Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

luận văn thạc sĩ quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp đầu tƣ nƣớc ngoài trên địa bàn tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.7 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
--------------*****---------------

NGUYỄN THỊ THỦY

QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THÁI BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


HÀ NỘI, NĂM 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
------------------****---------------------

NGUYỄN THỊ THỦY

QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THÁI BÌNH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ

: 6034 0410

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS: PHẠM THỊ TUỆ


HÀ NỘI, NĂM 2016


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không
sao chép của ai. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng nguồn tài liệu từ
báo cáo tổng kết công tác thuế của ngành thuế Thái Bình; các tài liệu, thông
tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang web theo danh mục
tài liệu của luận văn.
Thái Bình, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thị Thủy


5

LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình và quý báu từ thầy, cô hướng dẫn, Cơ quan công tác
- Cục thuế tỉnh Thái Bình, đồng nghiệp, bạn bè và người thân. Qua đây, tôi
xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:
Phó Gáo sư - Tiến sỹ Phạm Thị Tuệ - người hướng dẫn khoa học - đã
dành nhiều thời gian quý báu để chỉ dẫn về đề tài và định hướng phương pháp
nghiên cứu trong thời gian tôi tiến hành thực hiện luận văn.
Cục thuế tỉnh Thái Bình nơi tôi công tác, các đồng nghiệp đã tạo điều
kiện về thời gian và giúp đỡ tôi trong việc thu thập số liệu.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên,
khuyến khích tinh thần lẫn vật chất cho tôi trong quá trình thực hiện luận
văn này.
Xin gửi lời chúc sức khỏe và chân thành cảm ơn!
Thái Bình, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thủy


6

MỤC LỤC



7

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

Kí hiệu

Ý nghĩa

CBCC

Cán bộ công chức

CTCP

Công ty Cổ phần

DN

Doanh nghiệp

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

ĐTNT

Đối tượng nộp thuế

GDRP


Tổng sản phẩm quốc nội vùng

GTGT

Giá trị gia tăng

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTNNT

Hỗ trợ người nộp thuế

MST

Mã số thuế

NSNN

Ngân sách nhà nước

NNT

Người nộp thuế

TKTN

Tự khai- Tự nộp


TNCN

Thu nhập cá nhân

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TTHC

Thủ tục hành chính

TT

Thông tư

SXKD

Sản xuất kinh doanh

XK

Xuất khẩu

UBND

Uỷ ban nhân dân


8


DANH MỤC CÁC BẢNG


9

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử ra đời của Thuế là một tất yếu khách quan gắn liền với sự ra đời,
tồn tại và phát triển của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình và thực hiện
các nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng thì Nhà nước
cần có những nguồn lực vật chất nhất định. Thuế không những là nguồn thu
chủ yếu của ngân sách nhà nước (NSNN) mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô
quan trọng trong quá trình cải cách và đổi mới quản lý nền kinh tế quốc dân.
Cùng với sự tồn tại của Nhà nước, để đáp ứng sự phát triển không ngừng
của xã hội, nhà nước luôn luôn xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp
luật về thuế. Đồng thời với những lĩnh vực khác, ngành Thuế đã và đang từng
bước thực hiện cải cách quản lý thuế cho phù hợp với lộ trình cải cách quản lý
hành chính công và hỗ trợ doanh nghiệp nhằm giảm số giờ kê khai và thanh
toán thu nộp thuế, theo kịp với sự phát triển của các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế
cùng phát triển.
Khi Luật doanh nghiệp được sửa đổi và bổ sung, xuất hiện nhiều loại
hình doanh nghiệp mới với hình thức tổ chức và quản lý mới do đó công tác
quản lý thu thuế cũng cần phải đổi mới để phù hợp đảm bảo cho phát triển sản
xuất của các thành phần kinh tếvà tạo ra nguồn thu ngân sách lớn nhất cho
nhà nước.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu hướng tất
yếu khách quan với mọi nền kinh tế. Trong quá trình hội nhập chính sách tiếp

nhận đầu tư là một trong những yếu tố cơ bản nhất trong việc thu hút vốn đầu
tư FDI vào một quốc gia. Trong xu thế hội nhập hiện nay, các nhà đầu tư
nước ngoài rất quan tâm đến thị trường Việt Nam với những lợ thế so sánh


10

với các nước trong khu vực. Dòng vốn đầu tư vào trong nước ngày càng tăng
mạnh, trong đó Thái Bình là một tỉnh có số lượng các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài không ngừng tăng lên trong những năm gần đây cả về số
lượng và quy mô góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế tỉnh Thái Bình
tăng trưởng và phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài đã hưởng rất nhiều ưu
đãi về thuế, tiền thuê đất.... mục đích của tỉnh Thái Bình là thu hút đầu tư
nước ngoài để tranh thủ vốn, công nghệ, giải quyết việc làm cho người lao
động, sử dụng tài nguyên đất nước có hiệu quả để phát triển kinh tế, đẩy
mạnh công nghiệp hóa của tỉnh.
Thực tiễn nước ta, trong suốt quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường công cuộc cải cách hệ thống chính sách và công tác quản lý thuế luôn
được nhà nước ta hết sức chú trọng. Thực hiện công cuộc cải cách thuế trong
những năm gần đây, ngành thuế đã không ngừng hoàn thiện hệ thống nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Cùng với sự phát triển chung của ngành thuế,
Cục Thuế tỉnh Thái Bình cũng đã và đang nỗ lực triển khai thực hiện cải cách
quản lý thuế trên địa bàn, quản lý thu thuế đối với những doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài cũng đòi hỏi có nhiều cải tiến mới. Cục thuế tỉnh Thái Bình đã
nâng cao chất lượng quản lý, giám sát, phát hiện kịp thời, chính xác hơn các
trường hợp vi phạm pháp luật về thuế như: trốn thuế, lợi dụng việc hoàn thuế
để rút tiền ngân sách của nhà nước, tiến hành chuyển giá của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.. góp phần chống thất thu NSNN, tạo bình
đẳng, công bằng trong kinh doanh.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Bình

ngày càng có ý thức rõ hơn việc chấp hành chính sách và pháp luật, góp phần
phát triển nền kinh tế của tỉnh và thu được lợi nhuận hai bên cùng có lợi. Tuy
nhiên vẫn còn một số doanh nghiệp, một số lĩnh vực kinh doanh không thực
hiện số vốn kinh doanh theo đăng ký, sử dụng công nghệ cũ lạc hậu không


11

đảm bảo về môi trường gây ô nhiễm, chưa thật sự tự giác trong quá trình thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình; thậm chí có một số đối tượng nộp thuế còn
tìm cách né tránh việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế dưới nhiều hình thức khác
nhau trong đó chuyển giá là hình thức phổ biến.
Trong nhiều năm qua, thu ngân sách đối với các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài của tỉnh Thái Bình đạt được kết quả đáng mừng đó là số thu liên
tục tăng và năm sau cao hơn năm trước, nhưng trong quá trình quản lý của
Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chính sách và
quy trình quản lý thuế đã bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý. Thực hiện chức năng
quản lý thu thuế đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp nhưng
chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể. Bên cạnh đó công tác quản lý
thu thuế cũng có một số vấn đề chưa hỗ trợ được một cách tốt nhất cho các
doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, để tạo môi trường, điều kiện thu nộp
thuế tốt nhất cho cả hai phía là doanh nghiệp và cơ quan thuế, là một người
công tác trong ngành thuế, em đã chọn đề tài: “Quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Bình”, để nghiên cứu và làm
luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu:
Nghiên cứu về quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã có nhiều đề tài của các tác giả trước ở các cấp độ khác nhau từ
đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ. Có thể kể đến một số công trình cụ thể

như sau:
- Nguyễn Thị Kim Nhã (2005), Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam,luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân.


12

- Đỗ Thị Thủy (2001), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự nghiệp CNH,
HĐH ở Việt Nam giai đoạn 1998- 2005, luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế
quốc dân.
- Phan Thị Nguyệt (2014), Quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn Cục thuế tỉnh Hưng Yên, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học
thương mại.
- Đặng Thị Anh Đào (2014), Quản lý thu thuế tại Chi cục thuế huyện Từ
Liêm Hà Nội, luận văn thạc sỹ, TrườngĐại học thương mại.
- Dương Văn Hà (2014), Quản lý thu thuế trên địa bàn huyện Tứ Kỳ Hải
Dương, luận văn thạc sỹ, TrườngĐại học thương mại.
- Đinh Thị Lan (2013), Quản lý thu thuế thu nhập doanh nghiệp của Cục
thuế tỉnh Ninh Bình, luận văn thạc sỹ, TrườngĐại học thương mại.
- Bùi Thị Phương (2004), Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm
hàn thiện việc quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế tư nhân của quận Hai
Bà Trưng Hà Nội, luận văn thạc sỹ, TrườngĐại học thương mại.
- Nguyễn Huy An (2013), Quản lý nợ thuế tại cục thuế Thái Bình, luận
văn thạc sỹ, Học viện Hành chính.
- Đỗ Mạnh Hùng (2013), Quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp tại văn
phòng cục thuế Thái Bình, luận văn thạc sĩ, Học viện hành chính.
- Đỗ Thị Ngọc Hà (2011), Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý
nợ và cưỡng chế thuế tại Cục thuế tỉnh Thái Bình, luận văn thạc sỹ, Học viện
Tài chính.
Một cách tổng quát thì các đề tài trên ở mỗi một góc độ khác nhau đã đề

cập đến quản lý thuế đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên để có một cách nhìn bao quát về
quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa
bàn tỉnh Thái Bình tính đến thời điểm 2015 thì chưa có đề tài nào làm được.


13

Với những thay đổi về chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Nhà nước nói
chung và tỉnh Thái Bình nói riêng cũng như các cơ chế, chính sách thuế, do đó
đề tài mà tác giả chọn có tính thời sự và không trùng với bất cứ đề tài nào trước
đó, chắc chắn sẽ là một tài liệu đáng tin cậy và hữu ích.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Trên cơ sở những vấn đề cơ bản về lý luận về quản lý thu thuế tác giả đã
làm rõ thực trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
trên địa bàn tỉnh Thái Bình đang thực hiện từ đó rút ra những vấn đề cần hoàn
thiện, khắc phục.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Về lý thuyết: Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về thuế, về quản lý thu
thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, những nhân tố ảnh
hưởng tới quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp này. Đồng thời tìm kiếm các
câu trả lời cho các câu hỏi: Quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Bình đang gặp những khó khăn và
thuận lợi gì?
Về thực tiễn: Nghiên cứu thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Bình và đang được thực hiện
như thế nào so với yêu cầu của quản lý thu thuế nói chung.
Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả, hoàn thiện quản lý thu thuế
đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái

Bình trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại tỉnh
Thái Bình.


14

Về thời gian: Các số liệu được khảo sát và thống kê về quản lý thu thuế
đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Bình giai đoạn
năm 2011- 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
Dữ liệu thứ cấp
Những dữ liệu thứ cấp được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm các
sách, báo, tạp chí, các văn kiện, nghị quyết, các số liệu về tình hình cơ bản
của địa bàn nghiên cứu, số liệu thống kê phản ánh kết quả sản xuất kinh
doanh, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh. Ngoài ra chúng tôi còn
tham khảo các kết quả nghiên cứu đã công bố của các cơ quan nghiên cứu,
các nhà khoa học. Những số liệu này được thu thập bằng cách sao chép, đọc,
trích dẫn như trích dẫn tài liệu tham khảo.
Dữ liệu thứ cấp: Sử dụng báo cáo tổng kết công tác thu; báo cáo đánh giá
về tình hình hoạt động và đóng góp của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn
tỉnh Thái Bình hàng năm.
Dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp dùng cho nghiên cứu này bao gồm các dữ liệu có liên
quan đến thu Ngân sách Nhà nước, được thu thập ở các điểm khảo sát thực tế

tại Cục thuế tỉnh Thái bình.
Các dữ liệu sơ cấp này được thu thập bằng điều tra chọn mẫu đại diện,
phỏng vấn và xin ý kiến của các chuyên gia và lãnh đạo.
5.2. Phương pháp xử lý và tổng hợp dữ liệu
Các dữ liệu thu thập được đều được kiểm tra lại và hiệu chỉnh theo 3 yêu
cầu: Đầy đủ, chính xác và lôgíc.
Sau khi hiệu chỉnh, các dữ liệu này được nhập vào máy tính và tổng hợp
theo các khoản thu theo năm.


15

Công cụ sử dụng cho xử lý và tổng hợp là: Máy tính điện tử, phần mềm
excel.
5.3. Phương pháp phân tích số liệu
Các phương pháp phân tích số liệu sử dụng trong nghiên cứu này gồm:
Phương pháp thống kê mô tả: Sử dụng các chỉ tiêu số tuyệt đối, số tương
đối, số bình quân, các tốc độ phát triển để phân tích mức độ và biến động thu ngân
sách Nhà nước. Đây là phương pháp sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu này.
Phương pháp đối chiếu - so sánh: Được dùng để so sánh mức độ hoàn
thành kế hoạch, so sánh giữa thực tế với dự toán pháp lệnh của Bộ Tài chính,
của UBND tỉnh.
Phương pháp phân tích: Các số liệu được phân tích để đưa ra những
nhận xét, đánh giá khách quan về thực trạng quản lý thu thuế đối với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại tỉnh.
6. Kết cấu của luận văn.
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Bình

Chương 3:Giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài tại tỉnh Thái Bình


16

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ
THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. Thuế đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và vai trò của thuế trong nền kinh tế.
1.1.1.1. Khái niệm về thuế
Trên thế giới, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thuế tuỳ theo cách nhìn
nhận ở từng góc độ khác nhau thì có các định nghĩa về thuế khác nhau.
Trên góc độ phân phối thu nhập: “Thuế là hình thức phân phối và phân phối
lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ tiền tệ
tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.”
Trên góc độ người nộp thuế: “Thuế là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ
chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.”
Trên góc độ kinh tế học: “Thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, nhà
nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư
sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của nhà
nước.”
Tuy nhiên, từ các góc độ nhìn nhận đó ta có thể rút ra được một số đặc
trưng chung của thuế là:
Thứ nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mối quan hệ
tiền tệ phát sinh dưới nhà nước và các pháp nhân, các thể nhân trong xã hội.
Thứ hai, những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách
khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính chất

bắt buộc theo mệnh lệnh của nhà nước.


17

Thứ ba, xét theo khía cạnh pháp luật, thuế là một khoản nộp cho nhà nước
được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Từ các đặc trưng trên của thuế, tác giả có thể nêu lên khái niệm tổng quát
về thuế là: “Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân
cho nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng
cho mục đích công cộng.” [15, tr.5]
1.1.1.2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế
Thuế là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước
Thuế là công cụ quan trọng của Nhà nước trong quá trình quản lý kinh tế.
Để huy động được nguồn lực tài chính cho ngân quỹ Nhà nước thì Thuế là công
cụ chủ yếu chiếm số lớn trong nguồn thu, để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội nói chung. Ở nước ta
không tính các khoản thu từ dầu thô, nguồn thu từ thuế cũng thường chiếm trên
90% tổng các khoản thu ngân sách nhà nước [15, tr.9]
Sử dụng công cụ thuế để huy động tiền thuế cho Nhà nước có ưu điểm:
Phạm vi thu thuế rộng; đối tượng nộp thuế gồm toàn bộ thể nhân và pháp
nhân hoạt động kinh tế.
Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân trong nước tạo ra. Nhờ đó một bộ phận đáng kể thu nhập xã hội
tập trung trong tay Nhà nước để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu và các biện pháp
kinh tế xã hội. Mặt khác nguồn thu từ thuế được đảm bảo tập trung một cách
nhanh chóng, thường xuyên và ổn định.
Sự phát triển và mở rộng chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường
chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của
thuế ngày càng được nâng cao. Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra

những tiền đề khách quan cho sự điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế.
Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có khả năng sử dụng chính sách
thuế để điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Điều đó xuất phát từ chức năng điều chỉnh


18

của Thuế. Vì lợi ích xã hội, Nhà nước có thể tăng thuế hay giảm thuế đối với các
đối tượng nộp thuế, để kích thích hay hạn chế sự phát triển của các ngành, lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế nhằm giữ vững cân bằng ổn định thị trường để
thúc đẩy phát triển kinh tế. Thuế được sử dụng như là công cụ để điều chỉnh các
chu kỳ kinh tế, trong thời kỳ phát triển quá nóng, có nguy cơ dẫn đến mất cân
đối, Chính phủ đã điều chỉnh bằng cách tăng thuế để hạn chế thu nhập khả dụng
của toàn xã hội dẫn đến thu hẹp đầu tư, tạo nguồn lực dữ trữ an toàn để đề phòng
sự suy thoái kinh tế. Qua đó Nhà nước có thể giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo
mục tiêu đã đề ra. Việc điều chỉnh chính sách thuế còn góp phần hình thành cơ
cấu ngành hợp lý theo yêu cầu phát triển nền kinh tế trong từng giai đoạn. Trong
khi áp dụng các chính sách thuế cho từng ngành, từng loại hàng hóa, dịch vụ
khác nhau. Nhà nước có thể thúc đẩy sự phát triển các ngành quan trọng nhất,
giữ vững vị trí then chốt trong nền kinh tế hoặc san bằng tốc độ tăng trưởng giữa
các ngành nghề.
Với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần phải khuyến
khích tích luỹ trong các doanh nghiệp để tạo ra nguồn vốn đầu tư. Việc thay đổi
chính sách thuế có thể ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ tích luỹ tiền tệ do đó tác
động đến quá trình đầu tư phát triển kinh tế.
Thuế được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để góp phần thực hiện
chính sách đối ngoại và bảo hộ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy hòa hợp
kinh tế khu vực và trên thế giới.

Để thuế phát huy tốt chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường cần kết hợp một cách đồng bộ, linh hoạt các chính
sách thuế với các chính sách kinh tế - tài chính khác.
Thuế thực hiện vai trò phân phối nguồn tài chính, góp phần đảm bảo công
bằng xã hội
Trong cơ chế thị trường hiện nay, tình trạng phân hoá giàu nghèo trong xã
hội ngày càng sâu sắc. Bởi vậy, sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước là đặc biệt


19

hữu ích trong đó thuế là một công cụ quan trọng có thể điều tiết thu nhập một
cách hợp lý, giảm bớt sự bất công bằng trong xã hội.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, thuế ngày càng có vị trí quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Hoạch định các chính sách thuế phải đảm bảo phát huy vai trò là công cụ của
Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng các sắc thuế.
Thông qua các phương pháp quản lý thu thuế cùng với các biện pháp tài
chính khác của Nhà nước tác động hình thành nên thị trường, bình ổn giá cả tạo
mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh,
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và tăng thu ngân sách.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
1.1.2.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài hiện nay không còn là một thuật ngữ mới lạ đối với kinh
tế của Việt Nam. Có thể nói trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường,
thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm vị trí vô cùng quan trọng.
Theo Luật đầu tư của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005:
Đầu tư nước ngoài là việc nhà nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam

vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
Theo quy định tại Khoản 14, Điều 3 của Luật số 67/2014/QH 13 (Luật Đầu
tư sửa đổi) định nghĩa: Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước
ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện đầu tư kinh doanh
tại Việt Nam [2].
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong Luật này là:
Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài: là tổ chức
kinh tế thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà ĐTNN thành lập tại Việt
Nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu
tư nước ngoài: là tổ chức kinh tế được thành lập tại Việt Nam trê cơ sở hợp đồng


20

hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt
động kinh doanh tại Việt Nam.
Đầu tư theo hợp đồng BCC, BOT, BTO, BT
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp Giấy phép đầu tư theo
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm: Doanh nghiệp liên doanh,
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài
được thành lập theo Nghị định số 38/2003/NĐ- CP ngày 15 tháng 04 năm 2003
của Chính phủ về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần [7].
Như vậy, Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước
ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam, hoặc doanh nghiệp
Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập hoặc mua lại và
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam cấp giấy phép thành lập và
hoạt động kinh doanh theo các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Doanh nghiệp
có vốn ĐTNN hoạt động theo pháp luật Việt Nam và tuân thủ các quy định do

pháp luật Việt Nam điều chỉnh; các doanh nghiệp này góp phần giải quyết
một khối lượng lớn việc làm cho người lao động và thúc đẩy nền kinh tế địa
phương phát triển.
1.1.2.2. Đặc điểm chung của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
Về cơ bản cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp
trong nước đều có những đặc điểm cơ bản của một doanh nghiệp như được thành
lập theo đúng quy định pháp luật cho phép, hoạt động đều vì mục tiêu lợi nhuận,
góp phần giải quyết việc làm cho nền kinh tế và đóng góp vào ngân sách của địa
phương, thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt
nhau trong các thủ tục thành lập, điều kiện gia nhập thị trường hay về phạm vi
ngành nghề tự do kinh doanh, về cách thức quản lý của nhà nước đối với cả
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước.


21

Doanh nghiệp trong nước được thành lập theo Luật doanh nghiệp, được
thành lập một cách dễ dàng, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động
ở tất cả các lĩnh vực mà pháp luật cho phép. Doanh nghiệp trong nước thường có
chủ sở hữu là cá nhân hoặc tổ chức kinh doanh tham gia một cách độc lập. Bộ
máy quản lý của các doanh nghiệp trong nước thường được tổ chức gọn nhẹ, tinh
giản. Các hoạt động của doanh nghiệp trong nước thường đơn giản và ít phức
tạp.
Khác với đặc điểm của các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư tại Việt Nam. Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư mang tính ổn định, tính
vững bền và có tính tổ chức.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường là các thành viên của các
công ty đa quốc gia (công ty mẹ đặt tại một quốc gia và các công ty con được
thành lập ở nhiều nơi trên thế giới). Đặc điểm này khiến cho mối liên kết giữa

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bộ phận khác của công ty đa
quốc gia tương đối chặt chẽ và phức tạp. Các doanh nghiệp này được tổ chức
quản lý chịu sự chi phối gián tiếp của luật pháp nước cư trú của công ty mẹ
nhưng cũng phải chịu sự quản lý của nước sở tại nên khiến cho các cơ quan chức
năng khó tập trung quản lý, kiểm soát và theo dõi.
Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong quá trình đầu tư, tiến hành sản
xuất kinh doanh thường sử dụng nguồn nguyên liệu, dây chuyền công nghệ từ
chính quốc nên rất phức tạp trong việc xác định giá trị thị trường trong quá trình
góp vốn liên doanh.
Sản phẩm được sản xuất ra thường chịu sự chi phối, bao tiêu của công ty
mẹ ở quốc gia khác gây cản trở cho cơ quan chức năng trong việc xác định
doanh thu và tính chi phi thuế.
Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được các công ty luật và kiểm toán
chuyên nghiệp tư vấn về Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật quản lý thuế và
các văn bản pháp lý khác của Việt Nam rất cụ thể.


22

Các doanh nghiệp đều được đầu tư cơ sở vật chất tốt, hệ thống tin học hỗ
trợ công tác quản lý vì vậy trình độ quản lý của họ rất cao và chuyên nghiệp.
Số lượng các DN có vốn ĐTNN thường xuyên biến động và có xu hướng
ngày càng tăng, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới,
môi trường đầu tư tại Việt Nam ngày càng được cải thiện theo tiến trình hội nhập.
Từ những thực đặc điểm trên cho thấy doanh nghiệp có vốn ĐTNN mang
nhiều đặc điểm khác biệt so với doanh nghiệp trong nước, để có thể chủ động
trong việc quản lý, kiểm soát một cách chặt chẽ và có hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp thì các cơ quan chức năng cần có những
biện pháp cụ thể, có sự tính toán chặt chẽ và lâu dài với các đối tượng DN có
vốn ĐTNN.

1.1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế
quốc dân.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước nhất quán trong nhiều năm qua là luôn
coi trọng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhằm tối đa hóa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho nền kinh tế, đưa kinh
tế Việt Nam hội nhập sâu hơn và rộng hơn với nền kinh tế khu vực và trên thế
giới. Do đó trong quá trình vận động, tồn tại và phát triển, Nhà nước luôn coi
trọng sự phát triển của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Gần 20 năm
khi nền kinh tế tiến hành đổi mới, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài càng chứng
tỏ rằng vị trí và tầm quan trọng của nó trong giai đoạn hiện nay. Để đánh giá vai
trò của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong nền kinh tế quốc dân, ta xem xét trên
các khía cạnh vốn, công nghệ và khả năng sản xuất.
Thứ nhất, về khía cạnh vốn. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã
đáp ứng một lượng vốn lớn cho nền kinh tế. Đặc biệt như nền kinh tế của Việt
Nam được đánh giá là lượng vốn còn hạn chế, luôn trong tình trạnh thiếu vốn để
hoạt động. Do vậy nhờ có các doanh nghiệp ĐTNN nguồn vốn trong nước được


23

bổ sung sẽ đáp ứng lượng vốn để đầu tư mua sắm trang thiết bị, mở rộng sản
xuất và phát triển mọi mặt cho các ngành kinh tế. Hơn nữa sự có mặt của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
góp phần hình thành và phát triển hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và đem lại hiệu quả cao.
Thứ hai, về khía cạnh công nghệ. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong
quá trình đầu tư vào Việt Nam đem theo dây chuyền công nghệ mới, điều này cải
thiện tình trạng công nghệ lạc hậu của các doanh nghiệp Việt Nam. Sự có mặt
của các doanh nghiệp ĐTNN sẽ làm tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp
trong nước, tăng sức cạnh tranh trong hàng hóa sản xuất ra.

Thứ ba, về khía cạnh khả năng sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp có
vốn ĐTNN tham gia vào nền kinh tế trong nước đã thúc đẩy khả năng sản xuất
trong nước tăng lên rõ rệt. Trong nước đã tiến hành sản xuất được mặt hàng với
chất lượng, tiêu chuẩn cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân mà không
cần nhập khẩu hàng hóa. Lượng hàng hóa sản xuất cho tiêu dùng và xuất khẩu
được tăng lên thu nhiều ngoại tệ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết
việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người lao động, cải thiện đời
sống của người dân.
Như vậy có thể khẳng định rằng đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng
trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, miền, địa phương. Theo
thống kê bình quân đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 30- 40% trong ngân
sách của địa phương, đặc biệt có những địa phương con số này là 70- 80% toàn
bộ nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm cho một số lượng lớn lao động
có kỹ thuật với thu nhập cao hơn mức trung bình của xã hội, do đó đã thúc đẩy
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước [18]. Đầu tư nước ngoài còn có tác động kích thích hoạt động đầu tư của
các nguồn vốn khác, nhất là nguồn vốn của tư nhân trong nước, cũng như nâng


24

cao trình độ công nghệ và năng lực quản lý kinh tế - xã hội của các vùng, miền
kinh tế. Đầu tư nước ngoài đang góp phần thay đổi bộ mặt của nền kinh tế, đưa
kinh tế Việt Nam hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới, giúp doanh nghiệp
Việt Nam lớn mạnh hơn cả về quy mô, cách thức quản lý, giúp người tiêu dùng
Việt Nam được thỏa mãn nhu cầu của mình.
Từ năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đang rất mở cửa, chào đón các nhà đầu
tư nước ngoài thông qua các chính sách ưu đãi mà Nhà nước cũng như các địa
phương dành riêng cho nhà đầu tư nước ngoài. Điều đó thể hiện vai trò không
thể thiếu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế.

1.1.3. Các loại thuế đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ thuế, phí theo đúng quy định của
Luật quản lý thuế, Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên
tùy từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể sẽ có những loại thuế, phí nhất định, song có
thể kể đến một số sắc thuế cơ bản như sau:
Thuế môn bài
Thuế môn bài (Tax on licence) là thuế đánh hàng năm vào việc được phép
sản xuất, kinh doanh của các thể nhân, pháp nhân. Theo quy định tại Thông tư số
42/2003/TT-BTC của Bộ tài chính: Thuế môn bài là loại thuế doanh nghiệp đóng
hàng năm, doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh phải đóng thuế môn bài
ngay trong tháng đăng ký kinh doanh.
Thuế giá trị gia tăng (GTGT)
Thuế GTGT là sắc thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hóa dịch vụ mua của tổ chức,
cá nhân ở nước ngoài), trừ các đối tượng không chịu thuế GTGT.


25

Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất
kinh doanhhàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành
nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá
nhân khác có nhập khẩu hàng hóa, mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT.
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.
Các mức thuế suất hiện nay: 0% , 5% và10%.
Thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai
phương pháp: phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp trên giá trị tăng

thêm hoặc doanh thu [10].
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Thuế TNDN là sắc thuế tính trên thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp
trong kỳ tính thuế.
Đối tượng chịu thuế TNDN là thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập chịu
thuế của hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ kể cả thu nhập chịu thuế từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài và thu nhập chịu thuế khác
(tính theo năm dương lịch hoặc năm tài chính).
Đối tượng nộp thuế TNDN là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ (gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập chịu thuế, trừ đối tượng
sau đây:
Các hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ chức kinh tế tập thể có thu nhập từ hoạt động
chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng thủy sản.
Hộ gia đình, cá nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn, có thu nhập cao
không quá mức chính phủ quy định từ hoạt động chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng
thủy sản.
Thuế TNDN được xác định dựa trên hai căn cứ: thu nhập chịu thuế và
thuế suất.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Thuế xuất nhập khẩu (XNK) là sắc thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu hoặc
nhập khẩu trong quan hệ thương mại quốc tế. Thuế XNK là công cụ quan trọng
của nhà nước để kiểm soát hoạt động ngoại thương.


×