Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Luận văn thạc sĩ nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện quảng điền tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.86 KB, 121 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thuế là vấn đề đại cục của mỗi Quốc gia. Ngày nay trong tiến trình hội nhập
thuế lại đang có vị thế lớn trong chiến lược toàn cầu hoá. Vậy là việc quản lý thuế
mặc nhiên trở thành yêu cầu bức thiết của các Nhà nước, dù đó là Nhà nước phát
triển hay đang phát triển. Những tri thức về thuế và quản lý thuế đang là nhu cầu
thường trực không chỉ đối với các nhà quản lý, với các doanh nhân mà còn phổ cập
đến tất cả mọi công dân. Chính vì vậy, các nhà kinh tế, các nhà quản lý luôn quan
tâm nghiên cứu về chính sách thuế của quốc gia nói chung và của từng địa phương
nói riêng. Trọng tâm của các nghiên cứu là làm thế nào để công tác quản lý thuế có
hiệu quả. Tập trung huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho ngân sách Nhà nước
(NSNN) trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu; đồng thời đòi
hỏi phải đảm bảo một cơ chế quản lý phù hợp, giảm thiểu các tắc trách, phiền hà,
giảm chi phí cho cơ quan thuế, người nộp thuế; góp phần phát huy tác dụng điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội; từ đó để tái đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội.
Huyện Quảng điền tỉnh Thừa Thiên Huế được tái lập lại từ năm 1990, đã
nhanh chóng cùng với cả tỉnh tạo thế, tạo đà vững bước đi lên; xây dựng huyện trở
thành một trung tâm kinh tế - văn hoá ngày càng vững mạnh. Trong quá trình phát
triển kinh tế, huyện đã luôn quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng, trung tâm thưong
mại và các chợ nông thôn, qui hoạch các khu dành cho phát triển công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp (TTCN), làng nghề truyền thống, kinh tế trang trại nhằm tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn đầu tư vốn vào lĩnh vực kinh doanh tạo
nguồn thu lâu dài và vững chắc cho ngân sách địa phương, đáp ứng được nhiệm vụ
chi tiêu ngày càng tăng của huyện.
Kết quả thu ngân sách qua các năm ngày càng tăng, nhờ hệ thống chính sách
thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, thực hiện chương trình cải cách và
hiện đại hoá hệ thống thuế đến năm 2010; trình độ nhận thức, tính tuân thủ pháp
luật về thuế của người nộp thuế (NNT) cũng như trình độ chuyên môn nghiệp của

1




đội ngũ công chức thuế được nâng lên, tổ chức bộ máy ngày càng hoàn thiện, tinh
gọn tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) phát triển, nuôi
dưỡng được nguồn thu, tăng hiệu lực, hiệu quả trong quản lý thuế. Tuy nhiện, hệ
thống chính sách thuế chưa bổ sung kịp thời và thay đổi cho phù hợp với tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế; các qui trình nghiệp vụ quản lý thuế chưa đồng bộ, thiếu
khoa học, chưa ứng dụng đươc những tiến bộ của công nghệ thông tin trong công
tác quản lý thuế như khai thuế, tính thuế, nộp thuế. Tổ chức bộ máy vẫn còn bất
cập như số lượng công chức quá đông, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp
ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách hệ thống thuế dẫn đến tình trạng lạm thu,
thất thu thuế xảy ra phổ biến. Thủ tục hành chính rườm rà, chắp vá, trách nhiệm và
quyền hạn không rõ ràng, quan hệ phối hợp không chặt chẽ, tham nhũng và lãng
phí... là những biểu hiện cụ thể của một phương pháp làm việc thiếu khoa học.
Trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì chưa phát huy hết tác dụng của công cụ thuế
để đẩy mạnh SXKD có lợi cho quốc kế dân sinh, thực hiện đóng góp hợp lý, công
bằng cho NSNN. Xuất phát từ đó, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả
quản lý thuế để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh
Thừa Thiên - Huế” làm luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
Đề xuất giải pháp để thực hiện thu ngân sách trên địa bàn huyện đạt 40 tỷ đồng vào
năm 2010.
2.2. Mục đích cụ thể
Thứ nhất, Luận văn góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiển
về thuế, công tác quản lý thuế;
Thứ hai, Phân tích đánh giá thực trạng về công tác quản lý thuế trên địa bàn
huyện Quảng điền tỉnh Thừa Thiên - Huế giai đoạn 2004 - 2006;
Thứ ba, Kiến nghị, đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác
quản lý thuế, phấn đấu thu ngân sách trên địa bàn đạt 40 tỷ đồng vào năm 2010.


2


3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp chung
Hiệu quả quản lý thuế phụ thuộc và nhiều yếu tố, như lựa chọn ban hành hệ
thống các luật thuế sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế; tình hình kinh tế, phong
tục tập quán của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ; Chính sách thuế phải bao quát hết
được các nguồn thu, đảm bảo tính công bằng, đơn giản, dễ thực hiện và dễ kiểm tra.
Việc tổ chức triển khai thực hiện công tác quản lý thuế có mối quan hệ tác động qua
lại, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau, dựa trên cơ sở của phép duy vật biện chứng.
Phương pháp này được vận dụng xuyên suốt trong cả quá trình nghiên cứu từ việc
hệ thống hoá lý luận, phân tích đánh giá thực trạng; xác định các nhân tố ảnh hưởng
để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế.
3.2. Các phương pháp cụ thể
* Phương pháp thu thập số liệu
+ Số liệu thứ cấp cần thiết cho đề tài được thu thập từ các nguồn: Cục Thống
kê; Phòng Thống kê; Chi cục thuế huyện Quảng Điền. Ngoài ra luận văn cũng đã sử
dụng số liệu từ các báo cáo khoa học, luận văn và các công trình nghiên cứu khoa
học của nhiều tác giả về lĩnh vực mà đề tài quan tâm.
+ Số liệu sơ cấp: Tôi tiến hành thu thập bằng cách phát phiếu khảo sát điều tra
theo mẫu đã chuẩn bị sẳn. Phiếu điều tra được xác định dựa trên số lượng doanh
nghiệp kinh doanh sản xuất, công chức quản lý thuế trên địa bàn, ngoài ra khảo sát
thêm một số doanh nghiệp, công chức thuế trên địa bàn Thành Phố Huế, nhằm đánh
giá mức độ hài lòng của NNT về nội dung chính sách thuế; công tác quản lý thuế.
* Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng hệ thống các phương pháp thống
kê để thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu.
- Tổng hợp số liệu: Từ các số liệu thu thập được, kết hợp phiếu khảo sát điều

tra, tiến hành trên cơ sở phương pháp phân tổ thống kê theo các tiêu thức khác
nhau, tùy theo nội dung của chỉ tiêu nghiên cứu, xây dựng hệ thống biểu bảng để
phân tích, đánh giá tình hình quản lý thuế.

3


- Phương pháp xữ lý, phân tích số liệu: Trên cơ sở số liệu đã được thu thập,
tổng hợp, tiến hành xữ lý và phân tích số liệu theo các phương pháp phân tích thống
kê, phân tích kinh tế và các phương pháp phân tích chuyên ngành khác; Đồng thời
sử dụng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA); sử dụng phần mềm SPSS để
thống kê giá trị trung bình, tần số, tần suất và các chỉ tiêu khác; phân tích các nhân
tố theo tiêu thức giới tính, trình độ chuyên môn, số năm công tác, đơn vị công tác về
đánh giá mức độ hài lòng của NNT về nội dung chính sách thuế, tình hình tổ chức
thực hiện các luật thuế, hiệu quả công tác quản lý thuế.
*Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo
Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
quản lý thuế trong giai đoạn cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế hiện nay, trong
quá trình thực hiện đề tài tôi còn sử dụng phương pháp thu thập thông tin từ các
chuyên gia, chuyên viên, các nhà quản lý của Tổng cục thuế, Cục thuế Thừa Thiên Huế để rút ra những kết luận có căn cứ khoa học và thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu:
4.1. Nội dung và đối tượng nghiên cứu: Các sắc thuế chủ yếu và các đối
tượng chịu thuế; hiệu quả quản lý thuế.
4.2. Không gian: Địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.3. Thời gian: Phân tích đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế giai đoạn
2004 - 2006 và đề xuất các giải pháp đến năm 2010.
Từ kết quả thu thuế qua từng năm, phân tích ưu, nhược điểm và những tồn tại,
tác động đến số thu ngân sách, đến sự thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội trong động viên đóng góp; nghiên cứu các nguyên nhân tồn tại về mặt
chính sách, chế độ, về tổ chức quản lý thu thuế, về đối tượng nộp thuế để đưa ra

những giải pháp khả thi về công tác quản lý thuế trong thời gian tới.
Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu, kết luận, phần chính của luận văn gồm
ba chương.
Chương 1: Tổng quan tài liệu về thuế và công tác quản lý thuế;
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế trên địa bàn huyện Quảng Điền;

4


Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế để phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Quảng Điền.

5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VỀ THUẾ, QUẢN LÝ THUẾ
1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ
1.1.1. Khái niệm
Trong các sách báo kinh tế trên thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống
nhất tuyệt đối khái niệm về thuế. Nhiều quan điểm đưa ra mới nhìn nhận từ những
khía cạnh khác nhau của thuế nên chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung nhất của
phạm trù này. Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản, C. Mác
đã chỉ rõ: “ Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có những sự đóng góp của
người công dân của Nhà nước đó là thuế má...”. [13,22]
Sau này khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Gần
đây trong một số công trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế cho rằng, để vạch rõ
bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật được các khía cạnh sau: Thứ
nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mối quan hệ tiền tệ giữa Nhà
nước với các pháp nhân và các thể nhân trong xã hội; Thứ hai, những mối quan hệ

dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc
biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà
nước; Thứ ba, xét theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước
được pháp luật qui định theo mức thu và thời hạn nhất định. Từ những nội dung trên
có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà
nước theo các mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục
đích công cộng. [13,25]
Trong thực tế, ở nước ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung, Nhà
nước thực hiện các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý và xây dựng
kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và các công
trình phúc lợi xã hội khác thì NNT thông qua đó đựơc hưởng một phần kết quả nộp
thuế của mình. Như vậy thuế ở nước ta là một khoản thu bắt buộc, không được hoàn

6


trả trực tiếp cho NNT nhưng họ được gián tiếp hưởng lợi do chính sách đầu tư, phát
triển của Nhà nước cho các công trình phúc lợi xã hội khác nhau.
1.1.2. Bản chất của thuế
Từ khái niệm thuế nói trên ta có thể tìm hiểu bản chất của thuế được thể hiện
bởi các thuộc tính bên trong vốn có của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định
tương đối qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện thành những đặc trưng riêng có
của thuế, qua đó giúp ta phân biệt giữa thuế và công cụ tài chính khác. Những đặc
trưng đó là:
1.1.2.1. Tính bắt buộc
Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với
các hình thức động viên tài chính khác của NSNN.
Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được
hình thành một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc động viên

mang tính chất bắt buộc của Nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới
hình thức thuế là một phương thức phân phối của Nhà nước, theo đó một bộ phận
thu nhập của NNT được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp
phát hoặc những quyền lợi nào khác cho NNT.
Tính chất bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những lý do sau :
Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với
lợi ích cụ thể của NNT, do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong việc
chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng Nhà nước tất yếu phải sử dụng
quyền lực chính trị để bắt buộc các đối tượng có thu nhập phải chuyển giao.
Thứ hai, trong một xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về
hàng hoá công cộng ngày càng tăng mà phần lớn hàng hoá này lại do Nhà nước
cung cấp. Để duy trì hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng thì thu nhập về hàng
hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp các chi phí bỏ ra. Nhưng
hàng hoá công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân bổ theo khẩu phần
để sử dụng và người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo khẩu phần. Mặt
khác, hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh và không thể đem trao đổi trực

7


tiếp trên thị trường để bù đắp các chi phí. Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng
hóa công cộng đã xuất hiện những “người ăn không”, nghĩa là không ai tự nguyện
trả tiền cho việc thụ hưởng hàng hóa công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng
hoá công cộng Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc tất cả mọi
người, kể cả “người ăn không” phải chuyển giao thu nhập của mình sang khu vực
công.
Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành
động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện
phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người
công dân.

Từ đặc trưng này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính
khác của NSNN như phí, lệ phí, công trái, hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình thức
phí, lệ phí và công trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Còn
phạt tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt bằng tiền chỉ xảy ra đối với
người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích Nhà nước
hoặc cộng đồng.
1.1.2.2. Tính không hoàn trả trực tiếp
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: thuế được
hoàn trả gián tiếp cho NNT thông qua các dịch vụ công cộng của Nhà nước. Sự
không hoàn trả trực tiếp được thể hiện cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu
thuế, Nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào cho NNT.
Sau khi nộp thuế, Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho NNT.
Cũng như vậy, NNT không hề phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ
không được hoặc ít được sử dụng các dịch vụ công cộng. NNT cũng không có
quyền đòi hỏi được thừa hưởng nhiều dịch vụ công cộng hơn so với số thuế mà họ
phải trả và họ cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do họ đã phải thanh toán cho
các khoản chi trái với nguyên tắc này.
Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản phí, lệ
phí và tín dụng Nhà nước.

8


1.1.2.3. Tính pháp lý cao
Đặc điểm này thể hiện thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao. Điều
này được quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức
chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai
cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Vì vậy, để bắt buộc các công dân “ tự nguyện”
nộp thuế thì Nhà nước phải sử dụng đến quyền lực của mình, quyền lực ấy được thể
hiện bằng luật pháp, Nhà kinh tế học Jóeph E.Stiglitz nói rằng: “Việc chuyển giao bắt

buộc này giống như là ăn trộm, chỉ có một điểm khác chủ yếu là: trong khi cả hai
cách chuyển đều là không tự nguyện, thì cách chuyển qua Chính phủ có mang tấm áo
choàng hợp pháp và sự tôn trọng do các quá trình chính trị ban cho” [13,28]
Tuy nhiên, để sự chuyển giao bắt buộc thông qua thuế diễn ra được “êm thấm”,
mặc dù quá trình đó được thực hiện dưới sự bảo vệ của luật pháp, thì những qui định
của pháp luật cũng không được mang tính tùy tiện mà phải dựa trên những cơ sở
khoa học nhất định. Vì vậy, trong Luật thuế thường xác định trước các yếu tố có tính
chất điều chỉnh hành vi nộp thuế như: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức
thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.
Tóm lại, những thuộc tính cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản chất và
nội dung bên trong của thuế. Từ những thuộc tính đó giúp ta phân biệt thuế với các
hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều phương diện khác nhau.
1.1.3. Chức năng của thuế
Chức năng của một sự vật hay một đối tượng nào đó là sự thể hiện công dụng
vốn có của nó. Đối với một phạm trù kinh tế chức năng nó phản ánh bản chất sự tác
động của nó, là một phương thức đặc biệt biểu hiện những thuộc tính vốn có của
phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính ổn định tương đối trong suốt
thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.
Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài chính. Do
đó, thuế không chỉ mang trong mình những thuộc tính chung vốn có của các quan
hệ tài chính, mà còn biểu hiện những đặc trưng, hình thức vận động và các chức
năng riêng có bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.

9


Cho đến nay trên các sách báo kinh tế trong nước và trên thế giới cũng chưa
có sự thống nhất trong việc đưa ra số lượng các chức năng của thuế và tên gọi của
chúng. Có tác giả đưa ra hai chức năng của thuế là chức năng ngân khố và chức
năng kinh tế. Người khác lại cho rằng thuế có ba chức năng: ngân khố, kiểm tra và

phân phối thu nhập.
Với quan niệm như trên, soi rọi vào quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của
thuế, chúng ta thấy thuế luôn thực hiện hai chức năng cơ bản: chức năng huy động
nguồn lực tài chính cho Nhà nước và chức năng điều tiết kinh tế.
1.1.3.1. Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước
Ngay từ lúc phát sinh thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên
nguồn tài chính cho Nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng huy động
nguồn lực tài chính của thuế.
Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho tất cả các dạng Nhà nước. Về
mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên phản ánh
nguyên nhân nảy sinh ra thuế.
Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỷ tiền tệ tập trung của Nhà
nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động
của nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề để Nhà nước tiến hành
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm trong nước và thu nhập quốc gia trong xã
hội.
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường
chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của
thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước thông qua thuế tiến hành phân phối một
bộ phận đáng kể tổng sản phẩm quốc nội. Thuế trở thành nguồn thu chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong ngân sách các nước có nền kinh tế thị trường.
Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan cho
sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nói cách khác, quá trình huy động
tập trung nguồn lực thông qua thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng điều tiết

10


kinh tế của thuế. Chức năng huy động nguuồn lực và chức năng điều tiết kinh tế có
mối quan hệ hữu cơ với nhau.

1.1.3.2. Điều tiết kinh tế
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế mặc dù có cơ cở nảy sinh từ chức năng
huy động tập trung nguồn lực, nhưng chỉ được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ
những năm đầu của thế kỷ XX khi vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước được thực
hiện. Việc tăng cường chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi
tiêu công ngày càng lớn và hậu quả tất yếu đòi hỏi Nhà nước phải tăng nguồn lực
tài chính Nhà nước, mà được hình thành chủ yếu từ thuế. Nhu cầu về nguồn lực tài
chính càng lớn thì sự cần thiết phải tăng cường các chức năng của thuế càng cấp
bách, để tác động một cách hiệu quả đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong quá
trình đó chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết
kinh tế của thuế đã được sử dụng một cách hiện thực.
Điều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được lồng
trước vào trong quá trình huy động tập trung nguồn lực tài chính. Bằng cách sử
dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu
đi sự tích luỹ tư bản, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân
cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế. Nhà nước đã thực
hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trên qui mô cả nước.
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc qui định
các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế, xây dựng
chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của NNT, sử dụng các ưu đãi
và miễn, giảm thuế. Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi
vào quỹ đạo chung, phù hợp lợi ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích
thích, chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được thực hiện. Trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngày
càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động đến lợi ích kinh tế của các
chủ thể kinh tế vì lợi ích của xã hội.

11



Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế có
mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài chính nảy
sinh đồng thời với sự ra đời của thuế và được coi là chức năng cơ sở, qua đó qui định
sự tác động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại, nhờ sự vận dụng đúng
đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy động nguồn lực tài chính
của thuế có điều kiện phát triển. Ý nghĩa của chức năng huy động nguồn lực tài chính
càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho Nhà nước đã tạo ra những điều kiện
khách quan để Nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã
hội. Điều đó tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp
dân cư, do đó mở rộng cơ sở chức năng huy động nguồn lực tài chính.
Đó là sự thống nhất biện chứng giữa các chức năng của thuế. Sự thống nhất đó
cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng huy động tập
trung tài chính làm cho mức thu nhập tài chính tăng lên. Điều đó đồng nghĩa với
việc mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện chương trình kinh tế - xã
hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động một cách quá mức sẽ làm tăng
gánh nặng thuế và hậu quả của nó là giảm động lực phát triển kinh tế và làm xói
mòn vai trò điều tiết kinh tế. Đó là tính hai mặt của thuế, nó có khả năng ảnh hưởng
đến nền kinh tế một cách tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực.
Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải được tính toán kỹ lưỡng trong tiến trình
hoạch định chính sách thuế ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau.
1.1.4. Chính sách thuế và hệ thống thuế
1.1.4.1. Khái niệm
Chính sách thuế là tổng hoà phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thuế
và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định. [12,39]
Chính sách thuế thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập dưới
hình thức thuế trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế được thực hiện bằng
cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế, ban hành các loại thuế
và các ưu đãi về thuế trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Điều đó có nghĩa là

12



chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập hệ thống thuế, cải cách thuế và
củng cố hệ thống thuế.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của Nhà nước
trong từng thời kỳ.[ 12,40]
Hệ thống thuế bao gồm nhiều hình thức thuế khác nhau, nhưng sự hình thành
từng hình thức thuế lại do cơ sở thuế quyết định. Trong nền kinh tế thị trường, thuế
suy cho cùng đều lấy từ thu nhập. Do yêu cầu của quá trình tái sản xuất mà thu nhập
được vận động trong một chu trình khép kín và luôn thay đổi hình thái biểu hiện của
nó. Chính sự biến đổi đa dạng đó đã nảy sinh các cơ sở thuế khác nhau, tạo ra khả
năng đánh thuế của Chính phủ trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín và
hình thành các hình thức thuế khác nhau.
1.1.4.2. Phân loại thuế
Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành những
nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định.
Phân loại thuế có ý nghĩa quan trọng trong quản lý thu thuế từ khâu xây dựng
chính sách đến triển khai thực hiện. Phân loại thuế chính xác là cơ sở quan trọng để
tổ chức đúng đắn việc thu nộp thuế phù hợp với qui trình thu từng loại thuế.
Có nhiều tiêu thức phân loại khác nhau được sử dụng ở nước ta và trên thế
giới. Tổng hợp lại có các tiêu thức phân loại sau:
*Phân loại theo đối tượng chịu thuế
Nếu căn cứ vào đối tượng chịu thuế, có thể chia sắc thuế thành ba loại:
- Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập nhận
được. Thu nhập này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: Thu nhập từ lao
động dưới dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ hoạt động SXKD dưới dạng lợi
nhuận, lợi tức, cổ phần.... Do vậy, thuế thu nhập cũng có nhiều hình thức khác nhau,
thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập doanh nghiệp...
- Thuế tiêu dùng là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là phần thu nhập đựơc

mang tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể hiện dưới
nhiều dạng như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng...

13


- Thuế tài sản là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là giá trị tài sản. Thuế tài
sản thường đánh trên giá trị của tài sản cố định gọi là thuế bất động sản, đánh trên
tài sản gọi là thuế động sản.
**Phân loại theo phương thức đánh thuế
Các hình thức thuế, suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của NNT. Tuy nhiên
tuỳ thuộc vào phương thức đánh thuế, đánh một cách trực tiếp hay gián tiếp vào thu
nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại:
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của NNT.
thuế trực thu có những đặc điểm sau:
- Đối tượng nộp thuế trực thu là người gánh chịu gánh nặng thuế. Vì NNT trực
thu là người trả thuế cuối cùng trong một chu kỳ SXKD nên khả năng và cơ hội
chuyển dịch gánh nặng thuế của NNT cho người khác trở nên khó khăn hơn.
- Thuế trực thu mang tính chất luỹ tiến vì có tính đến khả năng nhận được thu
nhập của NNT.
Thuế trực thu thường bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập
nhận được. Ở nước ta thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất.
Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của
NNT mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá và dịch vụ.
Đặc điểm của thuế gián thu:
- Thuế gián thu là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá và dịch vụ.
Người sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ cộng thêm phần thuế vào trong giá
bán hàng hoá và dịch vụ của mình, khi hàng hoá và dịch vụ được bán người sản
xuất thay mặt người tiêu dùng nộp khoản thuế gián thu cho Nhà nước.

- Thuế gián thu có thể được chuyển dịch gánh nặng thuế trong những trường
hợp nhất định. Do đó, thuế gián thu có ảnh hưởng đến hoạt động SXKD thông qua
cơ chế giá cả thị trường. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó của thuế gián thu không
những chịu sự chi phối của mối quan hệ cung cầu trên thị trường, mà còn phụ thuộc

14


vào bản chất của thị trường, mà trong đó có sự tác động của thuế, tức là thị trường
đó là cạnh tranh hay độc quyền.
- Thuế gián thu mang tính chất luỹ thoái vì mức thuế không phụ thuộc vào thu
nhập có khả năng nhận được của NNT, loại thuế này có các sắc thuế mà cơ sở đánh
thuế là các khoản thu nhập dùng để tiêu dùng. Ở nước ta thuế gián thu bao gồm:
thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và nhập khẩu...
***Phân loại theo mối quan hệ đối với khả năng nộp thuế
Căn cứ vào khả năng nộp thuế người ta có thể chia thuế thu nhập thành hai loại:
- Thuế thực là loại thuế không dựa vào khả năng của NNT. Thuế thực thu vào
các dạng tài sản riêng biệt của NNT trên cơ sở mức sinh lợi trung bình của các tài
sản đó mà không phải từ thu nhập thực tế của NNT. Các loại thuế bao gồm: thuế
nhà đất, thuế tài sản. NNT thực là người sở hữu tài sản. Số thuế phải nộp được tính
theo mức thu nhập trung bình về tài sản.
- Thuế cá nhân là loại thuế dựa trên khả năng của NNT. Thuế cá nhân là thuế
đánh vào thu nhập của NNT và được thu ngay từ khâu phát sinh thu nhập hoặc do
khai báo. Khác với thuế thực, thuế cá nhân có tính đến khả năng thu nhập, hoàn
cảnh gia đình và tình hình tài chính của NNT. Các loại thuế cá nhân bao gồm: Thuế
thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế lợi nhuận siêu ngạch, thuế
chuyển nhượng tài sản.
****Phân loại theo phạm vi thẩm quyền về thuế
- Tuỳ theo phạm vi và thẩm quyền trong việc ban hành chính sách, chế độ
thuế, hệ thống thuế có thể được chia thành thuế trung ương và thuế địa phương;

thuế trung ương là các hình thức thuế do các cơ quan đại diện chính quyền Nhà
nước ở trung ương ban hành, còn thuế địa phương là do chính quyền địa phương
ban hành. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại thuế trung ương đều nộp hết vào
ngân sách trung ương mà một phần của thuế trung ương có thể trích vào ngân sách
địa phương.
Tóm lại, trong thực tế có nhiều tiêu thức phân loại, tuỳ theo yêu cầu quản lý ở
mỗi nước mà có sự lựa chọn khác nhau. Hiện nay, ở nhiều nước người ta thường

15


phân loại thuế chủ yếu dựa vào tiêu thức phương pháp đánh thuế và cơ sở đánh
thuế.
1.1.5. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
Quản lý Nhà nước đối với kinh tế là một chức năng vốn có của Nhà nước, đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường thì nhất thiết vai trò đó càng được coi trọng và phát
huy. Với vai trò chủ yếu là tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội, sự
can thiệp tích cực của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật
tài chính, thuế, ngân hàng, trong đó vai trò của thuế trở nên cực kỳ quan trọng. Thuế
được coi là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của NSNN, có
ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Thuế điều tiết thu nhập trong xã
hội và góp phần đảm bảo công bằng xã hội.

∗ Thuế là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho NSNN
Để có một nền tài chính Quốc gia lành mạnh chủ yếu phải dựa vào nguồn thu
từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay, các khoản viện
trợ giảm xuống nhiều thì thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách, là
một bộ phận cơ bản của chính sách tài chính quốc gia. Sau hơn 20 năm đổi mới tình
hình kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm
sau tăng hơn năm trước. Lạm phát được kìm hãm và đẩy lùi, thị trường được mở

rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển.
Quan hệ kinh tế đối ngoại từng bước được mở rộng và phát triển. Trong bối cảnh đó
thu ngân sách hàng năm tăng đều đặn, năm sau cao hơn năm trước đáp ứng được
nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, góp phần tích lũy cho ngân sách và
cả việc chi trả nợ vay. Được như vậy thuế đã góp phần tích cực trong việc tăng thu
ngân sách. Tỷ lệ động viên GDP vào NSNN ngày càng tăng. Trong đó mức động
viên thuế và phí chiếm vai trò quan trọng. NSNN được thu từ nhiều nguồn khác
nhau: từ thuế, phí - lệ phí, viện trợ nước ngoài, tín dụng nhưng thuế là nguồn thu
chủ yếu, là bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia. Hiện nay, ở hầu hết các nước
trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu từ thuế, phí chiếm tới
90% tổng số thu NSNN.

16


Thông qua thuế, một phần tổng sản phẩm quốc nội được tập trung vào NSNN.
Tuy nhiên, việc tập trung thu nhập này có một giới hạn nhất định. Nếu Nhà nước
dùng quyền lực để tập trung quá mức phần GDP vào cho NSNN thì phần còn lại
của GDP cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó, nếu
họ nhận thấy rằng công sức họ bỏ vào kinh doanh được bù đắp không thoả đáng thì
họ tìm mọi cách để trốn thuế. Do vậy, trong công tác quản lý thuế, rất cần phải quan
tâm đến khả năng thu thuế của từng doanh nghiệp và cá nhân.
Khả năng thu thuế là tỷ lệ tối đa từ thu nhập mà NNT sẵn sàng giành ra để trả
thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ nền
kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông qua tỷ lệ
phần trăm của GDP đựơc động viên cho NSNN thông qua thuế.
Nếu gọi Tm là tổng số thu bằng thuế tối đa có thể tâp trung vào NSNN, thì khả
năng thu thuế sẽ là Tm / GDP.
Khả năng thu thuế là một khái niệm lý thuyết được dùng dể chỉ ranh giới phân
chia hợp lý thu nhập xã hội giữa các khu vực công cộng và khu vực tư nhân. Nếu

Nhà nước động viên thuế chưa đạt giới hạn khả năng thu thuế thì nguồn lực xã hội
tập trung vào tay Nhà nước chưa đầy đủ. Nếu Nhà nước động viên vượt quá giới
hạn khả năng thu thuế thì sẽ làm bào mòn khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng
tại doanh nghiệp và làm giảm số thu thuế trong tương lai.
Trong thực tế quản lý thuế, tổng số thuế thu được hàng năm có thể lại khác xa
so với tổng số thuế có khả năng thu được. Để phản ánh tình trạng này, các nhà kinh
tế dùng khái niệm nỗ lực thu thuế.
Nếu tổng số thuế thực tế thu được trong năm là Tt, thì
Nỗ lực thu thuế (N) = (Tt / GDP) : (Tm / GDP) = Tt /Tm
Nếu N < 1, Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp để tăng số thu về thuế mà
không làm tổn hại đến quan hệ phân phối thu nhập giữa Nhà nước và doanh nghiệp,
cá nhân vì tiềm năng thu thuế hiện đang được khai thác ở mức độ thấp. Nhưng khi
N>1 thì hệ thống thuế hiện tại đã huy động vượt quá khả năng. Cần phải hiểu rằng:
Nỗ lực thu thuế cao không nhất thiết đồng nhất với xuất hiện tình trạng bội thu

17


NSNN và càng không thể khẳng định rằng nền kinh tế đang tăng trưởng thuận lợi
hoặc Chính phủ đang vận hành nền kinh tế đúng đắn.
**Thuế tham gia vào điều tiết kinh tế vĩ mô
Đây là vai trò đặc biệt quan trọng của thuế trong nền kinh tế thị trường. Khác
với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong cơ chế kinh tế thị trường Nhà nước
không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động kinh tế, xã hội bằng các mệnh lệnh
hành chính. Thay vào đó, Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô, Tức
Nhà nước chỉ đưa ra các chuẩn mực mang tính định hướng lớn trên một diện rộng
và bằng các công cụ đòn bẩy để hướng các hoạt động xã hội đi theo, nhằm đạt được
các mục tiêu đề ra, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội thực
hiện trong khuôn khổ luật pháp.
Nhà nước thực hiện quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế, xã hội bằng nhiều biện

pháp như giáo dục chính trị tư tưởng, hành chính, luật pháp kinh tế, trong đó biện
pháp kinh tế làm gốc. Nhà nước cũng sử dụng nhiều công cụ để quản lý, điều tiết vĩ
mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng. Trong đó, thuế - một
công cụ thuộc lĩnh vực tài chính - là một trong những công cụ được coi là sắc bén
nhất. Trong kinh tế thị trường, Nhà nước không giao chỉ tiêu chỉ tiêu số lượng mặt
hàng, khối lượng sản phẩm cho từng doanh nghiệp. Trừ các lĩnh vực và ngành nghề
đặc biệt Nhà nước phải nắm quyền kiểm soát và chi phối, trong khuôn khổ luật
pháp cho phép, mọi tổ chức và cá nhân đều có quyền sản xuất, kinh doanh bất kỳ
mặt hàng nào, miễn rằng họ phải có đăng ký kinh doanh và phải hoàn thành nghĩa
vụ đóng thuế với Nhà nước. Bằng việc ban hành hệ thống luật thuế, Nhà nước sẽ
qui định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thấp vào
các ngành nghề, các mặt hàng cụ thể. Thông qua đó mà tác động và làm thay đổi
mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường, nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ
mô, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành nghề trong nền kinh tế.
Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng thuế để tác động trực tiếp lên các yếu tố đầu
vào của sản xuất như lao động, vật tư, tiền vốn nhằm điều tiết hoạt động kinh tế

18


trong nước, sử dụng thuế tác động vào hoạt động xuất, nhập khẩu nhằm thực hiện
chính sách thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế thế giới.
***Thuế là công cụ để điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
trong phân phối
Bên cạnh rất nhiều ưu thế so với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế
kinh tế thị trường cũng còn tồn tại khá nhiều những “khiếm khuyết”. Một trong
những “khiếm khuyết” đó là sự chênh lệch ngày càng lớn về mức sống, về thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư. Kinh tế thị trường càng phát triển thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng có xu hướng gia tăng. Với những đặc điểm nổi bật của cơ chế thị
trường là: sự cởi mở, sự năng động, sự độc lập tự chủ, thì tình trạng trên đây là khó
tránh khỏi. Sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư không

chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức và công bằng xã hội và còn tạo nên sự đối lập về
quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cư, làm mất đi ý nghĩa của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Hơn thế nữa, sự phát triển mọi mặt của một đất nước là kết quả của
sự nỗ lực cộng đồng, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định.
Nếu không chia sẻ thành quả phát triển kinh tế cho mọi thành viên thì sẽ thiếu công
bằng. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình phân
phối thu nhập, của cải xã hội. Thuế là một công cụ có tác động trực tiếp vào quá
trình này.
Việc điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư được thực hiện một phần
thông qua thuế gián thu, mà điển hình là thuế tiêu thụ đặc biệt. Loại thuế này do
đánh thuế cao vào các hàng hoá, dịch vụ cao cấp, đắt tiền, mà chỉ với những người
thu nhập cao mới sử dụng hoặc sử dụng nhiều hơn, qua đó điều tiết bớt một phần
thu nhập của họ.
Tuy nhiên, các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, với việc sử
dụng thuế luỹ tiến có tác dụng rất lớn trong vấn đề điều tiết thu nhập, đảm bảo công
bằng xã hội.
Về việc sử dụng thuế suất luỹ tiến trong các chính sách thuế trực thu, hiện nay
còn tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau.

19


Quan điểm thứ nhất: Phản đối việc áp dụng thuế suất luỹ tiến, vì:
- Đánh thuế luỹ tiến sẽ làm nản ý muốn làm giàu của các cá nhân, động lực cơ
bản của sự phát triển kinh tế - xã hội;
- Gây bất bình đẳng về thuế.
Quan điểm thứ hai: Triệt để ủng hộ thuế suất luỹ tiến, vì:
- Thuế luỹ tiến phân bố đồng đều gánh nặng thuế giữa những cá nhân có mức
thu nhập chênh lệch nhau;
- Thuế luỹ tiến đảm bảo cho việc phân phối hợp lý hơn thu nhập và tài nguyên

xã hội;
- Góp phần ổn định và phát triển kinh tế;
- Đạt hiệu quả thu thuế cao.
****Thuế còn là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
sản xuất kinh doanh
Vai trò này xuất hiện chính do quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế trong
thực tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các luật thuế đã được ban hành, CQT
và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, qui mô các
cơ sở sản xuất kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng họ được
phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà CQT sẽ phát hiện những việc làm sai
trái, vi phạm pháp luật của cá nhân, các đơn vị sản xuất kinh doanh, hoặc phát hiện
ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp họ tìm biện pháp tháo gỡ. Như vậy, qua
công tác thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động
của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội.
1.2. QUẢN LÝ THUẾ

1.2.1. Mục tiêu và các nguyên tắc của quản lý thuế
Quản lý thuế là quá trình tổ chức, quản lý và kiểm tra việc thực hiện những
quy định trong luật thuế nhằm huy động đầy đủ những khoản tiền thuế vào NSNN
theo luật định. Công tác quản lý thuế trong nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được các
mục tiêu cơ bản sau đây:

20


- Tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN trên cơ sở không
ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu
Ở hầu hết quốc gia trên thế giới, số thu bằng thuế hàng năm chiếm tỷ trọng
chủ yếu trong tổng số thu của NSNN. Vì vậy, làm tốt công tác quản lý thuế sẽ có

tác dụng lớn trong việc tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN.
Mặt khác, các chính sách thuế dù trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động đến
thu nhập của NNT, qua đó tác động đến quá trình phát triển kinh tế - cơ sở tạo
nguồn thu thuế trong tương lai. Để tăng trưởng và ổn định số thu của NSNN trong
tương lai, trong công tác quản lý thuế cũng cần chú ý duy trì và phát triển các cơ sở
tạo ra nguồn thu thuế. Về vấn đề này, người Pháp có câu nói rất nổi tiếng: “Hãy cắt
lông cừu chứ đừng lột gia nó” và câu chuyện ngụ ngôn “Con gà đẻ trứng vàng”
đáng để cho chúng ta ghi nhớ.[13,29]
- Phát huy tốt vai trò của thuế trong nền kinh tế
Vai trò của thuế mang tính toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Song, những vai trò
đó không mang tính khách quan mà nó là kết quả của những tác động từ phía con
người. Những tác động này được thực hiện thông qua những nội dung, những công
việc cụ thể của công tác quản lý thuế.
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho NNT
Trong cơ chế thị trường, Nhà nước thông qua công cụ pháp luật để thực hiện
sự tác động vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Ý thức chấp hành luật pháp của NNT sẽ
có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện những tác động của Nhà nước đến nền
kinh tế. Qua công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các
luật thuế cùng với việc tăng cường tính pháp chế của các luật thuế, ý thức chấp
hành các luật thuế được nâng cao, từ đó tạo thói quen “sống và làm việc theo pháp
luật” trong mọi tầng lớp dân cư.
Để đạt được các mục tiêu trên đây, công tác quản lý thuế cần tuân thủ một số
nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ;
- Nguyên tắc công khai;

21


- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả.

1.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý thuế
Là một phần quan trọng của quản lý tài chính Nhà nước, quản lý thuế cần phải
xem xét và nhìn nhận ở tầm vĩ mô, nó phải bao gồm toàn bộ những công việc thuộc
các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp về thuế. Tức là bao gồm các công việc
sau đây.
1.2.2.1. Lựa chọn ban hành hệ thống các luật thuế
Thực tế ở các nước trên thế giới cho thấy: trong hệ thống luật thuế của mỗi
nước bao giờ cũng gồm nhiều sắc thuế khác nhau. Việc quyết định lựa chọn và áp
dụng những sắc thuế nào trong nền kinh tế? Nội dung của từng sắc thuế đó được
xây dựng ra sao phải dựa trên các căn cứ sau đây:
+ Tình hình kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ, như thu nhập bình quân
đầu người, cơ cấu kinh tế, các chủ trương, chính sách về quản lý kinh tế của Nhà
nước...
+ Các vấn đề xã hội như phong tục tập quán của mỗi quốc gia, kết cấu giai
cấp, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của cộng đồng dân cư ở Quốc gia đó.
Ngoài ra, trong điều kiện của một nền kinh tế mở cửa và hội nhập, bên cạnh
các vấn đề kinh tế, xã hội của một quốc gia, khi xây dựng một hệ thống thuế cũng
cần phải xem xét đến các vấn đề của kinh tế thế giới và khu vực.
Để đảm bảo phát huy tốt vai trò của công cụ thuế trong nền kinh tế, hệ thống
thuế phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
Một là: hệ thống thuế phải bao quát hết được các nguồn thu phát sinh trong
nền kinh tế.
Việc bao quát các nguồn thu thuế được thể hiện, trước hết là bao quát về số
lượng các cơ sở, các loại hoạt động, số người trong diện điều tiết của thuế. Thứ đến,
thuế phải bao quát hết về nội dung và qui mô các khoản thu nhập cần điều tiết.
Quán triệt yêu cầu này, một mặt nhằm đảm bảo tập trung tối đa mọi nguồn thu
có thể được vào NSNN; mặt khác đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa
vụ thuế.

22



Hai là: Hệ thống thuế nói chung và từng sắc thuế nói riêng phải đảm bảo tính
công bằng.
Theo các nhà kinh tế, tính công bằng trong các luật thuế cần phải được xem
xét là sự công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc.
+ Công bằng theo chiều ngang: là những người có điều kiện như nhau phải
được đối xử như nhau trên lĩnh vực thuế, tức là phải nộp thuế giống nhau.
+ Công bằng theo chiều dọc: những người có khả năng kinh tế và thu nhập cao
phải nộp thuế nhiều hơn những người không có khả năng kinh tế và thu nhập thấp.
Mức thu nhập càng tăng thì mức thuế phải nộp càng cao.
Ba là: Nội dung của từng sắc thuế phải đảm bảo tính đơn giản, dễ thực hiện và
dễ kiểm tra.
Nộp thuế cho Nhà nước là nghĩa vụ của NNT. Song để cho NNT tự giác chấp
hành nghĩa vụ của mình, thì bản thân của họ phải hiểu rõ về luật thuế đó, phải tự
tính ra số thuế mà họ phải nộp. Muốn vậy, nội dung của từng sắc thuế phải đơn
giản, rõ ràng, dễ hiểu và mang tính phổ thông, phù hợp với trình độ chung của NNT
và người quản lý thuế. Quán triệt yêu cầu này còn góp phần làm giảm những chi phí
hành chính cho hệ thống thuế.
1.2.2.2. Tổ chức thực hiện các luật thuế
Trên cơ sở đã được cơ quan quyền lực Nhà nước phê chuẩn và ban hành, các
luật thuế được đưa vào áp dụng trong thực tế. Có thể nói, đây là khâu đóng vai trò
quyết định hiệu quả của việc sử dụng công cụ thuế.
- Tuyên truyền, phổ biến các luật thuế
Các chính sách chế độ, luật, pháp lệnh về thuế chỉ có thể thực thi một cách đầy
đủ, thống nhất khi công tác phổ biến giáo dục được triển khai sâu rộng trong quảng
đại quần chúng. Mọi tổ chức, cá nhân cần phải biết đầy đủ các quy định, những việc
phải làm và mức độ sẽ bị xử lý đối với từng hành vi trốn lậu thuế, không chấp hành
nghiêm việc kê khai, đăng ký thuế; vi phạm về sử dụng hoá đơn chứng từ, sổ sách
kế toán, dây dưa nợ đọng trốn thuế. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật về thuế còn có ý nghĩa nâng cao tính tự giác, ý thức về nghĩa vụ của công dân

23


đối với nhà nước và sự kiểm tra giám sát của xã hội đối với việc thực thi các chính
sách, pháp luật về thuế, đảm bảo tính công khai, công bằng xã hội.
- Tổ chức quản lý thu thuế
+ Quản lý đối tượng nộp thuế
Trong quản lý đối tượng nộp thuế, yêu cầu phải tổ chức lực lượng cán bộ trực
tiếp hợp lý, nhất là đội thuế phường xã, số lượng đối tượng nộp thuế và các ngành
nghề sản xuất kinh doanh, dịch vụ để bố trí cán bộ phù hợp, có khả năng quản lý
bao quát đến thôn, tổ dân phố, đường phố. Trách nhiệm của cán bộ thuế phải nắm
chắc tất cả các tổ chức, cá nhân đang hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên
địa bàn theo từng ngành nghề, quy mô kinh doanh, quan trọng là theo dõi cho được
các biến động của các đối tượng kinh doanh: cơ sở mới phát sinh, đang tạm nghỉ,
nghỉ hẳn, tái hoạt động, kinh doanh vãng lai, các hoạt động kinh doanh ngầm, các
đối tượng xin nghỉ nhưng thực chất vẫn kinh doanh trốn thuế, kinh doanh không
đúng ngành nghề theo giấy phép, hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại... Đây là
khâu cơ bản trong công tác quản lý thu thuế.
Hệ thống cấp mã số thuế của ngành thuế ra đời góp phần tích cực vào công tác
quản lý thu thuế của ngành. Mã số thuế là nhân tố cơ bản để ngành thuế thực hiện
hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế, quản lý chặt chẽ các đối tượng nộp thuế trên
địa bàn toàn quốc và thực hiện đối chiếu chéo các hoạt động kinh doanh giữa các
đối tượng nộp thuế nhằm phát hiện các trường hợp kê khai sai để trốn lậu thuế hoặc
đề nghị hoàn thuế sai. Mặt khác, hệ thống mã số thuế còn được sử dụng khai thác
phục vụ cho công tác quản lý nhà nước.
+ Qui trình quản lý thu thuế
Đây chính là cơ chế vận hành hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức quản
lý, hành thu. Cần thiết phải xây dựng một quy trình quản lý, thu nộp thuế, quyết

toán thuế chặt chẽ từ khâu quản lý đối tượng nộp thuế, lập bộ thuế và thông báo
thuế, tổ chức thu nộp qua hệ thống kho bạc, theo dõi chấm bộ thuế, quyết toán và
xử lý nợ đọng, xem xét miễn giảm thuế, báo cáo cung cấp thông tin trong hệ thống.

24


Mỗi đối tượng quản lý thuế, chẳng hạn đối tượng thực hiện thu theo phương
pháp khấu trừ, phương pháp kê khai hay khoán thuế hoặc theo từng sắc thuế như thuế
nông nghiệp, thuế nhà đất... đều phải xây dựng một quy trình cụ thể, chặt chẽ theo
nguyên tắc “khép kín”, có sự độc lập của từng khâu, kiểm tra giám sát lẫn nhau.
+ Tính thuế
Nếu quản lý tốt đối tượng nộp thuế, xác định đúng đối tượng tính thuế thì tính
thuế sẽ dễ dàng. Tuy nhiên việc xác định đối tượng tính thuế rất phức tạp, việc tính
thuế, lập sổ thuế, tính thuế nợ, tính phạt, miễn giảm thuế.... là công việc rất tốn
nhiều công sức và rất dễ nhầm lẫn, gây thất thu thuế hoặc không công bằng trong
đối tượng nộp thuế. Cần phải cải tiến phương pháp tính thuế thủ công sang tự động
hoá bằng máy vi tính và cập nhật kịp thời các thông tin về kết quả kinh doanh và
khả năng nộp thuế của các tổ chức, cá nhân kinh doanh để tính thuế nhanh chóng,
chuẩn xác, thông báo nộp thuế kịp thời đến đối tượng nộp thuế.
Về phía đối tượng nộp thuế, do trình độ còn hạn chế và không đồng đều do đó
đòi hỏi cần phải có chính sách thuế đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và tạo điều kiện cho
đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế vào NSNN.
+ Tổ chức thu nộp tiền thuế
Nộp thuế vào NSNN kịp thời là kết quả của công tác quản lý thuế. Đối với các
doanh nghiệp tự kê khai, nộp thuế trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước thì khâu kiểm tra
tờ khai thuế cần được thực hiện nhanh và chuẩn xác để NNT trực tiếp nộp thuế vào
Kho bạc Nhà nước. Đồng thời CQT phải cập nhật số liệu nộp thuế của từng đối
tượng để nắm chắc thông tin, đôn đốc hoặc xử lý các trường hợp chậm nộp thuế.
Đối với các hộ kinh doanh ngoài quốc doanh nộp thuế trực tiếp tại Kho bạc

hoặc đội thuế thì công tác kiểm tra, đôn đốc nộp thuế khá vất vả, bởi vì số lượng đối
tượng nộp thuế rất đông, việc thông báo thuế phải kịp thời đồng loạt và phải đến nơi
kinh doanh đôn đốc nộp thuế. Việc theo dõi cập nhật thông tin số liệu về NNT
thường không được kịp thời và chưa đầy đủ nên chậm xử lý các trường hợp chậm
nộp thuế, trốn thuế có nhiều khả năng xảy ra. Từ sự chậm trễ và xử lý vi phạm
không nghiêm theo quy định của pháp luật thường xuyên như vậy, đã tạo thành thói

25


×