Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Toàn cầu hóa về kinh tế, vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và giải pháp chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của TP hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.39 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Sự tác động của tồn cầu hố kinh tế đối với xã hội Việt Nam là mạnh
mẽ và sẽ cịn tiếp tục tăng thêm trong những năm tới. Đó là những tác động
khơng tránh khỏi trong q trình “đau đẻ” của lịch sử xã hội loài người trước
khi bước vào xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa thực sự.,
thế giới tồn cầu hóa với những thay đổi lớn, đa dạng và phức tạp, có ảnh
hưởng đến bất cứ quốc gia nào và cá nhân nào. Trong hai mươi năm đổi mới
vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta, đồng bào đã
đạt được những thành tựu to lớn, đưa đất nước vuợt qua tình trạng trì trệ kém
phát triển trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh
và liên tục, an ninh chính trị ổn định trong nhiều năm qua.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế tồn
cầu, trong đó ưu tiên thực hiện các công việc theo yêu cầu gia nhập WTO. Đồng thời
tiến hành đẩy mạnh hội nhập đa dạng hóa, đa phương hóa trên tất cả các cấp độ thế giới,
khu vực và song phương. Những nỗ lực hội nhập kinh tế trên tất cả các cấp độ như vậy
đã mang lại các thành quả rất đáng khích lệ trong cơng cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu của tình hình mới, tiến trình thực hiện các cam kết hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức do
phải tiến hành đồng thời các lộ trình cam kết theo nhiều cấp độ khác nhau.

Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế đang trở thành một xu thế khách quan với hầu hết tất
cả các quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng đang từng bước tham gia hội
nhập cùng với nền kinh tế quốc tế mà mở đầu rõ nhất bằng sự kiện chúng ta
đã gia nhập vào WTO tháng 11/2007. Đây cũng là thời cơ nhưng cũng là
thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong xu thế tồn cầu hố hiện nay.
Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Tồn cầu
hóa về kinh tế, vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và giải pháp chủ
động hội nhập kinh tế Quốc tế của TP.Hà Nội” để mong góp một phần nhỏ
vào những cố gắng chung trong việc xây dựng hệ thống lý luận kinh tế Việt
Nam trong thời đại ngày nay.



1


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TỒN CẦU HỐ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
I. Tồn cầu hóa
1. Khái luận chung về tồn cầu hố
Tồn cầu hố là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng
giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hố kinh tế v.v...
trên quy mơ tồn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, tồn cầu hố hầu như
được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hố thương
mại hay “tự do thương mại” nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ
thấy các dịng chảy tư bản ở quy mơ tồn cầu kéo theo các dịng chảy thương
mại kĩ thuật, cơng nghệ, thơng tin, văn hố.
2. Tồn cầu hố về kinh tế và q trình phát triển của nó
a. Các nhân tố dẫn đến tiến trình tồn cầu hố kinh tế
- Sự hòa hợp và tham gia rộng rãi vào các hoạt động quốc tế của các
quốc gia, đặc biệt là các nước thứ ba.
- Sự phát triển và phổ cập của kinh tế thị trường và cơ chế thị trường.
- Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức quốc tế về
thương mại và tài chính, sự hình thành các hệ thống tài chính, ngân hàng quốc
tế, tạo ra khối lượng giao dịch tiền tệ, hàng hóa khổng lồ.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất; q trình chun mơn hóa, hợp
tác hóa sản xuất và phân công lao động đã vượt khỏi tầm tay của từng nước.
- Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, nhất là sự phát triển
nhảy vọt về thông tin liên lạc, giao thông, đặc biệt là sự ra đời của công nghệ
thông tin.
- Nhu cầu mở mang thị trường, xuất khẩu tư bản, sự di cư ồ ạt về lao động.

b. Q trình diễn ra tồn cầu hố kinh tế
Tồn cầu hóa kinh tế làm cho các mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia
gắn bó với nhau, phụ thuộc vào nhau, tác động lẫn nhau. Thông qua toàn cầu
2


hóa mà nền kinh tế các nước tạo ra những lợi thế mới để thúc đẩy lực lượng
sản xuất, kỹ thuật cơng nghệ phát triển từ đó làm cho nền kinh tế của từng
nước có thể vượt qua các thế yếu của mình mà tạo ra lợi thế mới và thế mạnh
mới. Nhưng ngược lại tồn cầu hóa cũng có thể làm cho nền kinh tế của từng
nước, từ chỗ có lợi thế so sánh, từ chỗ có thế mạnh lại trở thành nền kinh tế
yếu kém, khơng có lợi thế, nếu bỏ lỡ thời cơ.
Tồn cầu hóa kinh tế cũng dẫn đến xu thế khu vực hóa kinh tế. Khu vực
hóa kinh tế thực chất là sự tập hợp lực lượng của các nền kinh tế khu vực để
hỗ trợ nhau tạo ra sức mạnh của từng khu vực kinh tế thích ứng với tồn cầu
hóa kinh tế. Hiện tượng này chính là sự thể hiện sinh động, đa dạng mà thống
nhất của tồn cầu hóa. Chúng ta có thể kể ra đây rất nhiều khu vực kinh tế
như : ASEAN, Đại Tây Dương, EU, Bắc Phi, APEC, FTAA, Ấn Độ Dương ...
Tồn cầu hóa kinh tế nảy sinh rất sớm và dần dần phát triển, để rồi tạo ra
những bước phát triển nhảy vọt như hôm nay. Ngay từ đầu thế kỷ XVI - XVII
– XVIII với sự giao thương giữa các quốc gia, đã hình thành dần các nhân tố
quốc tế hóa kinh tế. Tun ngơn của Đảng Cộng sản đã khẳng định: “Đại
công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới...Thay cho tình trạng cơ lập trước kia
của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những
quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc”.
Toàn cầu hóa kinh tế khởi nguồn từ trao đổi thương mại, dần dần phát
triển sang nhiều lĩnh vực khác như sản xuất, dịch vụ, đầu tư, mơi trường, xã
hội. Nó thu hút tất cả các nền kinh tế của các quốc gia, không phân biệt giàu,
nghèo, phát triển hay chưa phát triển, quốc gia lớn và cả quốc gia bé, các
nước có chế độ chính trị khác nhau.

Xu thế tồn cầu hóa kinh tế được thể chế hóa thành nhiều văn bản mang
tính quốc tế như các cơng ước, hiệp định quốc tế và được tổ chức thành các tổ
chức kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ. Đây là một quá trình đấu tranh
gay gắt kéo dài của các nền kinh tế của các quốc gia, giữa nước nghèo và

3


nước giàu nhằm vừa bảo vệ lợi ích kinh tế của quốc gia mình vừa hịa thuận
để cùng phát triển, cạnh tranh và sinh tồn.
3. Những mặt tích cực tiêu cực của q trình tồn cầu hố kinh tế
a. Tích cực
Một là, tồn cầu hố kinh tế thúc đẩy tự do hố mậu dịch phát triển.
Nhìn lại tình hình bn bán của các nước trên thế giới hiện nay, hầu như
khơng cịn tồn tại tình trạng thị trường đơn nhất ngay cả ở cường quốc kinh tế
phát triển. Giờ đây, hầu như thị trường nội địa của các nước đều gắn với thị
trường thế giới, là bộ phận của thị trường thế giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nước cũng như ngành ngoại thương đóng vai trị rất lớn đối với tăng
trưởng tổng sản lượng quốc nội (GDP). Năm 2004, mức độ phụ thuộc của
GDP Mỹ vào ngành ngoại thương tới 25,9%, năm 2005, mức độ phụ thuộc
của GDP Trung Quốc với ngành ngoại thương và buôn bán đối ngoại tới 61%.
Do tính phụ thuộc vào ngành ngoại thương ngày càng cao, nên mức độ tự do
hoá mậu dịch của các nước trong khu vực Đông Nam Á cao hơn của các nước
ở Mỹ Latinh. Bởi vì, tới nay sự phát triển kinh tế của các nước Mỹ Latinh chủ
yếu dựa vào nội thu, trong khi nhân tố nhu cầu nước ngồi thấp hơn nhiều so
với các nước Đơng Á.
Hai là, tồn cầu hố kinh tế đã đẩy mạnh tiến trình quốc tế hố lưu
chuyển vốn, có lợi cho tự do hoá đầu tư. Từ năm 2001 tới 2003, mặc dù đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm sút rất lớn, nhưng bắt đầu từ năm 2004 đã
có dấu hiệu tăng trưởng trở lại. Theo “Báo cáo đầu tư năm 2005” do Hội nghị

phát triển mậu dịch Liên hợp quốc cơng bố, tổng số FDI trên tồn thế giới đã
lên tới 648 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2003. Điều này cho thấy xu thế đầu
tư quốc tế giảm sút từ năm 2001 tới 2003 đã được ngăn chặn và bắt đầu gia
tăng trở lại trên thế giới.
Năm 2004, các nước Phương Tây đã tiếp nhận FDI trị giá khoảng 380
tỷ USD, giảm 14% so với năm 2003. Trong khi đó, FDI ở các nước đang phát
triển tăng 40%, với tổng giá trị 233 tỷ USD. Rõ ràng nếu khơng có tồn cầu
4


hố kinh tế thì khơng thể quốc tế hố vốn và di chuyển dễ dàng từ nước này
qua nước khác.
Toàn cầu hoá kinh tế chẳng những thúc đẩy FDI tăng lên mà ở mức độ
lớn đã thúc đầy tự do hố đầu tư. Mấy năm qua, do mơi trường đầu tư được
cải thiện, xu thế lưu thông tự do đầu tư đã tăng lên rõ rệt. “Báo cáo của Hội
nghị mậu dịch Liên Hợp quốc” năm 2004 cho biết hai nước có FDI đổ vào
nhiều nhất là Mỹ và Anh, trong đó Mỹ tiếp nhận tới 96 tỷ USD và nước Anh
tới 78 tỷ USD. Mặc dù các nước đang phát triển đã ra sức mở cửa thị trường
vốn của mình và đưa ra nhiều chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài,
nhưng do cơ chế và thị trường cịn nhiều khâu yếu kém, nên trình độ tự do
hoá tiền vốn của các nước đang phát triển kém hơn nhiều so với các nước
phát triển. Đây chính là vấn đề mà các nước đang phát triển cần nghiên cứu
và hoàn thiện để tận dụng được cơ hội tốt của tồn cầu hố.
Ba là, tồn cầu hố kinh tế đã “bật đèn xanh” cho tự do hoá lưu chuyển
tiền tệ. Trong điều kiện ngày nay, mọi tổ chức ngân hàng, tài chính, tiền tệ và
thị trường chứng khốn của các nước đều phải phát triển theo xu thế toàn cầu
hố. Nếu ra đời xu thế này, thì khơng thể nói tới tự do hố lưu chuyển tiền
vốn.
Ba thị trường chứng khoán nổi tiếng là New York, London và Tokyo
giờ đây đã len lỏi tới khắp nơi trên thế giới đề thu hút tiền vốn. Thông qua

việc không ngừng điều chỉnh tỷ giá hối đoái, những đồng tiền như USD, Euro
và đồng Franc của Thuỵ Sĩ đều trở thành đồng tiền dự trữ và có thể tự do lưu
hành ở các nước. Tóm lại, tiền tệ được tự do lưu hành như hiện nay rõ ràng do
tác động mạnh mẽ của tiến trình tồn cầu hố.
Bốn là, tồn cầu hố đã thúc đẩy phát triển sản xuất xuyên quốc gia.
Mấy năm qua, đặc điểm nổi bật nhất của sản xuất xuyên quốc gia là sản xuất
của các công ty xuyên quốc gia mở rộng mạnh mẽ ra các nước. Đầu năm
1994, Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ vừa mới khởi động, các công ty xuyên
quốc gia của Mỹ đã nhân cơ hội này thành lập một loạt công ty con ngay gần
5


biên giới Mehico. Những công ty này đã lợi dụng nguyên vật liệu, tài lực, vật
lực của địa phương sản xuất hàng hoá giá rẻ đưa về thị trường nội địa Mỹ.
Mấy năm qua, hầu hết các công ty xuyên quốc gia lớn của Mỹ và các nước
trên thế giới đều tới Trung Quốc lập văn phòng hoặc trụ sở công ty để tiến
hành sản xuất kinh doanh ngay tại Trung Quốc.
b. Tiêu cực hay là mặt trái của quá trình tồn cầu hố kinh tế
Một là, tồn cầu hóa kinh tế làm nảy sinh nhiều vấn đề cho xã hội con
người. Bên cạnh những mặt tốt, mặt tích cực, nó gây ra khơng biết bao nhiêu
điều tiêu cực, gây ra những hậu quả khôn lường cho từng quốc gia, dân tộc,
thậm chí cho cả một khu vực.
Hai là, tồn cầu hoá kinh tế sẽ tác động làm gia tăng thất nghiệp, sẽ dẫn
tới phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư ở từng nước, và phân hóa
giàu nghèo giữa các quốc gia.
Ba là, tồn cầu hóa cũng là cơ hội, điều kiện để cho những nước giàu,
những tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia khống chế kinh tế các nước kém phát
triển.
Bốn là, tồn cầu hóa kinh tế cũng là cơ sở để nảy sinh các cuộc cạnh
tranh gay gắt các lĩnh vực kinh tế như “chiến tranh thương mại”, “chiến tranh

tiền tệ” ... “chiến tranh thị trường”... giữa các nước, từ đó gây nên sự biến
động kinh tế khu vực và thế giới. Trong các cuộc cạnh tranh gay gắt đó nước
thua thiệt nhất vẫn là các nước kém phát triển.
Năm là, tồn cầu hóa kinh tế còn dẫn đến nguy cơ phá vỡ các nền văn
hóa truyền thống của các dân tộc, nhất là các truyền thống văn hóa nhân văn
và nhạy cảm như: lối sống, đạo đức, nghệ thuật... Bởi lẽ tồn cầu hóa kinh tế
là cơ sở, là điều kiện làm cho các dịng thác văn hóa, lối sống giữa các nước
tràn ngập vào nhau một cách ồ ạt, bất khả kháng, nước chủ nhà dù có muốn
chặn lại cũng khơng thể chặn nổi.

6


4. Kết luận chung về tồn cầu hố
Nhận rõ mặt tích cực và mặt hạn chế của tồn cầu hóa kinh tế, tất cả các
quốc gia đều phải biết chủ động để bơi theo dịng chảy, nếu khơng sẽ bị vùi
lấp và nhấn chìm. Hiện nay các nước chậm phát triển đã và đang tập hợp để
đấu tranh chống o ép, chống lại sự đè nén của các nước lớn, cố gắng bằng mọi
cách giành lấy từng phần quyền lợi cho dân tộc, đất nước mình. Từ đó cho
thấy sự đoàn kết đấu tranh quốc tế của những người nghèo, của các quốc gia
nghèo trên thế giới cũng như từng khu vực hơn lúc nào hết, giờ đây được đặt
ra một cách khẩn thiết.
Trình độ vận dụng, mức độ khai thác mặt tích cực của tồn cầu hóa kinh
tế, khả năng hạn chế mặt tiêu cực của tồn cầu hóa kinh tế ở từng nước rất
khác nhau. Tất cả đều phụ thuộc vào chính chủ quan của mỗi nước, đó là bản
lĩnh vững vàng của mỗi dân tộc. Vai trò và khả năng của Đảng cầm quyền và
sự quản lý của nhà nước ở mỗi quốc gia. Ở đây nổi trội lên là sự chủ động,
sáng tạo trong đường lối, chính sách phát triển, chiến lược và chiến thuật dẫn
dắt nền kinh tế của từng quốc gia.
II. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

1. Khái niệm chung về hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là tiến trình mà chủ thể là các quốc gia, các
doanh nghiệp tham gia vào một môi trường kinh doanh mang tính chất tồn
cầu, khu vực với các quy luật chung và có yếu tố cạnh tranh
Hội nhập kinh tế của các nền kinh tế chuyển đổi (trong đó có Việt Nam)
là q trình thực hiện tự do hố thương mại và thực hiện cải cách toàn diện
theo hướng mở cửa thị trường. Từ đó đem lại nhiều cơ hội kinh tế như hàng
hố xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn đầu
tư nước ngồi hơn và nhiều lợi ích gián tiếp khác đi liền với cạnh tranh quốc
tế gay gắt và tăng dần hiệu quả theo quy mơ.
2. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Trong khoảng hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế thế giới
có bước phát triển vượt bậc, với đặc điểm cơ bản là: Tốc độ tăng trưởng nhanh
7


và khá ổn định; lạm phát được kiềm chế, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Nhưng từ giữa
những năm 70 đến đầu thập kỷ 80 (thế kỉ XX) “thế giới đang trải qua một trong
những cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử của mình”.
Từ thập kỷ 80, tồn cầu hố là hiện tưởng nổi bật và là xu thế khách
quan của nền kinh tế thế giới. Mỗi nước trong q trình phát triển khơng thể
tách rời sự tác động của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh tế và hội
nhập trở thành một xu thế tất yếu của thời đại.
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước 86 là một nền kinh tế kém phát
triển. Đặc biệt trong những năm 1976-1980, kinh tế tăng trưởng chậm chạp,
thậm chí có năm giảm sút.Giai đoạn 1981-1985, nền kinh tế tăng trưởng
nhanh hơn, nhưng tình hình kinh tế bất ổn do lạm phát nghiêm trọng. Vì vậy
đặt ra cho Việt Nam phải hội nhập kinh tế quốc tế để tranh thủ vốn cơng nghệ
để có thể đi tắt đón đầu vươn lên trở thành 1 nền kinh tế mạnh của khu vực.

Ngay khi bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội VI của Đảng đã nhận
định: “Trên thế giới đang hình thành một thị trường” (khác với trước đó ta
thường nhấn mạnh trên thế giới có hai thị trường vận hành theo các quy luật
riêng). Cương lĩnh của Đảng được thơng qua tại Đại hội VII có đánh giá rằng,
“nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong q trình quốc tế hóa sâu
sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc”.
Đại hội IX lần đầu tiên đề cập khái niệm “tồn cầu hóa kinh tế”, coi đó là một
xu thế khách quan, lơi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia… và Đại hội X
khẳng định lại “Tồn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa
đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển." Là một bộ phận cấu thành của thế giới,
nước ta không thể không tính đến và đứng ngồi xu thế đó.

8


Trên thực tế nền kinh tế nước ta gắn kết khá chặt chẽ với kinh tế thế giới
cả ở “đầu vào” lẫn “đầu ra”. Để duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối cao,
nước ta cần số vốn đầu tư khơng nhỏ song vốn trong nước lại có hạn nên
riêng trong 5 năm qua đã phải huy động khoảng 30% nhu cầu vốn từ bên
ngoài (cả FDI lẫn ODA) và nhập khẩu một lượng đáng kể máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên vật liệu. Do thu nhập của các tầng lớp dân cư cịn thấp và cần
có ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất, nhiều hàng hóa làm ra
phải tiêu thụ tại thị trường bên ngoài, do đó kim ngạch xuất khẩu của nước ta
chiếm tới trên 60% giá trị GDP (nếu tính cả giá trị xuất nhập khẩu thì chúng
chiếm trên 130% GDP, so với Trung Quốc tỷ lệ đó chỉ khoảng 57%).
Với nhận thức và nhu cầu nói trên, suốt mấy chục năm qua Đảng ta luôn
luôn nhấn mạnh yêu cầu mở rộng sự hợp tác kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất
khẩu, tranh thủ vốn, cơng nghệ từ bên ngồi. Đại hội IX lần đầu tiên đã nêu
khái niệm “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và tháng 11/2001 Bộ Chính trị

Trung ương Đảng đã thông qua nghị quyết riêng là Nghị quyết 07/NQ-TW về
hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng theo tinh thần đó Đại hội X bổ sung thêm ý
“tích cực” sau ý “chủ động” hội nhập kinh tế quốc tế nhằm nhấn mạnh thêm
quyết tâm hội nhập. Trên thực tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới khi
gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1995, tổ chức thương
mại thế giới WTO (2006) ký các hiệp định thương mại - đầu tư song phương
với EU, Hoa Kỳ rồi sau là Nhật Bản theo các thơng lệ quốc tế.
3. Q trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ
đổi mới đến nay
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đặt ra từ Đại hội
Đảng VI (1986) trên cơ sở đường lối đổi mới và “mở cửa” nền kinh tế và trên
cơ sở chính sách, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với phương châm đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Về các bước đi trong quá trình hội
nhập chúng ta cần xem xét đến hai mặt:
a. Đối với bên ngoài
9


- Chúng ta đã thực hiên lần lượt các bước đi cụ thể. Đó là:
Năm 1993 đã khai thơng quan hệ với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngần
hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
Tháng 1/1995 gửi đơn xin gia nhập WTO ( chính thức là thành viên của
tổ chức này vào tháng 11/2007). Ngày 25/7/1995 đã chính thức gia nhập Hiệp
hội các nước Đơng Nam Á (ASEAN), đơng thời tham gia vào AFTA và
chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT), cũng trong năm này
ta tiến hành bình thường hố quan hệ Việt – Mỹ
Tháng 3/1996 tham gia diễn Á – Âu (ASEM) với tư cách là thành viên
sáng lập.
Ngày 15/6/1996 gửi đơn xin gia nhập APEC và đến tháng 11/1998 được
công nhận là thành viên của APEC

Năm 2000 kí Hiệp đinh thương mại song phương Việt – Mỹ....
b. Đối với trong nước
Chúng ta đã làm 3 việc cơ bản: Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật,
văn bản dưới luật tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hội nhập (Ví dụ: Luật
Doanh nghiệp, Luật Công ty, Luật Đầu tư nước ngoài…); thực hiện sự
chuyển đổi thể chế kinh tế, đổi mới chính sách và hệ thống kinh tế vĩ mơ và
cố gắng cải cách kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế; để thống nhất việc
chỉ đạo quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 10/2/1998 Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định 31/1998-TTg thành lập Uỷ ban quốc gia về
hợp tác kinh tế quốc tế. Uỷ ban này có nhiệm vụ giúp Thủ tướng chỉ đạo và
điều hành các bộ, ban, ngành trong việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Thành tựu và hạn chế
a. Thành tựu
Thực hiện thành công Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
(1991-2000) GDP tăng trưởng bình quân 8,2%/năm trong giai đoạn 1991
-2000, khoảng 7% trong hai năm 2001 và 2002, năm 2003 tăng 7.24%, năm
10


2004 là 7,69%, năm 2005 là 8,4% và năm 2006 là 8,17% và là nước có tốc độ
tăng GDP thứ hai thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc. Hạ tầng cơ sở được cải
thiện rõ rệt. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế một cách tích cực theo
hướng tăng dần tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá
trị nông nghiệp trong cơ cấu tổng thu nhập quốc dân. Cơ cấu vùng kinh tế
cũng bắt đầu thay đổi theo hướng hình thành các vùng trọng điểm, các KCN
tập trung, các KCX. Chuyển toàn bộ nền kinh tế sang môi trường cạnh tranh,
lấy mục đích và hiệu quả kinh tế xã hội làm cơ sở, thay đối thói quen trơng
chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước của các DN.
Mở rộng được thị trường XNK, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển,

tạo thêm việc làm, tăng thu ngân sách. Năm 1990 kim ngạch XK mới đạt
2,404 tỷ USD và NK 2,752 tỷ USD thì năm 2001 kim ngạch XK đã đạt 15 tỷ
USD (nếu tính cả dich vụ thì đạt 17,6 tỷ USD), tăng mỗi năm trung bình trên
20%, có năm tăng 30% (gấp hơn 7 lần năm 1990). Năm 2003 XK đạt 20,176
tỷ USD. XK bình quân đầu người đạt trên 200 USD, đây là mức được thế giới
công nhận là quốc gia có nền XK bình thường. Bên cạnh XK hàng hoá, XK
dịch vụ và hợp tác lao động cũng đạt được mức tăng trưởng liên tục. XK dịch
vụ giai đoạn 2001 - 2003 đạt khoảng 8,15 triệu USD, tăng bình qn
9,65%/năm. Từ 2001 đến nay có 127 nghìn người đi làm việc ở nước ngoài,
tăng 27% so với thời kỳ 1 996 - 2000. Số DN tham gia XK đã tăng lên 16.200
so với 495 DN năm 1991.
Việt Nam ra khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cơ lập tạo dựng được
môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới.
Tính đến năm 2004, Việt Nam đã ký 90 hiệp định thương mại song phương,
46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế
hai lần với các nước và vùng lãnh thổ,81 thoải thuận về đối xử tối huệ quốc;
có quan hệ thương mại với trên 160 nước và nền kinh tế: thiết lập quan hệ với

11


các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế; là thành viên của ASEAN, ASEM,
APEC...
Thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Đến
nay ta đã thu hút được trên 41.538 tỷ USD vốn đầu tư từ 64 quốc gia và vùng
lãnh thổ với trên 4.370 dự án. Trong số đó đã thực hiện trên 24,658 tỷ USD.
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngồi có vai trò quan trọng trong nền kinh tế
nước ta: chiếm gần 30% vôn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp,
20% XK, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động và hàng chục vạn

lao động gián tiếp. Tranh thủ được kỹ thuật tiên tiến vả khoa học quản lý mới.
Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn,
đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. Các nhà tài trợ đã cam kết dành cho
nước ta gần 20 tỷ USD, chủ yếu là cho vay ưu đãi và một phần là viện trợ
khơng hồn lại.
b. Hạn chế
Hệ thống pháp luật, chính sách quản lý nền kinh tế thị trường không
đồng bộ, cịn thay đổi, chưa phù hợp thơng lệ quốc tế, do đó chưa đáp ứng
u cầu hội nhập. Chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế thiếu đồng bộ, nhất
quán và chưa phù hợp với điều kiện tồn cầu hóa và HNKT quốc tế, năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung cịn yếu, chính sách vĩ mơ chưa
tạo được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thêm vào đó năng lực đội ngũ cán bộ làm cơng tác hội nhập cịn yếu, việc chỉ
đạo và thực hiện q trình hội nhập cịn bất cập; chưa có một chiến lược tổng
thể về hội nhập kinh tế quốc tế cho cả giai đoạn dài với các lộ trình mở cửa
trong từng lĩnh vực cụ thể.
Nhiều ngành, cấp và doanh nghiệp còn chưa nhận thức đầy đủ, những cơ
hội và thách thức của tiến trình hội nhập này cũng chưa thực sự nắm vững để
có kế hoạch chủ động nắm bắt thời cơ, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa cịn ít hiểu biết về lộ trình và các yêu cầu của hội nhập. Đa số vẫn trông
chờ ở sự bảo hộ của Nhà nước.
12


CHƯƠNG II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
CỦA TP.HÀ NỘI
Nền kinh tế nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Là
Thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, thương mại và du lịch của Việt
Nam, Hà Nội càng phải đi đầu trong tiến trình hội nhập.

Ngày 4/4/2013, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Văn Sửu ký
ban hành Kế hoạch số 58/KH-UBND về việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
Hội nhập kinh tế quốc tế thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 - 2015.
2.1. Nâng cao năng lực hội nhập kinh tế quốc tế
Nhận thức được những cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, gia nhập WTO, TP Hà Nội đã chủ động có những bước đi, lộ trình
thích hợp và cụ thể trên nhiều lĩnh vực:
Kiện tồn và nâng cao hiệu quả cơng tác tổ chức chỉ đạo hoạt động hội
nhập kinh tế quốc tế của thành phố, đẩy mạnh tuyên truyền về hội nhập kinh
tế quốc tế.
Thành ủy khóa 13 (2001 - 2005) đã ban hành chương trình 11/Ctr-TU về
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp theo, Thành ủy khóa 14 (2006 - 2010)
có chương trình: "Ðẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển một số
ngành dịch vụ trình độ, chất lượng cao giai đoạn 2006 - 2010". Ban Hội nhập
kinh tế quốc tế thành phố đã được thành lập ngày 10-12-2003. Theo đó, thành
phố đã tích cực đẩy mạnh cơng tác thơng tin, tun truyền, nâng cao nhận thức
của cán bộ quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và nhân dân về hội nhập kinh tế
quốc tế. Mỗi năm, thành phố tập huấn cho hơn 400 cán bộ chủ chốt của các sở,
ngành, quận, huyện và hơn 500 doanh nghiệp trên địa bàn về kiến thức hội nhập;
phát hành tập san "Hà Nội phát triển và hội nhập", sách "Các cam kết hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam và kế hoạch triển khai công tác hội nhập kinh tế
quốc tế của TP Hà Nội"; Ðài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội phát sóng

13


chương trình hằng tuần "Hội nhập và Phát triển", phổ biến các tin, bài nóng, hấp
dẫn về các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của thủ đô.
Ðổi mới cơ chế, chính sách; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải thiện
môi trường đầu tư, kinh doanh trên địa bàn thủ đơ.

Về cải cách hành chính, cho đến nay, Hà Nội đã đạt được kết quả: Toàn
bộ thủ tục hành chính của các ngành, các cấp đã được rà soát, loại bỏ những
quy định chồng chéo, bất hợp lý, rút ngắn quy trình, cơng khai trên Cổng giao
tiếp điện tử Hà Nội và tại trụ sở cơ quan. Phát hành Công báo thành phố nhằm
minh bạch thêm nữa các chính sách. 100% số xã, phường, quận, huyện, sở,
ngành đã thực hiện cơ chế "một cửa". UBND thành phố và các sở, ngành,
quận, huyện cùng thiết lập đường dây nóng, trực 24/24 giờ, tiếp nhận các
khiếu nại về thủ tục hành chính của doanh nghiệp và cơng dân. Thành lập Tổ
cơng tác liên ngành rà sốt các văn bản quy phạm pháp luật của thành phố
liên quan hội nhập kinh tế quốc tế và các quy định của WTO. Ðã rà soát hơn
3.000 văn bản, kiến nghị sửa đổi 16 văn bản có nội dung chưa phù hợp các
cam kết quốc tế. Tiếp tục soạn thảo, ban hành các cơ chế, chính sách nhằm
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thủ đô.
Trong những năm gần đây, thành phố xác định tập trung chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - cơng nghiệp hiện đại hóa. Cơng nghiệp tiếp
tục giữ tốc độ tăng trưởng cao, chuyển dịch theo hướng hiện đại. Trước mắt,
giai đoạn 2006 - 2007, đã xác định và có cơ chế khuyến khích phát triển 18
sản phẩm công nghiệp chủ lực. Tiểu thủ công nghiệp, nhất là các làng nghề,
phố nghề truyền thống, hàm lượng lịch sử, trí tuệ, kỹ xảo cao, được quan tâm
khôi phục và phát triển. Về dịch vụ, giai đoạn 2006 - 2010, xác định tập trung
phát triển mạnh mười ngành, lĩnh vực dịch vụ trình độ, chất lượng cao, nhằm
nâng cao căn bản chất lượng sống của người dân thủ đô, đồng thời đẩy mạnh
xuất khẩu, mở rộng hội nhập. Nơng nghiệp hiện chỉ cịn chưa đến 2% GDP,
song giữ vị trí quan trọng, quan hệ trực tiếp đến gần 40% số dân sống ở nông
thôn, đồng thời là "vành đai xanh", giữ cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường.
14


Phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái, hiện đại, năng suất và hiệu quả
cao, đạt giá trị lớn trên mỗi đơn vị diện tích canh tác.

3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Hỗ trợ các doanh nghiệp trên địa bàn (trong phạm vi cho phép) nâng cao
năng lực cạnh tranh; xúc tiến mở rộng thị trường:
Xác định doanh nghiệp là chủ thể tham gia hội nhập kinh tế quốc tế,
thành phố đã quan tâm và có những cơ chế, chính sách phù hợp, nhằm hỗ trợ
nâng cao khả năng cạnh tranh. Trước hết, quan tâm tạo mặt bằng sản xuất,
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cả về kỹ thuật và xã hội. Có chương trình hỗ trợ
phát triển các sản phẩm cơng nghiệp chủ lực, các dự án, ngành nghề, lĩnh vực
quan trọng. Hỗ trợ vốn sự nghiệp khoa học cho triển khai nghiên cứu, ứng dụng,
chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; áp dụng các hệ thống quản
lý chất lượng theo chuẩn mực quốc tế (như ISO, TQM, HACCP,...). Xây dựng,
bảo hộ và phát triển thương hiệu (không chỉ thương hiệu sản phẩm, mà cả
thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu địa phương, v.v.).
Thành phố chỉ đạo quyết liệt đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Ngay cuối năm 2006, hoàn tất sắp xếp, đổi mới 111 DNNN trực thuộc thành
phố. Thực tế chứng tỏ việc sắp xếp, đổi mới DNNN là một hướng đi đúng,
góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, dần loại
bỏ các bộ phận, thậm chí cả đơn vị doanh nghiệp kém hiệu quả. Theo chỉ đạo
của Chính phủ, Hà Nội nhiệt liệt hưởng ứng, phấn đấu là đơn vị dẫn đầu bỏ
"mũ chủ quản", bàn giao quyền quản lý vốn Nhà nước về Tổng công ty đầu tư
và kinh doanh vốn Nhà nước (trực thuộc Chính phủ). Khu vực kinh tế ngoài
Nhà nước phát triển mạnh cả về số lượng và quy mơ, góp phần đáng kể vào
tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi tăng trưởng cao, hoạt động có hiệu quả, góp phần nâng cao trình
độ cơng nghệ, quản lý và tay nghề của người lao động. Xuất hiện mơ hình
cơng ty mẹ - cơng ty con, chủ yếu trên quan hệ kinh tế, rất linh hoạt về tổ
chức, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Tiến hơn nữa, hình thành các tập đồn
15



kinh tế, với nhiều mơ hình tổ chức và quy mơ thích hợp, đạt khả năng cạnh
tranh cao trong nước và khu vực.
Trong phát triển kinh tế đối ngoại, Hà Nội chú trọng triển khai nhiều
chương trình hợp tác các thủ đơ, thành phố lớn thuộc khu vực và tồn cầu,
như hợp tác trong mạng lưới các thành phố lớn châu Á, tham gia 17 dự án
chung, trực tiếp chủ trì Dự án số 17 về xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch.
Tổ chức thành công Hội nghị City Net lần thứ 6 tại Hà Nội. Tổ chức các tuần
kinh tế - xã hội của TP Hà Nội tại Mát-xcơ-va (LB Nga), Geneva (Thụy Sĩ).
Tham gia tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, kinh doanh trong năm APEC
Việt Nam 2006... Thành phố đã chủ động hợp tác Ban hội nhập kinh tế quốc
tế các tỉnh, thành phố phía bắc nhằm phối hợp triển khai cơng tác hội nhập
kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế vùng. Chỉ đạo thực hiện tốt các cam kết
trong lĩnh vực hải quan theo quy định quốc tế, bảo đảm "dễ hơn - nhanh hơn rẻ hơn". Thực hiện các cam kết thương mại trong Hiệp định Thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ; các chương trình thu hoạch sớm Hiệp định Tự do thương mại
ASEAN - Trung Quốc; hợp tác du lịch,...
Thời gian tới, để thật sự hội nhập sâu rộng vào WTO và giao thương
toàn cầu, TP Hà Nội tập trung thực hiện các nhiệm vụ:
Từ thành phố đến các ngành, các cấp trực thuộc, phải gấp rút xây dựng
Chương trình hành động cụ thể, bảo đảm thực hiện ngay các cam kết WTO
giai đoạn 2007 - 2010.
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế
tới các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, mỗi cán bộ, công chức và
công dân.
Ðẩy mạnh thực hiện các chương trình, kế hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tập trung phát triển các ngành cơng nghiệp,
dịch vụ trình độ, chất lượng cao, giá trị gia tăng cao. Hoàn thiện đề án phát
triển và thật sự vận hành tốt các thị trường tài chính, lao động, bất động sản,
khoa học - công nghệ.
16



Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo mơi trường minh bạch, thơng
thống cho phát triển đầu tư, kinh doanh. Tiếp tục rà soát các văn bản pháp
quy liên quan hội nhập kinh tế quốc tế của TP Hà Nội, sửa đổi và hiệu chỉnh
các văn bản phù hợp quy định WTO. Hoàn chỉnh bộ máy xúc tiến đầu tư; rà
sốt và kịp thời hồn chỉnh quy hoạch các lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên thu
hút đầu tư vào Hà Nội. Huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng
kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng công tác quản lý thị trường nhằm ngăn
chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh tình trạng hàng giả, gian lận thương mại,
trốn thuế,... Triển khai thực hiện Chính phủ điện tử tại các sở, ngành, quận,
huyện, phường, xã. Phấn đấu đến năm 2008, tất cả các thủ tục hành chính
được thực hiện trực tuyến trên mạng. Quan tâm đổi mới, nâng cao năng lực tư
pháp.
Xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng
lực cạnh tranh phù hợp thông lệ quốc tế. Tập trung vào các lĩnh vực về ứng
dụng khoa học, kỹ thuật trong sản xuất, bảo hộ và phát triển thương hiệu,
thông tin thị trường, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế...
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho cán bộ,
công chức các cấp, các ngành để bảo đảm có đủ năng lực về chuyên môn,
ngoại ngữ, pháp lý, đáp ứng yêu cầu tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng những chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm giảm thiểu tác
động của mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội; giữ gìn và bảo vệ mơi trường trong sạch, bản sắc văn hóa dân tộc, truyền
thống của thủ đô ngàn năm văn hiến.

17


KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển kinh tế sau khi gia nhập WTO Hà Nội cũng

đứng trước những thách thức lớn về kinh tế. Ðó là tình trạng cạnh tranh gay
gắt, một bộ phận doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản, người lao động mất
việc làm, khoảng cách phân hóa giàu nghèo dỗng rộng hơn. Nhiều thay đổi
về cơ cấu lao động, xuất hiện những nhu cầu mới, đòi hỏi lực lượng lao động
có kỹ năng, chất lượng cao. Thủ đơ Hà Nội được đánh giá có nguồn nhân lực
trình độ, tay nghề cao so với cả nước, nhưng để đáp ứng yêu cầu hội nhập,
vấn đề nguồn nhân lực thích ứng chắc chắn vẫn là một thách thức lớn. Ðó cịn
là năng lực quản lý nhà nước, hồn thiện luật pháp, tạo hệ thống chính sách,
cơ chế phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế minh bạch, hiệu quả.
Một nền tư pháp đủ mạnh, làm an tâm các nhà đầu tư quốc tế và trong nước;
đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp mạnh dạn bước vào hội nhập; sẵn
sàng bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp khi gặp phải những tranh
chấp thương mại quốc tế. Kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa
nhiều, tiềm lực kinh tế thủ đơ cịn thấp, các loại thị trường cịn sơ khai, sức
cạnh tranh hàng hóa và dịch vụ yếu, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
cịn kém. Vì vậy, việc đứng vững và cạnh tranh ngay trên thị trường trong
nước cũng rất khó khăn và là một thách thức lớn. Quá trình cắt giảm thuế
nhập khẩu từ 17,4% xuống 13,4%, đòi hỏi phải tăng tổng kim ngạch ngoại
thương để bảo đảm tổng số thu không những khơng sút giảm, mà cịn phải
liên tục tăng thêm để đáp ứng nhu cầu phát triển mới.
Qua nội dung trình bày trên, có thể thấy rõ là cơ hội và thách thức là
hai mặt của qúa trình tồn cầu hố. Như vậy thì: ai là người đóng vai trị điều
tiết hai mặt trên trong quá trình hội nhập quốc tế và làm thế nào để tranh thủ
tận dụng các cơ hội và đối phó với những thách thức? Chúng tơi nghĩ rằng
khơng ai khác mà chính là Nhà nước phải phát huy vai trò và hiệu quả trong
quản lý vĩ mơ. Và trong tiến trình hội nhập cần qn triệt những quan điểm,
nguyên tắc của Đảng về hội nhập mà cốt lõi là hội nhập quốc tế nhưng giữ
vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
18



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình triết học Mác – Lênin / NXB Chính Trị Quốc Gia
- Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin / NXB Chính Trị Quốc Gia
- Văn kiện đại hội đảng VI, VII,VIII, IX, X
- Bài tham luận: “đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - vấn đề
giải pháp” – Thứ trưởng bộ thương mại: Lương Văn Tư
- Bài tham luận: “Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam” – PGS.TS Trần
Nguyễn Tuyên.
- “Tác động của việc gia nhập các tổ chức thương mại thế giới và hội
nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam – Một năm
nhìn lại” – Bộ trưởng bộ thương mại: Trương Đình Tuyển
- “Hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển bền vững” – Lê Thế Giới, Võ
Xuân Tiến, Trương Bá Thanh / NXB hành chínhh quốc gia
- “Tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” – Ngô Văn
Điểm / NXB Chính Trị Quốc Gia
- “Tồn cầu hố, tăng trưởng và nghèo đói: Xây dựng một nền kinh tế
thế giới hội nhập” : sách tham khảo/ Vũ Hoàng Linh dịch / NXB Văn Hố
Thơng Tin
- Tạp chí cộng sản số 34/2002, 65/2002, 12/2007, 785/2008
- Tổng cục thống kê Việt Nam

19


MỤC LỤC

20




×