Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

luận văn thạc sĩ huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam – chi nhánh TP yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.03 KB, 87 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số liệu
trong luận văn là chân thực và chưa từng có ai công bố trong bất kỳ công trình khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về thông tin nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Cẩm Chi


2

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Quý Thầy Cô đã giúp tôi trang
bị tri thức, tạo môi trường điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập
và thực hiện luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn tới Tiến sĩ
Phan Hữu Nghị đã khuyến khích, chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian
thực hiện nghiên cứu này.
Xin chân thành cảm ơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam – Chi nhánh Thành phố Yên Bái đã hợp tác chia sẻ thông tin, cung
cấp cho tôi nhiều nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo
sau đại học, Đại học Thương mại đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học
tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.


Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Phạm Thị Cẩm Chi


3

MỤC LỤC


4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHNN
NHTM

:

:

Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại

TCTD
TCKT
NHNo&PTNT
VN

:

:
:
:

Tổ chức tín dụng
Tổ chức kinh tế
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa,
vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Nó đóng vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của kinh
tế của đất nước. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế của đất nước
ta cần phải có những biện pháp, chính sách nhằm huy động tối đa nguồn vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế. Trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát
triển nên số lượng vốn huy động được bằng con đường tài chính trực tiếp
thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác còn rất
nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Do đó, quá trình trung chuyển vốn
trên thị trường chủ yếu được thực hiện qua các ngân hàng thương mại và thị
trường tín dụng. Chính vì vậy, vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt
động huy động vốn cho nền kinh tế cực kỳ quan trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới và phát triển của Đảng và Nhà nước, trong
những năm gần đây, hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống ngân hàng

thương mại nói riêng đã huy động được khối lượng vốn lớn cho sản xuất kinh
doanh và đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để tạo được những bước chuyển
mới cho nền kinh tế, công tác huy động vốn của các ngân hàng đang đứng
trước những thách thức, đòi hỏi các ngân hàng thực sự quan tâm chú ý tăng
cường huy động vốn. Làm thế nào để tăng cường huy động vốn, tạo ra nguồn
vốn dồi dào, chất lượng cao để đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế hiện
nay đang là vấn đề được quan tâm và tìm biện pháp thực hiện.
Là thành viên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh
TP Yên Bái cũng có nhiệm vụ góp phần mình vào việc huy động vốn. Trong
giai đoạn vừa qua, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam


6

– Chi nhánh TP Yên Bái vẫn còn tình trạng thiếu vốn trung, dài hạn cho nhu
cầu đầu tư phát triển.
Tỷ lệ sử dụng vốn cấp trên tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh TP Yên Bái còn cao. Do đó yêu cầu tăng
cường huy động vốn được đặt ra cấp thiết đối với Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh TP Yên Bái.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của huy động vốn đối với hoạt động của
NHTM nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam – Chi nhánh TP Yên Bái nói riêng, tác giả quyết định chọn đề tài : “Huy
động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam –
Chi nhánh TP Yên Bái” để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
Ở nước ta trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về
vấn đề quản lý nguồn vốn huy động như:
-Luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế - tài chính ngân hàng: “Giải

pháp nâng cao chất lượng huy động vốn tại ngân hàng Công thương Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thu Hằng (2010).
- Luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế - tài chính ngân hàng: “Tăng
cường huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”của tác
giả Phan Thị Mai Phương (2011).
- Luận văn tiến sĩ kinh tế: Hoàn thiện các công cụ tài chính để huy động
vốn cho chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam đến năm 2020 của tác
giả Sử Đình Thành (2010).
- Luận văn Thạc sỹ kinh tế: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam của tác giả Nguyễn
Thị Lan Phương (2010).


7

- Đề tài: “ Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Quỹ tín dụng Nhân
dân Trung ương, chi nhánh Phú Thọ ” của Phạm Thị Khánh Tâm (2012).
- Đề tài: “ Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chi nhánh tỉnh Phú Thọ ” của Lưu
Thị Thuỳ Linh (2012).
- Đề tài: “ Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam, chi nhánh Đền Hùng ” của Tạ Minh Chuân (2012).
Ngoài ra còn một số đề tài nghiên cứu khoa học và bài báo trên các tạp
chí viết về vấn đề này. Các công trình này nhìn chung đã tiếp cận vấn đề huy
động vốn ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung vào phân tích, đánh giá việc
thực hiện huy động vốn. Các luận văn này đã làm sáng tỏ những cơ sở hệ
thống lý luận về các công cụ tài chính có các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng
huy động vốn và đánh giá thực tiễn sử dụng các nhân tố đó để từ đó đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng huy động vốn.
Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát nói trên, em thấy rằng mặc dù một số

vấn đề lý luận về hoạt động huy động vốn hoặc một số nội dung về thực tiễn
huy động vốn của ngân hàng đã được đề cập đến trong các luận án, khóa luận
nói trên, song cho đến nay việc nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về
hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam – Chi nhánh TP Yên Bái là chưa được thực hiện. Cũng đi vào
nghiên cứu về huy động vốn, nhưng đề tài của tác giả nghiên cứu về huy động
vốn trong phạm vi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
– Chi nhánh TP Yên Bái, gắn với tình hình và điều kiện cụ thể hiện nay của
Ngân hàng. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh TP
Yên Bái.


8

3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Phản ánh và đánh giá thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh TP Yên Bái. Qua đó đề xuất một
số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại ngân hàng.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động huy động
vốn của ngân hàng thương mại.
- Phản ánh thực trạng hoạt động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh TP Yên Bái trong khoảng thời
gian 2012 – 2014.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam – Chi nhánh TP Yên Bái (NHNo&PTNT VN–Chi nhánh TP Yên Bái).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Hoạt động huy động vốn.
- Phạm vi không gian: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam – Chi nhánh TP Yên Bái.
- Phạm vi thời gian: Số liệu thu thập trong 3 năm từ năm 2012 - 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện
luận văn là phương pháp phỏng vấn, điều tra nghiên cứu, thống kê, phân


9

tích, tổng hợp, so sánh và các phương pháp khác để giải quyết những vấn
đề đặt ra trong luận văn.
5.1 Phương pháp luận
Sử dụng phương pháp biện chứng duy vật và phương pháp duy vật lịch
sử nhằm tìm ra mối liên hệ kinh tế của các hoạt động huy động vốn với ngân
hàng. Mọi sự vật hiện tượng luôn luôn vận động và liên quan đến nhau, tuân
theo những quy luật nhất định, chúng có quan hệ biện chứng với nhau. Sử
dụng phương pháp này để phân tích nghiên cứu mối quan hệ của việc sử dụng
các hình thức huy động vốn tại ngân hàng.
5.2 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu
Việc thu thập tài liệu thông tin bao gồm việc sưu tầm và thu thập những
tài liệu, số liệu liên quan đã được công bố và những tài liệu số liệu mới tại cơ
sở nghiên cứu. Việc thu thập số liệu bao gồm:
+ Thu thập số liệu sơ cấp: Sử dụng bảng hỏi và phiếu điều tra

+ Thu thập số liệu thứ cấp: Từ biểu bảng, báo cáo tài chính hằng năm
của ngân hàng, thông tin từ sách báo, tạp chí, internet liên quan.
5.3 Phương pháp thống kê so sánh
Là phương pháp sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định mức độ
xu thế biến động của các chỉ tiêu phân tích. Phương pháp cho phép phát hiện
những điểm giống nhau và khác nhau giữa các thời điểm nghiên cứu đã và
đang tồn tại trong những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định đồng thời giúp
phân tích được các động thái phát triển của ngân hàng.
5.4. Phương pháp phân tích
Là phương pháp đánh giá tổng hợp, kết hợp với hệ thống hóa để có thể
nhận định về tình hình hoạt động chung và nêu ra các điểm mạnh, điểm yếu
trong việc cung cấp các sản phẩm huy động vốn của ngân hàng cho khách


10

hàng, để đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong thời điểm hiện tại
và định hướng phát triển trong tương lai.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh TP Yên Bái
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh TP Yên Bái


11


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐNCỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, vai trò của huy động vốn
1.1.1.1. Khái niệm
Nguồn vốn của NHTM là các giá trị tiền tệ của chính NHTM, do NHTM
huy động hay đi vay, được dùng để tổ chức các hoạt động kinh doanh của ngân
hàng như cho vay, đầu tư tài chính, bảo lãnh và các dịch vụ ngân hàng khác.
Như vậy, trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, ngoài nguồn vốn thuộc
chủ sở hữu thì phần còn lại được coi là nguồn vốn từ huy động (chiếm 90%
tổng nguồn vốn), nguồn từ những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, họ chuyển
tiền vào ngân hàng với các mục đích khác nhau, lấy lãi hoặc nhờ thu, nhờ chi
hoặc sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện huy động
vốn để đầu tư, cho vay và cung cấp các dịch vụ khác. Vậy nên có thể nói, huy
động vốn là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng hàng đầu và quyết định đến chất
lượng hoạt động ngân hàng.
Bản thân thuật ngữ “Huy động vốn” đã nêu lên tương đối công việc của
công tác này. Trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại những người thừa vốn và những
người thiếu vốn, có thể nói NHTM đóng vai trò điều hoà mâu thuẫn này bằng việc
sử dụng các công cụ, các nghiệp vụ của mình để huy động các nguồn vốn trong xã
hội. Huy động vốn là nghiệp vụ thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ
chức, cá nhân dưới các hình thức tiền gửi, phát hành GTCG, vay TCTD khác, vay
NHNN và từ các nguồn khác để tạo nguồn vốn cho vay của NHTM.
Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng thì uy tín
của ngân hàng càng cao, ngân hàng càng chủ động trong hoạt động kinh


12


doanh, mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và dân cư, tăng
khả năng thanh toán, chi trả và đảm bảo hoạt động cho ngân hàng trên thị
trường và đặc biệt là tăng năng lực cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế.
1.1.1.2. Vai trò của huy động vốn
Thứ nhất: Đối với ngân hàng
Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để thực hiện các nghiệp vụ
sinh lời của ngân hàng như: cho vay, đầu tư, cung cấp các dịch vụ thanh
toán... Quy mô nguồn vốn tiền gửi thể hiện năng lực tài chính và uy tín của
ngân hàng. Nguồn vốn huy động càng lớn càng thể hiện năng lực tài chính
mạnh mẽ và sự tin tưởng của khách hàng vào ngân hàng, góp phần củng cố
vững chắc vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Thứ hai: Đối với khách hàng
Khi gửi tiền vào ngân hàng, ngoài tính chất an toàn, khách hàng còn
được hưởng các dịch vụ thanh toán tiện ích như: thanh toán séc, uỷ nhiệm chi,
uỷ nhiệm thu, thanh toán qua hệ thống máy ATM, thanh toán thông qua
Internet... Đối với tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn, khách hàng được
hưởng lãi và có thể tích luỹ tiền để phục vụ các mục đích nào đó trong tương
lai. Ngoài ra, trong trường hợp khách hàng gặp khó khăn về mặt tài chính,
ngân hàng có thể tài trợ cho khách hàng bằng các hình thức như: cầm cố,
chiết khấu sổ tiết kiệm, cho vay, bảo lãnh,…
Thứ ba: Đối với nền kinh tế
Chức năng huy động nguồn vốn tiền của ngân hàng có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn cho quá
trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô tái sản xuất. Nhờ
đó ngân hàng biến vốn nhàn rỗi thành vốn hoạt động, kích thích quá trình
luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.


13


1.1.2. Cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài
chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai
trò chủ đạo của các NHTM đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng đối với
nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu và
công cụ duy nhất mà các NHTM phải có trước tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn của các NHTM phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong
sản xuất kinh doanh được gửi vào NH với những mục đích khác nhau. NH
đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển đến
các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vốn và các
hoạt động về huy động vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển
hoạt động kinh doanh của các NHTM. Vốn đóng vai trò chi phối và quyết
định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.
Kết cấu nguồn vốn NHTM bao gồm : Vốn tự có, vốn huy động và vốn khác.
* Vốn tự có là nguồn lực tự có mà chủ NH sở hữu và sử dụng vào mục
đích kinh doanh theo luật định. Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng,
tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ NH, yêu cầu và sự phát
triển của thị trường. Vốn tự có tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn
của NHTM song nó lại là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định sự tồn tại và phát
triển của một NH. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài
sản đảm bảo, gây lòng tin đối với khách hàng, góp phần duy trì khả năng
thanh toán trong trường hợp NH gặp thua lỗ. Vốn tự có cũng là căn cứ để tính
toán các hệ số đảm bảo an toàn và các chỉ tiêu tài chính trong hoạt động kinh
doanh NH.


14


Trong thực tế, vốn tự có không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt
động kinh doanh của bản thân NH mang lại. Bộ phận vốn này đóng góp một
phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM, đồng thời góp
phần vào nâng cao vị thế của NHTM trên thương trường.
 Như vậy, vốn tự có là nguồn vốn ổn định, NH sử dụng một cách chủ
động. Do đó vấn đề đặt ra là NH phải bảo toàn và không ngừng tăng vốn tự
có của mình theo yêu cầu của sự phát triển hoạt động kinh doanh theo đúng
chính sách, chế độ, đồng thời phải sử dụng vào các mục đích đã định.
* Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà NH huy động được từ các tổ
chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, NH chỉ có quyền sử
dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến
động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động của NH.
Đây là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt
động sử dụng vốn tồn tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
- Vốn huy động từ tiền gửi: Khi một NH bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ
đầu tiên là mở tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng,
bằng cách đó NH huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và
dân cư. Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng sử dụng để kinh doanh của
NH, thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM và là mục
tiêu tăng trưởng hàng năm của các NH. Vốn huy động từ tiền gửi bao gồm:
tiền gửi khách hàng và tiền gửi khác (tiền gửi của các tổ chức tín dụng, tiền
gửi của kho bạc Nhà nước, tiền gửi của các đoàn thể xã hội …)
- Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá: Trong hình
thức này NH chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội bằng việc phát hành
các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu để bổ sung nguồn vốn
kinh doanh của NH. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo.


15


Những NH có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Khả
năng vay mượn này còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài
chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của NH.
- Vốn đi vay từ các NH khác: Đối với nghiệp vụ này các NHTM tiến
hành tạo vốn cho mình bằng cách vay của các TCTD trên thị trường tiền tệ và
NHNN dưới hình thức tái chiết khấu hay vay có bảo đảm, nhằm tạo sự cân
đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà họ không tự cân đối
được trên cơ sở khai thác tại chỗ. Thực tế cho thấy, chi phí của vốn đi vay
thường cao hơn chi phí của vốn huy động tại chỗ cho nên nó chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng nguồn vốn của NH. Tuy nhiên, tính chủ động của vốn đi vay
lại cao hơn vốn huy động tại chỗ.
* Vốn khác: Ngoài các nguồn vốn chủ yếu trên NHTM còn có các
nguồn vốn khác cũng không kém phần quan trọng như: vốn trong thanh toán,
nguồn vốn uỷ thác đầu tư...NHTM có thể sử dụng các nguồn vốn này để kinh
doanh trong khoảng thời gian và điều kiện nhất định.
 Tóm lại, NHTM có rất nhiều biện pháp nhằm thu hút tối đa các
nguồn vốn trong nền kinh tế, đó là: huy động các khoản tiền gửi; huy động
thông qua phát hành các giấy tờ có giá; huy động từ việc đi vay các NH khác.
Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh
của NHTM. Mặc dù bị giới hạn về mức huy động vốn, song nếu các NHTM
sử dụng tốt nguồn vốn này thì không những nguồn lợi của NH được tăng lên
mà còn tạo cho NH uy tín ngày càng cao. Qua đó NH có thể mở rộng được
vốn và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của NH.
1.1.3. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Huy động được càng nhiều vốn thì ngân hàng càng có khả năng mở rộng
được hoạt động cũng như quy mô tài sản nên hoạt động huy động vốn luôn
được quan tâm hàng đầu. Đặc biệt là trước sức ép của cuộc cạnh tranh trong



16

lĩnh vực tài chính, đòi hỏi các ngân hàng phải có chính sách thu hút nguồn
tiền ngày một linh hoạt, để từ đó đáp ứng cho hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới các hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy
động từ tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khi được Thống đốc NHNN
chấp nhận.
- Vay vốn của các TCTD khác hoạt động tại Việt Nam và nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của NHNN theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy điịnh của Ngân hàng nhà nước.
1.1.3.1. Nhận tiền gửi
Trong các hình thức huy động vốn của NHTM, đây là phương thức huy
động lâu đời nhất và đến nay nó vẫn là hình thức quan trọng nhất về mặt kinh
tế và chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức,cá nhân dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn (TG KKH), Tiền gửi có kỳ hạn (TGCKH), tiền gửi tiết
kiệm (TGTK) theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi đầy đủ theo thoả thuận.
a. Tiền gửi không kỳ hạn
TG KKH là tiền gửi của doanh nghiệp và cá nhân tại ngân hàng nhằm
mục đích thực hiện thanh toán qua ngân hàng.Đây là khoản tiền gửi mà người
sử dụng có thể rút ra bất cứ lúc nào có nhu cầu và ngân hàng phải đáp ứng
được. Do đó, nhìn chung đây là khoản huy động với lãi suất thấp hoặc bằng
không, tuy nhiên người sử dụng được hưởng dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng nhanh chóng và hiệu quả. Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm hai loại:
Thứ nhất, tiền gửi giao dịch hay còn gọi tiền gửi thanh toán. Đây là
khoản tiền gửi sử dụng để đáp ứng nhu cầu giao dịch, tiến hành thanh toán,chi



17

trả cho các hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình
kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện.
Đặc điểm của loại tiền này là mức biến động cao và ngân hàng thường
khó có thể dự báo về quy mô tiền gửỉ giao dịch có thể huy động. Đồng thời,
kỳ hạn tiềm năng của tiền gửi giao dịch là ngắn nhất do khách hàng có thể rút
bất cứ khi nào mà không cần báo trước, mặt khác mức độ giao dịch trên tài
khoản này là rất lớn. Chính vì sự không ổn định của mình, nên loại tài khoản này
thường được trả lãi rất thấp hoặc không được trả lãi và cũng chính vì sự không
ổn định này mà ngân hàng thường phải có một tỷ lệ dự trữ khá cao đảm bảo khả
năng thanh toán. Đối với tài khoản này, khách hàng được sử dụng các công cụ
thanh toán để chi trả cho uỷ nhiệm chi, séc, và các lệnh khác.
Thứ hai, tiền gửi không kỳ hạn phi giao dịch, đó là khoản tiền gửi được
ký gửi với mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh
toán. Khi cần, khách hàng có thể đến ngân hàng rút để chi tiêu.
Đối với cá nhân thì TG KKH là nguồn không ổn định nhưng ngân hàng
vẫn rất cần nguồn này, trước hết vì chi phí rẻ, thứ hai là xét trên tổng thể thì
luôn có một giới hạn tổng thể trong đó. Ngân hàng có thể huy động số dư đó
làm nguồn vốn tín dụng để cho vay. Đây là nguồn vốn có chi phí khá thấp nên
nếu các ngân hàng có một kế hoạch tài chính tốt với những hạch toán hợp lý
thì đây cũng là một trong những nguồn vốn khá lớn đem lại lợi ích kinh tế cao
cho NHTM
Tiền gửi không kỳ hạn được huy động chủ yếu từ dân cư và các TCKT,
bên cạnh đó các ngân hàng có thể huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi
thanh toán của các ngân hàng khác nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một
số mục đích khác.
b. Tiền gửi có kì hạn



18

Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về
thời hạn rút tiền. Nguồn tiền gửi này chủ yếu là từ tích luỹ và xét về mục đích
chúng được gửi với mục đích hưởng lãi ngoài mục đích sử dụng các dịch vụ
ngân hàng.
Loại tiền gửi này thường gắn liền với các TCKT có chu kỳ kinh tế gần
như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn định, gần như ít có sự biến động.
Đặc tính quan trọng nhất của khoản tiền gửi này là nhạy cảm với lãi suất, có
tính an toàn cao, tín ổn định khá cao do thời gian hoàn vốn đã được xác định
trước, các ngân hàng sẽ có sơ sở khá chắc chắn cho việc hoạch định chiến
lược quản trị nguồn vốn của mình. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của nó là chi
phí cao do sự cạnh tranh lãi suất, lãi suất này cao hơn nhiều so với lãi suất
tiền gửi không kỳ hạn.
Về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ được rút tiền khi đến hạn thanh toán.
Tuy nhiên, trên thực tế, để thu hút khách hàng gửi loại tiền này, các ngân hàng
thường cho phép khách hàng rút trước hạn (Nếu số tiền lớn thì phải thông báo
cho ngân hàng trước một vài ngày. Trong trường hợp này có thể có hai cách
giải quyết: Hoặc khách hàng vay tiền của ngân hàng, sau khi đến hạn rút tiền
thì dùng số tiền gốc và lãi để trả nợ bởi vay trong trường hợp này thì khách
hàng sẽ được ưu đãi hơn, chênh lệch lãi suất không lớn, hoặc là thoả thuận
với khách hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi suất thấp hơn).
Đây là loại tiền gửi tương đối ổn định nên các ngân hàng thường chú
trọng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền gửi này. Phổ biến nhất
vẫn là phương pháp đa dạng hoá các loại tiền gửi này, đặc biệt việc đưa ra
nhiều kỳ hạn thanh toán với mức lãi suất khác nhau để đáp ứng nhu cầu của
mọi khách hàng, thường thì kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao. Phương thức
thứ hai đó là kèm theo các hợp đồng này là các dịch vụ hậu mãi của ngân
hàng hay rút thăm trúng thưởng… Phương thức thứ ba hạn chế hơn nhưng



19

gần đây rất thịnh thành, đó là cạnh tranh về lãi suất huy động vốn. Đây là
phương thức dễ thu hút sự quan tâm của khách hàng nhất nhưng cũng khá
nguy hiểm và gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc
biệt trong thời kỳ vốn khan hiếm.
c. Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản
TGTK, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ
chức nhận TGTK và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm
tiền gửi.
Đặc trưng của nguồn vốn này là tính ổn định cao, tuy nhiên chi phí huy
động cao. Đây là nguồn thu nhập của cá nhân chưa sử dụng cho tiêu dùng, họ
gửi tiền vào ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách an toàn và hưởng
lãi từ số tiền đó. TGTK được phát triển dưới hai loại là TGTK không kỳ hạn
và TGTK có kỳ hạn.
TGTK không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào song
không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Sản phẩm
này thích hợp với khách hàng có tiền tạm thời nhàn rỗi, muốn gửi ngân hàng với
mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền
trong tương lai, do đó ngân hàng thường trả lãi thấp cho loại tiền gửi này.
TGTK có kỳ hạn là tiền mà người gửi tiết kiệm chỉ có thể rút tiền sau một
kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thoả thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
Khách hàng được hưởng mức lãi suất cao hơn so với tiết kiệm không kỳ hạn.
Trên thực tế,các sản phẩm TGTK rất phong phú đáp ứng nhu cầu đa
dạng và biến động thường xuyên của nhóm khách hàng này. Các ngân hàng
thường thu hút người gửi tiền bằng các hình thức huy động đa dạng, lãi suất
cạnh tranh, hấp dẫn, khác nhau giữa các khoản tiền gửi kỳ hạn khác nhau,

giữa nội tệ và ngoại tệ, vàng,… Loại hình tiền gửi này không nhằm mục đích


20

thanh toán, nhưng có thể dùng làm tài sản thế chấp vay vốn nếu được ngân
hàng cho phép.
1.1.3.2. Đi vay
a. Phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn,
trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết giữa TCTD và người mua.
GTCG được chia làm GTCG ngắn hạn (thời hạn dưới một năm, bao gồm
kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các GTCG ngắn hạn khác)
và GTCG dài hạn (thời hạn trên 1 năm, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi
dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác).
Về cơ bản, huy động vốn thông qua phát hành GTCG bao gồm ba hình
thức chính là phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng và trái phiếu
ngân hàng.
Chứng chỉ tiền gửi, bản chất của nó là một khoản tiền gửi có kỳ hạn,
hưởng lãi trên cơ sở 360 ngày và được hoàn trả gốc khi đến hạn, chỉ khác là
nó được mua bán, chuyển nhượng trên thị trường.
Kỳ phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ ngắn hạn mà ngân hàng phát hành
để huy động vốn ngắn hạn. Nó có tính thanh khoản cao, chủ sở hữu dễ dàng
chuyển nhượng trên thị trường tiền tệ. Nhờ vậy mà loại huy động vốn này thu
hút được rất nhiều nguồn vốn đầu tư. Đây là công cụ tương đối chủ động và
linh hoạt của các NHTM.
Trái phiếu ngân hàng là giấy nợ mà ngân hàng phát hành nhằm huy
động vốn trung, dài hạn. Căn cứ vào đối tượng khách hàng, Trái phiếu bao
gồm Trái phiếu huy động và Trái phiếu thuộc vốn tự có. Trái phiếu thuộc vốn

huy động có thời hạn linh hoạt, người mua là chủ nợ thường được ưu tiên
thanh toán trước. Trái phiếu thuộc vốn tự có có thời hạn từ 10 năm trở lên,


21

người mua là chủ nợ thứ cấp. Nhìn chung, đối với ngân hàng, đây là nguồn
vốn ổn định nhất, ngân hàng chủ động được thời gian, quy mô vốn,… Tuy
nhiên, chi phí huy động cao so với các loại hình khác. Vì thế, trái phiếu thu
hút được sự đầu tư của nhiều người bởi tính an toàn và lợi nhuận đáng kể.
Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có
và vốn huy động không đủ. Như vậy, khi thực hiện huy động theo hình thức
này, các ngân hàng phải cân nhắc đầu ra để quyết định khối lượng huy động.
Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã huy động đủ
thì ngừng không phát hành nữa.
b. Vay các TCTD khác
Ngân hàng thương mại được vay vốn của TCTD, tổ chức tài chính trong
và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Thông thường, các ngân hàng có
thể vay nhau qua hợp đồng vay vốn hoặc thoả thuận trước với nhau về hạn
mức tín dụng. Ngoài ra, trong trường hợp thiếu hụt dự trữ tại NHNN thì ngân
hàng dự trữ dư thừa ngày hôm đó sẽ viết séc hoặc gửi điện tín đến chi nhánh
NHNN tại địa phương, yêu cầu chuyển một phần tiền dự trữ của ngân hàng
mình sang ngân hàng xin vay, thời gian vay rất ngắn, thường chỉ vài ngày.
Ngoài ra, NHTM thiếu vốn có thể đem GTCG đi chiết khấu, vay cầm cố tại
ngân hàng khác.
c. Vay Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng thương mại được vay vốn của NHNN dưới hình thức tái cấp
vốn theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. NHNN là nơi
phát hành tiền, thực thi và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, là ngân hàng
của các ngân hàng. Vì vậy, khi ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn thì

NHNN là người cứu cánh cuối cùng. Thông thường NHNN cho các NHTM
vay trong trường hợp thiếu hụt vốn hoặc thiếu hụt dự trữ. Cho dù NHNN có
áp lãi suất chiết khấu, phạt cao thế nào đi nữa thì NHNN vẫn phải cho NHTM


22

vay đáp ứng nhu cầu thanh khoản tránh những khủng hoảng tài chính xảy ra
cho hệ thống.
Ba hình thức vay NHNN chủ yếu là:
Thứ nhất là vay ngắn hạn bổ sung, là hình thức các NHTM xin vay bổ
sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được
vay khi còn hạn mức tín dụng.
Thứ hai là vay để thanh toán giữa các ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt
tạm thời trong thanh toán, thời hạn vay ngắn.
Thứ ba là xin tái cấp vốn, theo đó, NHNN cho NHTM vay trên cơ sở
chứng từ có giá theo 2 hình thức là cho vay tái chiết khấu và cho vay có bảo
đảm.
Đây là hình thức huy động với số lượng lớn, đáp ứng nhu cầu của
NHTM và mang tính cứu cánh, chi phí cao. Và tuyệt đối không được lạm
dụng nhằm mục đích cấp tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận. Mặt khác, việc vay
vốn từ NHNN sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ trong nền kinh tế, chính vì vậy,
NHNN phải luôn cân nhắc kỹ khi thực hiện nghiệp vụ này.
1.2. Tăng cường huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tăng cường huy động vốn
Tăng cường huy động vốn của ngân hàng thương mại là việc đưa ra các biện
pháp, giải pháp nhằm gia tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại.
Mục tiêu của việc tăng cường huy động vốn của các ngân hàng thương mại
chính là tạo ra sự chủ động về vốn trong hoạt động kinh doanh để từ đó nâng cao
hiệu quả kinh doanh trong ngân hàng thương mại.

Hiệu quả của việc tăng cường huy động vốn là yếu tố quyết định tới qui mô
đầu tư, cho vay của NHTM. Việc tăng cường trong công tác HĐV là nhiệm vụ
hàng đầu mà các ngân hàng đặt ra.


23

Lượng vốn huy động hàng năm phải lớn, chi phí bỏ ra ít nhưng vẫn thu hút
được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, các TCTD hay các TCKT. Nguồn vốn
huy động phải đáp ứng nhu cầu đầu tư, cho vay của ngân hàng. Lợi nhuận mang
lại từ nguồn vốn huy động phải đạt được so với các chỉ tiêu mà ngân hàng đặt ra.
Tránh tình trạng huy động vốn một cách ồ ạt nhưng lại không mang ra sử dụng ,
điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh. Nguồn vốn huy động phải
phù hợp với công tác sử dụng vốn thì hoạt động kinh doanh mới có hiệu quả.
1.2.2. Sự cần thiết phải tăng cường huy động vốn
a. Đối với nền kinh tế

Như đã đề cập ở phần trên, sẽ là không tưởng khi nói tới sự phát triển
kinh tế lại không có vốn hay thiếu vốn. Vốn thực sự có vai trò quan trọng đối
với nền kinh tế. Vốn có thể huy động qua nhiều kênh khác nhau, tuy nhiên có
3 kênh chủ yếu là: qua kênh ngân sách Nhà nước, qua thị trường chứng
khoán, qua các tổ chức tài chính trung gian.
Đối với các nước có thị trường vốn và thị trường tài chính, tiền tệ phát
triển thì huy động vốn qua các kênh này không mấy khó khăn ngược lại đối
với các nước đang phát triển như Việt Nam thì nguồn vốn của các trung gian
tài chính - NHTM chính là kênh huy động vốn có hiệu quả phục vụ cho nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể:
 Kênh ngân sách nhà nước không có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu

của thực tế đặt ra do mức động viên tài chính vào ngân sách nhà nước chỉ ở

mức 20- 21%, còn lại được phân phối vào các thành phần kinh tế và khu vực
dân cư; gánh nặng trả nợ của ngân sách Nhà nước cho những món vay từ
những năm 1990 trở về trước để đáp ứng nhu cầu chi để đầu tư phát triển, chi
thường xuyên đã đến hạn thanh toán và nếu không trả sẽ dẫn đến nợ ngân
sách Nhà nước chồng chất, tất yếu sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế
xã hội .


24

 Kênh thị trường chứng khoán: đây là kênh huy động vốn trung và dài hạn có

hiệu nhất, tuy nhiên do thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt
động sự hiểu biết của công chúng còn hạn chế (thậm chí đối với nhiều người
dân khái niệm về thị trường chứng khoán còn hết sức lạ lẫm và mơ hồ), hàng
hoá còn nghèo nàn, hệ thống luật pháp còn chưa đầy đủ.
Do vậy chỉ còn một kênh duy nhất là huy động vốn thông qua NHTM.
b. Đối với hoạt động kinh doanh của NHTM

Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động kinh doanh cũng phải
có vốn, vì vốn là năng lực chủ yếu quyết định đến khả năng, quy mô hoạt
động. Ngân hàng là một doanh nghiệp, đòi hỏi một lượng lớn vốn mới có thể
thực hiện kinh doanh. Nguồn vốn này cho phép ngân hàng mở rộng, đa dạng
hoá các hình thức kinh doanh, giảm thiểu rủi ro trong khi thực hiện “đi vay
và cho vay”. Sau đây là những lợi ích mà nguồn vốn đem lại cho ngân hàng:
• Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.

Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng vì khác với
các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt động kinh
doanh tiền tệ của ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là

phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân
hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị
trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn).
Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được mã hoá bằng công thức TT’, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau một
quá trình đầu tư, tiến hành hoạt động kinh doanh: T’>T. Từ công thức này, có
thể khẳng định ngân hàng nào trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh
trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn điều lệ) theo
quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn
trong suốt quá trình hoạt động của mình.


25

• Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng.

Trong điều kiện bình thường, đầu vào luôn ảnh hưởng trực tiếp tới
đầu ra. Đối với ngân hàng, vốn chính là yếu tố đầu vào; tín dụng, đầu
tư... là yếu tố đầu ra. Vì vậy, so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ
có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi khối lượng cho
vay của các ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho
vay được tại các thị trường trong vùng thậm chí trong nước và cả quốc tế, thì
các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi nhỏ, hẹp chủ yếu trong cộng
đồng. Hơn nữa, vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ thường không phản ứng
nhanh nhạy được trước những đợt biến động về lãi suất, ảnh hưởng trực tiếp
đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế.
Chúng ta có thể lấy một ví dụ trên địa bàn một ngân hàng nào đó nhu cầu
vốn rất lớn, nếu ngân hàng không huy động vốn được thì không thể tiến hành
cho vay, đến đây xảy ra 2 trường hợp: nếu khả năng vốn của ngân hàng dồi
dào, thì chắc chắn ngân hàng sẽ đáp ứng được nhu cầu cho vay, có đủ điều
kiện mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ ngân hàng; ngược lại ngân

hàng đó sẽ vấp phải vô vàn khó khăn.
• Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng

trên thương trường.
“Mất tiền bạc là mất ít, mất danh dự là mất nhiều, mất niềm tin là mất tất
cả”. Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, vì bản chất của
ngân hàng là “ đi vay để cho vay”, nếu không có uy tín thì ngân hàng không
thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín được thể hiện ở
khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh
toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì
vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận
với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng.


×