mục đích sinh lời.
Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Đề
tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được vận động sinh lời. Trong quá trình
vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và
điểm cuối cùng của tuần hoàn phải là giá trị - là tiền với trị lớn hơn (T - H - T'). Đó
là nguyên lý của đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn.
- Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát
huy được tác dụng.
Để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phải tập trung một lượng vốn đủ lớn để
mua sắm máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất kinh doanh và chủ động
trong các phương án sản xuất kinh doanh. Do đó, các doanh nghiệp ngoài việc tự
huy động vốn còn phải tìm cách thu hút vốn từ nhiều nguồn khác nhau (như: phát
hành cổ phiếu, liên doanh liên kết, phát hanh trái phiếu...) để đáp ứng nhu cầu hoạt
động kinh doanh ở một quy mô nhất định.


16
- Vốn có giá trị về thời gian:
Ngoài yếu tố đầu tư sinh lời, giá trị của đồng tiền còn chịu ảnh hưởng của yếu
tố cơ hội đầu tư, lạm phát, chính trị....Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, đặc
trưng này của vốn dường như không được quan tâm xem xét kỹ lưỡng. Việc nhà
nước giao vốn, giao kế hoạch sản xuất, cung cấp nguyên vật liệu, bao tiêu toàn bộ
sản phẩm và vô hình chung đã tạo ra sự ổn định đồng tiền cho nền kinh tế một cách
giả tạo. Trong nền kinh tế thị trường, giá trị thời gian của vốn ảnh hưởng lớn đến
sản xuất kinh doanh cũng như giá trị của doanh nghiệp. Nhận thức đặc trưng này
không những giúp doanh nghiệp so sánh kết quả kinh doanh một cách đơn thuần mà
phải tìm biện pháp bảo toàn vốn.
- Vốn phải gắn với chủ sở hữu.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định. Chỉ khi
xác định rõ chủ sở hữu thì vốn mới được chi tiêu tiết kiệm, hiệu quả. Ở đây, cần

phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn. Tùy theo hình thức đầu tư mà người
sở hữu hanh người sử dụng có thể đồng nhất hay tách rời, song dù trường hợp nào
thì người sở hữu vốn vẫn được ưu tiên, đảm bảo quyền lợi và phải được tôn trọng
quyền sở hữu của mình. Đây là một nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong việc huy
đọng và sử dụng vốn. Nó cho phép huy động nguồn vốn nhần rỗi trong dân cư vào
sản xuất kinh doanh, đồng thời quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt. Nó có
giá trị và giá trị sử dụng. Việc mua bán vốn bằng tiền (quyền sử dụng vốn) diến ra
trên thị trường tài chính. Giá cả của nó do quan hệ cung cầu quyết định. Những
người thừa vốn có thể đưa vốn đến thị trường, những người cần vốn thì đến thị
trường để mua hoặc vay vốn, họ phải trả một khoản tiền nhất định theo một tỷ lệ lãi
suất để được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Quyền sở hữu vốn vẫn
thuộc về người chủ nợ (quyền sở hữu và quyển sử dụng tách rời nhau thông quan
quan hệ mua bán và vay mượn). Đặc trưng này đã làm phát sinh khái niệm chi phí
sử dụng vốn trong nền kinh tế thị trường. Nhận thức điều này, các chủ doanh nghiệp
cần tìm biện pháp khai thác nguồn vốn có hiệu quả và chi phí thấp nhất, tận dụng
tối đa chức năng này của vốn không gây lãng phí.


17
- Vốn là hàng hóa đặc biệt.
Vốn có giá trị và giá trị sử dụng. Vốn không chỉ biểu hiện bằng tài sản hữu
hình mà còn bao gồm cả những tài sản vô hình như bằng phát minh sáng chế, lợi thế
thương mại, bản quyền, vị trí kinh doanh.... Nhận thức được đặc trưng này, các
doanh nghiệp cân có biện pháp khai thác, tạo lập vốn để đáp ứng nhu cầu vốn phục
vụ sản xuất kinh doanh của từng đơn vị.
1.1.2. Nguồn vốn và phân loại nguồn vốn

Nguồn vốn là nguồn hình thành nên các tài sản của doanh nghiệp. Để có vốn
hoạt động SXKD doanh nghiệp phải khai thác, tạo lập vốn. Hiện nay nhà nước cho

phép các doanh nghiệp được quyền huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi
nguồn đều có ưu và nhược điểm riêng. Tùy theo các cách phận loại khác nhau mà
VKD của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn khác nhau.
1.1.2.1 Phân loại theo quan hệ chủ sở hữu vốn

Căn cứ vào quan hệ sở hữu vốn SXKD của doanh nghiệp, vốn SXKD hình
thành từ hai nguồn sau:
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Phản ánh số vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh
nghiệp. Nguồn vốn chủ sở hữu là một nguồn vốn quan trọng, có chi phí sử dụng
vốn thấp và có tính ổn định cao, thể hiện quyền tự chủ về tài chính của doanh
nghiệp. Trong một doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu thường bao gồm:
+ Nguồn vốn đầu tư ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập, chủ doanh
nghiệp phải đầu tư một số vốn nhất định. Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà
nguồn vốn đầu tư ban đầu thuộc về các đối tượng khác nhau: Với doanh nghiệp nhà
nước, nguồn vốn đầu tư ban đầu là vốn điều lệ của doanh nghiệp nhà nước do
NSNN cấp; đối với doanh nghiệp tư nhân nguồn vốn đầu tư ban đầu do chủ doanh
nghiệp bỏ ra để thành lập doanh nghiệp; đối với công ty liên doanh liên kết nguồn
vốn đầu tư ban đầu là những khoản đóng góp theo tỷ lệ cam kết giữa các chủ đầu tư
khi thành lập doanh nghiệp; đối với công ty cổ phần nguồn vốn đầu tư ban đầu do
các cổ đông góp vốn.


18
+ Nguồn vốn tự bổ sung: Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp
tạo ra một luồng tiền nội bộ. Luồng tiền này phản ánh khả năng tự tài trợ cao nhất
mà doanh nghiệp có thể khai thác. Đó là số tiền tăng thêm trong kỳ bao gồm một
phần của lãi ròng được giữ lại để tái đầu tư.
Nguồn vốn chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng với mỗi doanh nghiệp ở bất
kỳ một lĩnh vực kinh doanh nào. Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp được sử dụng
một cách lâu dài và không phải cam kết thanh toán. Quy mô, tỷ trọng nguồn vốn

chủ sở hữu càng lớn thì tiềm lực tài chính của doanh nghiệp càng mạnh và tính chủ
động trong kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
Tuy nhiên, cũng chính vì đặc điểm này của nguồn vốn chủ sở hữu mà tạo ra
hạn chế về mặt hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn này. Vì nguồn vốn này do
doang nghiệp toàn quyền quyết định việc sử dụng mà không phải chịu sự giám sát
khách quan từ bên ngoài, lại không phải cam kết thanh toán nên có thể doanh
nghiệp không quan tâm đúng mức đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm
bảo toàn và phát triển vốn một cách lâu dài.
- Nợ phải trả:
Phản ánh số vốn thuộc quyền sở hữu của các chủ thể khác mà doanh nghiệp
chỉ được quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Ưu điểm của nguồn vốn này
có thể dễ dàng huy động được, chi phí sử dụng vốn là tiền lãi vay. Nợ phải trả của
doanh nghiệp thường bao gồm nợ vay (nguồn vốn tín dụng) và nợ chiếm dụng
(nguồn vốn chiếm dụng).
Nguồn vốn tín dụng bao gồm: tất cả các khoản vay của doanh nghiệp với các
tổ chức, cá nhân như: khoản vay ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng, các pháp
nhân khác, vay cá nhân, nguồn vốn vay từ việc phát hành trái phiếu..Khi sử dụng
nguồn vốn này, doanh nghiệp thường phải trả lãi và có nghĩa vụ thanh toán cả gốc
lẫn lãi khi đến hạn.
Việc đi vay vốn có thể đáp ứng nhu cầu vốn trong ngắn hạn, dài hạn cho
doanh nghiệp, hoặc có thể huy động được số vốn lớn kịp thời phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được ổn định, liên tục. Mặt khác, đây


19
cũng là phương thức sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế, bởi lẽ vốn
đi vay sẽ hợp lý hóa một cách tối ưu các nhu cầu tạm thời về vốn phát sinh trong
chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không nên lạm dụng
nguồn vốn này, nó như con dao hai lưỡi nếu sử dụng hợp lý sẽ cho phép doanh
nghiệp tăng sức cạnh tranh, tận dụng được cơ hội đầu tư. Ngược lại, nếu tỷ lệ vốn

vay trong tổng nguồn vốn quá cao có thể sẽ dẫn đến những rủi ro về mất khả năng
thanh toán, nguy cơ vỡ nợ, có thể dẫn đến phá sản.
Xét về mặt hiệu quả khi đi vay vốn, doanh nghiệp sẽ tự nâng cao ý thức sử
dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất để đảm bảo khả năng trả lãi và vốn vay khi đến
hạn. Đồng thời doanh nghiệp sẽ chịu sự giám sát của tổ chức cho vay trong quá
trình sử dụng vốn vay nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ. Sự giám sát khách quan
cùng với những ý kiến tư vấn của tổ chức cho vay trong việc sử dụng vốn sẽ giúp
doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay.
Do đó, khi sử dụng vốn vay phải chú ý cơ cấu vốn của doanh nghiệp, kế hoạch
sử dụng vốn phải đảm bảo hợp lý, đúng mục đích, quản lý tốt các quỹ tiền mặt, kỳ
trả nợ, kỳ thu tiền, kế hoạch sản xuất kinh doanh phải bám sát thực tế. Nguồn vốn
vay sẽ là đòn bẩy tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay là gánh nặng đối
với doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào các nhân tố này.
Nguồn vốn chiếm dụng bao gồm: các khoản phải trả cho ngân sách nhà nước,
phải thanh toán với người bán, phải trả công nhân viên, các khoản phải trả khác.
Trong đó, nguồn vốn chiếm dụng của nhà cung cấp là tương đối quan trọng,. Việc
chiếm dụng này có thể phải trả chi phí hoặc không, nó đáp ứng được nhu cầu về các
yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp để phục vụ sản xuất kinh doanh mà chỉ phải bỏ ra
một số tiền ít hơn số tiền đáng lẽ phải thanh toán ngay cho nhà cung cấp và như vậy
doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ tiền mặt của mình vào các mục đích khác. Tuy
nhiên, cần lưu ý nguồn vốn này không nên chiếm dụng quá nhiều và quá lâu vì nó
có thể ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Cách phân loại như trên nhằm tạo ra khả năng xem xét và có các phương án
tối ưu để huy động các nguồn vốn sao cho tạo ra cơ cấu nguồn vốn hợp lý, tối ưu để
đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và
tăng giá trị cho doanh nghiệp.


20
1.1.2.2 Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn


Căn cứ vào thời gian huy động vốn và sử dụng vốn thì có thể chia nguồn vốn
của doanh nghiệp thành: nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
- Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng có tính
chất ổn định và lâu dài trong SXKD bao gồm: vốn chủ sở hữu và các khoản vay
dài hạn. Đây là nguồn vốn lâu dài, được dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ và một
bộ phận TSLĐ tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp tại một thời điểm có thể được xác
định bằng công thức :
Nguồn vốn thường xuyên = Vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn
Hoặc
Nguồn vốn thường xuyên = Giá trị tổng tài sản của DN – Nợ ngắn hạn
- Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm)
mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời phát
sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn tạm thời thường bao
gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn
hạn khác.
Việc phân loại này giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xem xét huy động
các nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng kịp thời vốn cho SXKD với
chi phí sử dụng vốn hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.1.3. Phân loại vốn trong doanh nghiệp
1.1.3.1. Phân loại vốn kinh doanh

Căn cứ vào vai trò và đặc điểm luân chuyển của Vốn kinh doanh khi tham gia
vào quá trình Sản xuất kinh doanh thì Vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm 2
loại vốn: Vốn cố định và vốn lưu động. Đây là hình thức phân loại thể hiển rõ ràng,
chính xác và hầu hết các doanh nghiệp hiện nay đang áp dụng.



21
a) Vốn cố định của doanh nghiệp
- Vốn cố định (VCĐ) là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định
(TSCĐ) của doanh nghiệp. Đó là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ
mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất
và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. Tuy nhiên VCĐ
và TSCĐ có sự khác biệt: khi bắt đầu hoạt động, VCĐ của doanh nghiệp có giá trị
bằng nguyên giá của TSCĐ, về sau giá trị của VCĐ thường thấp hơn nguyên giá
của TSCĐ do khấu hao đã trích trong quá trình đưa TSCĐ vào sử dụng.
Theo quy định hiện hành ở nước ta, các tư liệu lao động được coi là TSCĐ
phải có giá trị từ 30 triệu đồng và thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên. Các tư liệu lao
động không đủ các tiêu chuẩn trên được gọi là các công cụ lao động nhỏ, được mua
sắm bằng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp.
Đặc điểm luân chuyển của VCĐ trong quá trình sản xuất: Giá trị của vốn luân
chuyển dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất và được thu hồi dưới hình
thức khấu hao cơ bản. Như vậy, trong quá trình tham gia vào sản xuất, một bộ phận
giá trị của VCĐ được rút ra khỏi quá trình sản xuất và được tích lũy lại dưới hình
thức quỹ khấu hao cơ bản. Trong khi đó một bộ phận giá trị vẫn được "cố định"
trong hình thái của TSCĐ. Và cứ sau mỗi chu kỳ sản xuất, bộ phận giá trị hao mòn
rút ra khỏi quá trình sản xuất tăng dần, quỹ khấu hao cơ bản tăng dần lên còn bộ
phận cố định trong TSCĐ thì giảm dần đi. Khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng thì VCĐ
mới hoàn thành một vòng tuần hoàn còn gọi là "một vòng luân chuyển".
Đặc điểm luân chuyển của VCĐ đã chi phối việc bảo toàn vốn ở tất cả các
khâu từ khâu mua sắm đến khâu sử dụng, quản lý TSCĐ trong kinh doanh, trích
khấu hao để thu hồi và sử dụng quỹ khấu hao cơ bản. Bên cạnh đó, việc kinh doanh
kém hiệu quả, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, giá bán thấp hơn giá thành
nên thu nhập không đủ bù đắp mức hao mòn của TSCĐ. Lạm phát cũng là nguyên
nhân gây thất thoát vốn mà trong công tác quản lý VCĐ doanh nghiệp phải chú
trọng. Trong quá trình luân chuyển, TSCĐ vẫn giữ nguyên hình thai vật chất nhưng
giá trị của nó giảm thông qua hình thức khấu hao. Bởi vậy, yêu cầu của quản lý và



22
sử dụng VCĐ là phải dựa trên hai cơ sở: Một là, phải đảm bảo cho TSCĐ của doanh
nghiệp được toàn vẹn và nang cao hiệu quả sử dụng của nó. Hai là, phải tính toán
chính xác số trích lập quỹ khấu hao, đồng thời phân bổ và sử dụng quý đó hợp lý để
có kế hoạch trích khấu hao bù lại giá trị hao mòn, thực hiện đổi mới TSCĐ.
Vốn cố định của doanh nghiệp đóng một vài trò quan trọng đối với một doanh
nghiệp trong quá trình hình thành và phát triển. Do đó, việc thường xuyên sửa chữa,
đổi mới, bổ sung TSCĐ và tăng thêm vốn cố định trong các doanh nghiệp có vai trò
quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc của
lao động.
b) Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động (VLĐ) là toàn bộ số tiền ứng ứng trước mà doanh nghiệp bỏ ra
để đầu tư hình thành nên các TSLĐ thường xuyên cần thiết cho hoạt động SXKD
của doanh nghiệp. VLĐ là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ TSLĐ của doanh nghiệp.
VLĐ thuần của các doanh nghiệp được xác định bằng tổng giá trị TSLĐ của doanh
nghiệp trừ đi các khoản nợ ngắn hạn.Vốn lưu động có những đặc điểm khác với vốn
cố định. Do các TSLĐ có thời hạn sử dụng ngắn nên vốn lưu động cũng luận
chuyển nhanh.
Theo vai trò của từng loại VLĐ trong quá trình SXKD thì VLĐ được phân bổ
ở các khâu như sau:
+ VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất gồm: giá trị của các khoản nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, phụ tùng thay thế, công cụ lao động nhỏ,
bao bì, vật đóng gói.
+ VLĐ trong khâu sản xuất bao gồm: các khỏan giá trị sản phẩm dở dang, bán
thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển.
+ VLĐ trong khâu lưu thông bao gồm: các khoản giá trị thành phẩm trong kho
chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản thế chấp, ký
cược, ký quỹ ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán.

Đặc điểm luân chuyển của VLĐ: VLĐ luôn vận động chuyển hóa qua nhiều
hình thái khác nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư hàng


23
hóa và cuối cùng lại trở về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình SXKD của
doanh nghiệp diễn ra liên tục không ngừng cho nên VLĐ cũng tuần hoàn không
ngừng, được gọi là quá trình chu chuyển của VLĐ.
Trong quá trình sản xuất khác với TSCĐ, TSLĐ luôn thay đổi hình thái biểu
hiện để tạo ra sản phẩm, vì vậy giá trị của nó cũng được chuyển dịch toàn bộ một
lần vào giá trị thành phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này đã quyết định sự vận động của
VLĐ: T - H - SX - H' - T' (T' > T). VLĐ chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất của
doanh nghiệp và không còn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó
được dịch chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Vốn này được thu hồi sau
một chu kỳ sản xuất kinh doanh và tiếp tục được đưa vào chu kỳ sản xuất tiếp theo
một cách liên tục.
Từ đặc điểm, phương thức chuyển dịch giá trị và vận động của VLĐ mà trong
công tác quản lý vốn, doanh nghiệp cần quan tâm:
- Phải xác định được số VLĐ cần thiết cho chu kỳ SXKD của doanh nghiệp.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý vốn, đảm bảo đầy đủ, kịp thời VLĐ
cho quá trình SXKD được liên tục tránh ứ đọng vốn.
- Tổ chức khai thác các nguồn tài trợ VLĐ cũng như bảo toàn và phát triển
VLĐ để việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
1.1.3.2. Nguyên tắc quản lý và sử dụng vốn

Như đã nêu ở mục 1.1.3.1, vốn kinh doanh bao gồm vốn cố định và vốn lưu
động, vì thế các nguyên tắc quản lý và sử dụng vốn sẽ được đề cập trên cơ sở: nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn cố định và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
•Các nguyên tắc quản lý và biện pháp sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp
Để bảo toàn và phát triển được Vốn cố định, các doanh nghiệp cần đánh giá

đúng các nguyên nhân dẫn tới tình trạng không bảo toàn được Vốn cố định để có
biện pháp xử lý thích hợp. Có thể nêu ra một số nguyên tắc chủ yếu sau đây:
- Phải đánh giá đúng giá trị của TSCĐ tạo điều kiện phản ánh chính xác
tình hình biến động của vốn cố định, quy mô vốn phải bảo toàn. Điều chính kịp
thời giá trị của TSCĐ để tạo điều kiện tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao, không
để mất TSCĐ.


24
Có ba phương pháp đánh giá chủ yếu:
Một là: Đánh giá TSCĐ theo nguyên giá: là toàn bộ các chi phí thực tế của
doanh nghiệp đã chi ra để có được TSCĐ cho đến khi đưa TSCĐ vào hoạt động
bình thường như giá mua thực tế của TSCĐ, các chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lắp
đặt, chạy thử, lãi tiền vay đầu tư TSCĐ khi chưa bàn giao và đưa TSCĐ vào sử
dụng, thuế và lệ phí trước bạ (nếu có)...Cách đánh giá này là căn cứ để xác định số
tiền phải khấu hao để tái sản xuất giản đơn TSCĐ.
Hai là: Đánh giá TSCĐ theo giá trị khôi phục (còn gọi là đánh giá lại): là giá
trị để mua sắm TSCĐ ở tại thời điểm đánh giá. Do ảnh hưởng của khoa học kỹ
thuật, giá trị đánh giá lại thường thấp hơn nguyên giá của TSCĐ. Tuy nhiên trong
trường hợp có sự biến động của giá cả, giá trị đánh giá lại có thể cao hơn giá trị ban
đầu của nó. Ưu điểm của cách đánh giá này là thống nhất các mức giá của TSCĐ
được mua sắm ở các thời điểm khác nhau về thời điểm đánh giá, loại trừ sự biến
động về giá cả. Do đó, nó là một căn cứ để xem xét, điều chỉnh mức khấu hao, loại
trừ ảnh hưởng của hao mòn vô hình.
Ba là: Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại: là phần giá trị còn lại của TSCĐ
chưa chuyển vào giá trị sản phẩm. Giá trị còn lại có thể tính theo giá trị ban đầu
(nguyên giá còn lại). Cách đánh giá này cho phép thấy được mức độ thu hồi vốn
đầu tư đến thời điểm đánh giá. Từ đó giúp cho việc lựa chọn chính sách khấu hao để
thu hồi số vốn đầu tư còn lại để bảo toàn vốn SXKD của mình.
- Lựa chọn phương pháp khấu hao và xác định mức khấu hao thích hợp, không

để mất vốn và hạn chế tói đa ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình. Nguyên tắc
chung là mức khấu hao phải phù hợp với hao mòn thực tế của TSCĐ. Nếu khấu hao
thấp hơn mức hao mòn thực tế sẽ không đảm bảo thu hồi đủ vốn khi TSCĐ hết thời
hạn sử dụng. Ngược lại sẽ làm tăng chi phí một cách giả tạo làm giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải xem xét cụ thể mối quan hệ giữa chi phí
sản xuất đầu vào và giá bán sản phẩm ở đầu ra để có chính sách khấu hao phù hợp
với quan hệ cung cầu trên thị trường, vừa đảm bảo thu hồi đủ vốn, vừa không gây
nên sự đột biến trong giá cả. Trong trường hợp TSCĐ có hao mòn vô hình lớn cần
áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần để hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô
hình.


25
- Chú trọng đổi mới trang thiết bị, phương pháp công nghệ sản xuất, đồng thời
nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ hiện có của doanh nghiệp cả về thời gian và công
suất. Kịp thời thanh lý các tài sản khong cần dùng hoặc đã hư hỏng, không dự trữ
quá mức các TSCĐ chưa cần dùng.
- Thực hiện tố chế độ bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng TSCĐ, không để xảy ra
tình trạng TSCĐ hư hỏng trước thời hạn hoặc hư hỏng bất thường gây thiệt hại
ngừng sản xuất.
- Doanh nghiệp phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro
trong kinh doanh để hạn chế tổn thất VCĐ do các nguyên nhân khách quan như:
mua bảo hiểm tài sản, lập quỹ dự phòng tài chính, trích trước chi phí dự phòng giảm
giá các khoản đầu tư tài chính.
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước, ngoài các biện pháp nêu trên cần thực
hiện tốt quy chế giao vốn và trách nhiệm bảo toàn VCĐ đối với các doanh nghiệp.
Trong điều kiện chuyển các doanh nghiệp sang kinh doanh theo cơ chế thị trường,
thực hiện quy chế giao vốn và trách nhiệm bỏa toán VCĐ cho các doanh nghiệp
Nhà nước là một biện pháp cần thiết để tạo căn cứ pháp lý ràng buộc trách nhiệm
của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả. Đồng thời

tạo điều kiện cho doanh nghiệp có quyền chủ động hơn trong việc quản lý và sử
dụng có hiệu quả số VCĐ được giao.
• Các nguyên tắc quản lý và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp
- Xác định đúng nhu cầu VLĐ cần thiết tối thiểu cho từng giai đoạn SXKD
nhằm phát huy hợp lý các nguồn vốn bổ sung.
Nhu cầu vốn được xác định đúng đắn là cơ sở để tổ chức tốt các nguồn vốn
hợp lý đáp ứng kịp thời vốn cho nhu cầu SXKD. Nhu cầu VLĐ được xác định đúng
phải đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục, nếu không tính
đúng sẽ gây ra tình trạng gián đoạn sản xuất không đảm bảo chữ "tín" với bạn hàng,
sản xuất bị đình trệ, không thực hiện được các điều khoản trong hợp đồng đã ký với
các khách hàng....Ngược lại, nếu thừa vốn sẽ gây ra tình trạng ứ đọng vốn, vốn
chậm luân chuyển sẽ dẫn đến làm phát sinh nhiều chi phí. Điều đó là không thể
chấp nhận được trong điều kiện của nền kinh tế thị trường.


×