Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

hoàn thiện công tác quản lý chất lượng công trình trong giai đoạn thi công tại ban quản lý dự án công trình công cộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.34 KB, 105 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của Đề tài:
Đất nước ta đang trong thời kỳ chuyển biến trên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với sự phát triển đáng kể của cơ sở hạ tầng. Trong đó, xây dựng cơ bản là
một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng, đã có những đóng góp to lớn vào sự chuyển
mình đó của đất nước. Cùng với sự phát triển liên tục của nền kinh tế, ngành xây dựng
không ngừng phát triển và mở rộng, tạo ra rất nhiều tài sản cố định cho đất nước, từng
bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Nhất là khi thị trường bất động sản đang rất ảm đạm, sự thắt chặt đầu tư công
và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt do có sự tham gia của các doanh nghiệp nước
ngoài. Việc hoàn thiện quá trình quản lý thi công công trình để nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh nhằm tăng khả năng cạnh tranh của Ban quản lý dự án công trình
công cộng trên thương trường là một yếu tố quan trọng.
Với những đặc điểm và yêu cầu nêu trên, đề tài “HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH TRONG GIAI ĐOẠN THI CÔNG TẠI
BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG” mang ý nghĩa thiết thực,
cần thiết nhằm nâng cao chất lượng công trình .
Mục đích của Đề tài:
Hoàn thiện công tác quản lý chất lượng công trình trong quá trình thi công tại Ban
quản lý dự án công trình công cộng.
Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu:
Cách tiếp cận:
Tìm hiểu các tài liệu đã được nghiên cứu và ứng dụng;
Khảo sát thực tế ở những công trình đã ứng dụng ở Việt Nam;
Các đánh giá của các chuyên gia.
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tổng quan lý thuyết và thực tiễn
Nghiên cứu ứng dụng ở Việt Nam;



2

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu công tác quản lý chất lượng thi công xây dựng công trình.

- Nghiên cứu công tác quản lý chất lượng trong thi công công trình thi công nền
móng (Giám sát thi công cọc BTCT)
- Nghiên cứu quản lý chất lượng thi công xây dựng của các công trình thực
hiện tại Ban.
Kết quả đạt được:
- Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng và quản lý chất lượng công
trình xây dựng, nhiều nhân tố ảnh hưởng.
- Đánh giá thực trạng hệ thống tổ chức quản lý, công tác quản lý và công tác
quản lý chất lượng công trình xây dựng trong giai đoạn thi công xây dựng tại Ban
QLDA công trình công cộng .
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện tổ chức quản lý phù hợp bảo đảm hiệu
quả, chất lượng công trình, áp dụng cụ thể tại Ban quản lý dự án công trình công cộng.
Em xin chân thành cám ơn!
Học viên

Nguyễn Văn Nghiêm


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH.
1.1. CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
1.1.1. Chất lượng sản phẩm.
Trên thế giới, khái niệm về chất lượng sản phẩm đã từ lâu luân gây ra những

tranh cãi phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là các khái niệm về chất
lượng nói chung và chất lượng sản phẩm nói riêng được nêu ra dưới các góc độ khác
nhau của mỗi cách tiếp cận, mỗi cách nhìn nhận riêng biệt.
1.1.2. Khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng rất
phổ biến trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Tuy nhiên, để hiểu rõ và đầy đủ
về khái niệm chất lượng sản phẩm thì thật không hề đơn giản. Bởi đây là một phạm trù
phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Đứng ở những
góc độ khác nhau và tùy theo mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh có thể đưa ra
những quan niệm về chất lượng sản phẩm thành những nhóm chủ yếu sau:
- Quan niệm siêu việt: Cho rằng chất lượng là sự tuyệt vời và hoàn hảo nhất của
sản phẩm.
Quan niệm này quá tính trừ tượng bởi chất lượng sản phẩm không thể xác định
một cách chính xác.
- Quan niệm theo hướng công nghệ: Cho rằng chất lượng sản phẩm là tồng hợp
những đặc tính bên trong sản phẩm, có thể đo được hoặc so sánh được, phản ánh giá
trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng yêu cầu định trước cho nó, trong
những yêu cầu xác định về kinh tế xã hội.
Ưu điểm của quan niệm này là có thể dễ dàng đánh giá được chất lượng đơn
thuần về mặt kỹ thuật và ở mặt tương đối tĩnh.
Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm là dễ dẫn đến nguy cơ làm cho chất lượng
không kịp thời cải tiến, không gắn chặt với nhu cầu thị trường và dẫn đến kết quả là
tiêu thụ sản phẩm kém.


4

- Quan niệm theo hướng khách hàng:
“ Chất lượng là mức độ dự đoán trước về tính đồng đều và có thể tin cậy được,
tại mức chi phí thấp và được thị trường chấp nhận”.

“ Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu”.
“ Chất lượng là những đặc điểm tổng hợp của sản phẩm dịch vụ mà khi sử dụng
sẽ làm cho sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được mong đợi của khách hàng”.
- Hầu hết đều khẳng định chất lượng sản phẩm chính là mức độ thỏa mãn nhu
cầu hay sự phù hợp với những đòi hỏi của khách hàng. Từ đó mà mức độ đáp ứng nhu
cầu là cơ sở đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Chất lượng sản phẩm
không chỉ là các chỉ tiêu kỹ thuật mà cả về những yêu cầu về mặt kinh tế xã hội.
- Điểm đặc biệt nổi bật của quan niệm này là ở chỗ chất lượng sản phẩm luôn gắn
bó chặt chẽ với nhu cầu và xu hướng vận động của nhu cầu thị trường nên sản phẩm
phải thường xuyên cải tiến, đổi mới phù hợp cho thích ứng với đòi hỏi của khách hàng.
- Ngoài ra, xuất phát từ việc nhấn mạnh đến mục tiêu chủ yếu của từng doanh
nghiệp theo đổi nhằm thích ứng với đòi hỏi của thị trường như lợi thế cạnh tranh, tính
hoàn thiện không ngừng của sản phẩm, khả năng vượt những đòi hỏi của khách
hàng,…ta còn có các quan điểm khác về chất lượng sản phẩm như:
“Chất lượng sản phẩm là tổng thể những thuộc tính của nó quy định tính thích
hợp sử dụng của sản phẩm để thỏa mãn những nhu cầu phù hợp với công dụng của
nó”.
“Chất lượng là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của nó thể hiện được sự
thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng
của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn.”
Cho tới nay quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được mở rộng hơn nữa,
“Chất lượng là sự kết hợp giữa các đặc tính của sản phẩm thỏa mãn những nhu cầu của
khách hàng trong giới hạn chi phí nhất định. Trong thực tế ta thấy rằng các doanh
nghiệp không theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn đặt nó trong một
giới hạn về công nghệ, kinh tế, xã hội.


5

1.1.3. Phân loại chất lượng sản phẩm.

Qua sự phân tích nghiên cứu, các chuyên gia chất lượng sản phẩm đã đưa ra 6
loại chất lượng sản phẩm như sau:
Chất lượng thiết kế: Là chất lượng thể hiện những thuộc tính chỉ tiêu của sản
phẩm được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu thị trường được định ra để sản xuất, chất
lượng thiết kế được thể hiện trong các bản vẽ, bản thiết kế, các yêu cầu về vật liệu chế
tạo, những yêu cầu về gia công, sản xuất chế tạo, yêu cầu về bảo quản, về thử nghiệm
và những yêu cầu hướng dẫn sử dụng. Chất lượng thiết kế còn gọi là chất lượng chính
sách nhằm đáp ứng đơn thuần về lý thuyết đối với nhu cầu thị trường, còn thực tế có
đạt được điều đó hay không thì nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.
Chất lượng chuẩn: Là loại chất lượng mà thuộc tính và chỉ tiêu của nó được phê
duyệt trong quá trình quản lý chất lượng và người quản lý chính là các cơ quan quản lý
và chính chỉ có họ mới có quyền phê chuẩn. Sau khi phê chuẩn rồi thì chất lượng này
trở thành pháp lệnh, văn bản pháp quy.
Chất lượng thực tế: Là mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm
và nó được thể hiện sau quá trình sản xuất, trong quá trình sử dụng sản phẩm.
Chất lượng cho phép: Là mức độ cho phép về độ lệch giữa chất lượng chuẩn và
chất lượng thực tế của sản phẩm. Chất lượng cho phép do cơ quan quản lý chất lượng
sản phẩm, cơ quan quản lý thị trường, hợp đồng quốc tế, hợp đồng giữa đôi bên quy
định.
Chất lượng tối ưu: Biểu thị khả năng toàn diện đáp ứng nhu cầu của thị trường
trong điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất. Nó nói lên mối quan hệ
giữa chất lượng sản phẩm và chi phí.
Chất lượng toàn phần: Là mức chất lượng thể hiện mức tương quan giữa hiệu quả
có ích cho sử dụng sản phẩm có chất lượng cao và tổng chi phí để sản xuất và sử dụng
sản phẩm đó.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng ta có thể chia thành
hai nhóm yếu tố chủ yếu. Đó là nhóm yếu tố bên ngoài và nhóm yếu tố bên trong.



6

* Nhóm yếu tố bên ngoài:
- Nhu cầu của nền kinh tế:
Ở bất cứ trình độ nào, với mục đích sử dụng gì, chất lượng sản phẩm bao giờ
cũng bị chi phối, rằng buộc bởi hoàn cảnh, điều kiện nhu cầu nhất định của nền kinh
tế, được thể hiện ở những mặt sau:
+ Nhu cầu của thị trường: Là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng.
Trước khi tiến hành thiết kế, sản xuất sản phẩm, cần phải tiến hành nghiêm túc, thận
trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích môi trường kinh tế xã hội, nắm bắt chính xác các yêu cầu chất lượng cụ thể của khách hàng cũng như
những thói quen tiêu dung, phong tục tập quán, văn hóa lối sống, khả năng thanh toán
của khách hàng …để có đối sách đúng đắn.
+ Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất: Đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề nội tại
của bản thân nền sản xuất xã hội nhưng việc nâng cao chất lượng không thể vượt ra
ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế.
+ Chính sách kinh tế: Hướng đầu tư, hướng phát triển loại sản phẩm nào đó cũng
như mức thỏa mãn các loại nhu cầu được thể hiện trong các chính sách kinh tế có tầm
quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
- Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật:
Trong thời đại ngày nay, trình độ chất lượng của bất cứ sản phẩm nào cũng gắn
liền và bị chi phối bởi sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, đặc biệt là sự ứng dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Hướng chính của việc áp dụng các kỹ
thuật tiến bộ hiện nay là:
+ Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế.
+ Cải tiến hay đổi mới công nghệ.
+ Cải tiến sản phẩm cũ và chế thử sản phẩm mới.
- Hiệu lực của cơ chế quản lý:
Có thể nói rằng khả năng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi tổ chức
phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế quản lý của mỗi nước.



7

Hiệu lực quản lý nhà nước là đòn bẩy quan trọng trong việc quản lý chất lượng
sản phẩm, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất, đảm bảo uy tín và quyền lợi
của nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Mặt khác, nó còn góp phần tạo tính tự chủ, độc lập, sáng tạo trong cải tiến chất
lượng sản phẩm của các tổ chức, hình thành môi trường thuận lợi cho việc huy động
các nguồn lực, các công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương pháp quản lý chất
lượng hiện đại.
* Nhóm yếu tố bên trong tổ chức.
Trong phạm vi một tổ chức thì có 4 yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng sản
phẩm ( được biểu thị bằng quy tắc 4 M), đó là:
- Men (con người): Lực lượng lao động trong tổ chức (bao gồm tất cả thành viên
trong tổ chức, từ cán bộ lãnh đạo đến nhân viên thừa hành). Năng lực, phẩm chất của
mỗi thành viên và mối liên kết giữa các thành viên có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng.
- Methods (phương pháp): Phương pháp công nghệ, trình độ tổ chức quản lý và
tổ chức sản xuất của tổ chức. Với phương pháp công nghệ thích hợp, với trình độ quản
lý và tổ chức sản xuất tốt sẽ tạo điều kiện cho tổ chức có thể khai thác tốt nhất các
nguồn lực hiện có, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Machines (máy móc thiết bị): Khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị của tổ
chức. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị có tác động rất lớn trong việc nâng cao
những tính năng kỹ thuật của sản phẩm và nâng cao năng suất lao động.
- Materials (nguyên vật liệu): Vật tư, nguyên nhiên liệu và hệ thống tổ chức
đảm bảo vật tư, nguyên nhiên liệu của tổ chức. Nguồn vật tư, nguyên nhiên liệu được
đảm bảo những yêu cầu chất lượng và được cung cấp đúng số lượng, đúng thời hạn sẽ
tạo điều kiện đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.2. QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH.
1.2.1. Quản lý chất lượng.

Quản lý chất lượng là các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một
tổ chức về chất lượng. Việc định hướng và kiểm soát về chất lượng nói chung bao gồm


8

lập chính sách chất lượng và mục tiêu chất lượng, hoạch định chất lượng, kiểm soát
chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng.
Quản lý chất lượng hiện đã được áp dụng trong mọi ngành công nghiệp, không
chỉ trong sản xuất mà trong mọi lĩnh vực, trong mọi loại hình tổ chức, từ quy mô lớn
đến quy mô nhỏ, cho dù có tham gia vào thị trường quốc tế hay không. Quản lý chất
lượng đảm bảo cho tổ chức làm đúng những việc phải làm và những việc quan trọng,
theo triết lý "làm việc đúng" và "làm đúng việc", "làm đúng ngay từ đầu" và "làm đúng
tại mọi thời điểm".
1.2.2. Khái niệm về quản lý chất lượng.
Quản lý chất lượng là một khái niệm rộng xét từ khái niệm “quản lý” và “chất
lượng”.
- Chất lượng là mức độ đáp ứng yêu cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có.
- Quản lý chất lượng được hiểu là các hoạt động nhằm điều chỉnh và kiểm soát
một cơ quan, tổ chức về chất lượng.
Theo các định nghĩa này ta có thể thấy phạm vi quản lý là rất rộng. Tuy nhiên,
đứng ở phạm vi quốc gia quản lý chất lượng được thực hiện chủ yếu ở hai cấp độ
chính là Nhà nước và doanh nghiệp. Xét về đối tượng, đối tượng của quản lý chất
lượng chính là các sản phẩm của tổ chức, trong đó bao gồm hàng hóa, dịch vụ hoặc
quá trình.
1.2.3. Các nguyên tắc quản lý chất lượng
Nguyên tắc 1: Định hướng bởi khách hàng.
Doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần hiểu những nhu
cầu hiện tại và tương lai của khách hàng để không chỉ đáp ứng mà còn vượt cao hơn sự
mong đợi của họ.

Nguyên tắc 2: Sự lãnh đạo.
Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích và đường lối của doanh
nghiệp. Lãnh đạo cần tạo ra và duy trì môi trường nội bộ trong doanh nghiệp để hoàn
toàn lôi cuốn mọi người trong việc đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.


9

Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi người.
Con người là nguồn lực quan trọng nhất của một doanh nghiệp và sự tham gia
đầy đủ với những hiểu biết và kinh nghiệm của họ rất có ích cho doanh nghiệp.
Nguyên tắc 4: Quan điểm quá trình.
Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn và các hoạt
động có liên quan được quản lý như một quá trình.
Nguyên tắc 5: Tính hệ thống.
Việc xác định, hiểu biết và quản lý một hệ thống các quá trình có liên quan lẫn
nhau đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại hiệu quả của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 6: Cải tiến liên tục.
Cải tiến liên tục là mục tiêu, đồng thời cũng là phương pháp của mọi doanh
nghiệp. Muốn có khả năng cạnh tranh và mức độ chất lượng cao nhất, doanh nghiệp
phải liên tục cải tiến.
Nguyên tắc 7: Quyết định dựa trên sự kiện.
Mọi quyết định và hành động của hệ thống quản lý hoạt động kinh doanh muốn
có hiệu quả phải được xây dựng dựa trên việc phân tích dữ liệu và thông tin.
Nguyên tắc 8: Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng.
Doanh nghiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau và mối quan hệ tương hỗ
cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.
1.2.4. Khái niệm quản lý chất lượng công trình .
Thông thường, xét từ góc độ bản thân sản phẩm xây dựng và người thụ hưởng
sản phẩm xây dựng:

Chất lượng công trình được đánh giá bởi các đặc tính cơ bản như: công năng, độ
tiện dụng, tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, độ bền vững, tin cậy, tính thẩm mỹ, an
toàn trong khai thác, sử dụng, tính kinh tế và đảm bảo về tính thời gian (thời gian phục
vụ của công trình).
Rộng hơn, chất lượng công trình xây dựng còn có thể và cần được hiểu không chỉ
từ góc độ của bản thân sản phẩm và người hưởng thụ sản phẩm xây dựng mà còn cả


10

trong quá trình hình thành sản phẩm xây dựng đó với các vấn đề liên quan khác. Một
số vấn đề cơ bản trong đó là:
- Chất lượng công trình xây dựng cần được quan tâm ngay từ trong khi hình
thành ý tưởng về xây dựng công trình, từ khâu quy hoạch, lập dự án, đến khảo sát,
thiết kế, thi công... đến giai đoạn khai thác, sử dụng và dỡ bỏ công trình sau khi đã hết
thời hạn phục vụ. Chất lượng công trình xây dựng thể hiện ở chất lượng quy hoạch xây
dựng, chất lượng dự án đầu tư xây dựng công trình, chất lượng khảo sát, chất lượng
các bản vẽ thiết kế...
- Chất lượng công trình tổng thể phải được hình thành từ chất lượng của nguyên
vật liệu, cấu kiện, chất lượng của công việc xây dựng riêng lẻ, của các bộ phận, hạng
mục công trình.
- Các tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ thể hiện ở các kết quả thí nghiệm, kiểm định
nguyên vật liệu, cấu kiện, máy móc thiết bị mà còn ở quá trình hình thành và thực hiện
các bước công nghệ thi công, chất lượng các công việc của đội ngũ công nhân, kỹ sư
lao động trong quá trình thực hiện các hoạt động xây dựng.
- Vấn đề an toàn không chỉ là trong khâu khai thác, sử dụng đối với người thụ
hưởng công trình mà còn là cả trong giai đoạn thi công xây dựng đối với đội ngũ công
nhân, kỹ sư xây dựng.
- Tính thời gian không chỉ thể hiện ở thời hạn công trình đã xây dựng có thể phục
vụ mà còn ở thời hạn phải xây dựng và hoàn thành, đưa công trình vào khai thác, sử

dụng.
- Tính kinh tế không chỉ thể hiện ở số tiền quyết toán công trình chủ đầu tư phải
chi trả mà còn thể hiện ở góc độ đảm bảo lợi nhuận cho các nhà thầu thực hiện các
hoạt động và dịch vụ xây dựng như lập dự án, khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng...
- Vấn đề môi trường: cần chú ý không chỉ từ góc độ tác động của dự án tới các
yếu tố môi trường mà cả các tác động theo chiều ngược lại, tức là tác động của các yếu
tố môi trường tới quá trình hình thành dự án.


11

1.2.5. Nội dung cơ bản của hoạt động quản lý chất lượng công trình.
Chất lượng công trình.
Chất lượng công trình xây dựng là tập hợp các đặc tính kỹ thuật của công trình
xây dựng được xác định thông qua kiểm tra, đo đạc, thí nghiệm, kiểm định thỏa mãn
các yêu cầu về an toàn, bền vững, kỹ thuật, mỹ thuật của công trình và phù hợp với
thiết kế, các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng, hợp đồng xây dựng và quy
định của pháp luật có liên quan.
Nguyên tắc chung trong quản lý chất lượng công trình xây dựng
- Công tác khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng và quản lý, sử dụng, bảo trì công
trình phải đảm bảo an toàn cho con người, tài sản, thiết bị, công trình và các công trình
lân cận và đảm bảo tối đa sự vận hành liên tục của công trình.
- Công trình, hạng mục công trình chỉ được nghiệm thu để đưa vào sử dụng khi
đáp ứng được các yêu cầu của thiết kế, quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn áp dụng cho
công trình và các yêu cầu khác của chủ đầu tư theo nội dung của hợp đồng và quy định
của pháp luật có liên quan. Công trình và các bộ phận công trình phải được bảo trì kể
từ khi đưa vào sử dụng.
- Tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động đầu tư xây dựng phải có đủ điều kiện
năng lực phù hợp với công việc thực hiện, có hệ thống quản lý chất lượng và chịu
trách nhiệm trước chủ đầu tư và trước pháp luật về chất lượng các công việc xây dựng

do mình thực hiện.
- Chủ đầu tư hoặc người được chủ đầu tư ủy quyền có trách nhiệm tổ chức quản
lý chất lượng phù hợp với hình thức quản lý dự án, hình thức đầu tư, hình thức giao
thầu, quy mô và nguồn vốn đầu tư xây dựng công trình trong quá trình thực hiện đầu
tư xây dựng công trình.
- Người quyết định đầu tư có trách nhiệm kiểm tra việc tổ chức thực hiện quản
lý chất lượng công trình xây dựng của chủ đầu tư trong giai đoạn đầu tư xây dựng
công trình và các nhà thầu theo quy định của pháp luật về giám sát đánh giá dự án đầu
tư xây dựng.
- Cơ quan chuyên môn về xây dựng hướng dẫn, kiểm tra công tác quản lý chất
lượng của các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng công trình; thẩm định thiết kế, kiểm


12

tra công tác nghiệm thu công trình, giám định chất lượng công trình xây dựng; kiến
nghị và xử lý các vi phạm về chất lượng công trình xây dựng theo quy định của pháp
luật.
- Việc thẩm định, phê duyệt và kiểm tra, nghiệm thu của người quyết định đầu
tư, chủ đầu tư hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
về xây dựng không thay thế và không làm giảm trách nhiệm của nhà thầu về chất
lượng các công việc xây dựng do mình thực hiện khi tham gia các hoạt động đầu tư
xây dựng công trình.
Người quyết định đầu tư, chủ đầu tư hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu
trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện các công việc thẩm định, phê duyệt
hoặc kiểm tra, nghiệm thu của mình.
1.2.6. Cơ sở thực hiện công tác quản lý chất lượng công trình
Các quyết định điều kiện cơ sở cho quy trình.
- Giám đốc quyết định hình thức tổ chức quản lý.
- Ban lãnh đạo đề xuất để Giám đốc quyết định vị trí phụ trách .

- Lập và duyệt biện pháp kinh tế kỹ thuật.
- Phòng TC-HC lập và trình Giám đốc ký quyết định thành lập tổ QLCL công
trình.
- Thực hiện thương thảo và ký Hợp đồng giao khoán.
Nội dung, trình tự thực hiện quy trình.
- Lập đề cương thực hiện quản lý.
- Trình kiểm tra và phê duyệt đề cương.
- Thực hiện quản lý theo đề cương.


13

1.3. SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG
TRÌNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.3.1. Vai trò của ngành xây dựng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước.
Xây dựng cơ bản có thể coi là một ngành sản xuất vật chất, ngành duy nhất tạo ra
cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất, đời sống y tế, quốc phòng, giáo dục và
các công trình dân dụng khác.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hoạt động xây dựng cơ
bản góp phần to lớn vào việc tạo ra cơ sở hạ tầng cho các ngành khác. Nhìn vào cơ sở
hạ tầng của các ngành đó ta có thể thấy được trình độ phát triển, hiện đại của ngành đó
như thế nào.
Nhờ có việc thi công các công trình xây dựng đô thị hóa nông thôn mà nó đã góp
phần vào việc cải thiện khoảng giữa thành thị và nông thôn, nâng cao trình độ văn hóa
và điều kiên sống cho những người dân vùng nông thôn, từ đó góp phần đổi mới đất
nước.
Ngoài ra, ngành xây dựng còn đóng góp rất lớn vào tổng GDP của cả nước. Sự
phát triển của ngành cho thấy sự lớn mạnh về nền kinh tế đất nước. Các cơ sở hạ tầng,
kiến trúc đô thị càng hiện đại càng chứng tỏ đó là một đất nước có nền kinh tế phát

triển, có nền khoa học công nghệ tiên tiến và mức sống của người dân nơi đây rất cao.
1.3.2. Tình hình chất lượng công trình xây dựng nói chung hiện nay ở nước
ta.
Ngoài các bên tham gia xây dựng (chủ đầu tư, các nhà thầu…), việc kiểm soát
chất lượng công trình ở Việt Nam hiện nay hầu như chỉ có các cơ quan quản lý Nhà
nước đảm nhiệm thông qua các biện pháp như kiểm tra, xử lý vi phạm, còn việc tham
gia của xã hội rất hạn chế. Hiện nay có 2 cơ chế để xã hội tham gia vào công tác
quản lý chất lượng công trình: theo quy trình pháp lý và tham gia tự phát.
Tham gia theo quy trình pháp lý: Trước đây, việc tham gia của thành phần
ngoài cơ quan QLNN trong quản lý chất lượng được quy định trong Nghị định
209/2004/NĐ-CP của Chính phủ, tại Điều 28 về “Kiểm tra và chứng nhận sự phù
hợp chất lượng công trình”. Theo đó, bắt buộc một số đối tượng công trình sẽ được


14

các đơn vị ngoài cơ quan QLNN (chủ yếu là các đơn vị tư vấn) kiểm tra, chứng nhận
sự đảm bảo về an toàn chịu lực, sự phù hợp về chất lượng trước khi đưa vào sử dụng.
Đây thực sự là cơ chế để xã hội cùng tham gia với cơ quan QLNN trong kiểm
soát chất lượng công trình, nhưng thực tế triển khai đã không mang lại hiệu quả như
mong muốn, trở thành hình thức, vì nhiều lý do như: các đơn vị thực hiện chứng
nhận không thật sự độc lập, các điều kiện theo quy định không đảm bảo việc chọn
được đơn vị đáng tin cậy, thiếu cơ chế kiểm tra của cơ quan QLNN.
Với Nghị định 15/2013/NĐ-CP mới được ban hành ngày 06/02/2013, vấn đề
tham gia của thành phần ngoài QLNN được quy định trong Điều 21, ở phần thẩm tra
thiết kế công trình của cơ quan QLNN địa phương, theo đó, các đơn vị tư vấn “có
thể” được cơ quan QLNN thuê thẩm tra thiết kế khi cần. Như vậy, xét về mặt xã hội
hóa, quy định như Nghị định 15/2013/NĐ-CP là bước lùi trong việc tham gia của
thành phần ngoài QLNN trong quản lý chất lượng công trình xây dựng.
Như vậy, mặc dù đã có cơ chế cho thành phần ngoài cơ quan QLNN tham gia

quản lý chất lượng xây dựng, nhưng thực tế ở Việt Nam thành phần ngoài QLNN
vẫn chưa trở thành lực lượng hỗ trợ, cùng cơ quan QLNN kiểm soát chất lượng công
trình xây dựng. Trong khi đó, khả năng quản lý chất lượng xây dựng của QLNN
hiện không tương xứng với tình hình phát triển của ngành xây dựng (lực lượng
mỏng, năng lực hạn chế...). Xét hiện trạng, tại Việt Nam, cơ quan QLNN vẫn đang
đơn độc trong kiểm soát chất lượng xây dựng.
1.3.3. Những mặt đã đạt được trong công tác nâng cao chất lượng công trình
xây dựng ở nước ta.
Từ khi Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới, ngành xây dựng có cơ hội lớn chưa
từng có để phát triển. Thành công của công cuộc đổi mới đã tạo điều kiện vô cùng
thuận lợi cho ngành xây dựng vươn lên, đầu tư nâng cao năng lực, vừa phát triển, vừa
tự hoàn thiện mình, và đã đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế đất nước. Các
doanh nghiệp của ngành không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, làm chủ được công nghệ
thiết kế và đã thi công xây dựng được những công trình quy mô lớn, phức tạp mà trước
đây phải thuê nước ngoài.
Chúng ta đã tự thiết kế, thi công nhà cao tầng, nhà có khẩu độ lớn, các công trình
ngầm và nhiều công trình đặc thù khác. Bằng công nghệ mới, chúng ta đã xây dựng


15

thành công hầm Hải Vân, hầm qua Đèo Ngang, nhiều loại cầu vượt sông khẩu độ lớn,
các nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô lớn mà chính chúng ta đang chứng kiến. Các
đô thị mới, khang trang, hiện đại đã và đang mọc lên bằng chính bàn tay, khối óc con
người Việt Nam. Qua thử thách, nhiều doanh nghiệp xây dựng nhanh chóng trưởng
thành, khẳng định vị thế.
1.3.4. Những bất cập về vấn đề chất lượng công trình xây dựng hiện nay.
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều có gắng trong việc đảm bảo, nâng cao, kiểm soát
chất lượng công trình và cũng đã đạt được một số thành tích đáng kể. Tuy nhiên, số
lượng công trình kém chất lượng hoặc vi phạm về chất lượng vẫn còn khá nhiều.

Dù dự án đường sắt trên cao là CT cấp đặc biệt nhưng do biện pháp thi công sai
phép và không an toàn nên nhiều tai nạn lao động.
Bên cạnh đó, tại các tỉnh, thành phố trên cả nước cũng có nhiều công trình xây
dựng tư nhân đã xảy ra sự cố ngay khi đang thi công, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tính mạng của người lao động cũng như sự an toàn của các công trình lân cận.
Theo báo cáo của các đơn vị quản lý , do lực lượng cán bộ chuyên trách vừa yếu,
vừa thiếu nên việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chất lượng CT xây dựng
trên địa bàn chủ yếu còn tập trung vào các CT xây dựng từ nguồn vốn ngân sách hoặc
CT do thành phố quản lý trực tiếp trong các KCX, KCN tập trung, CT phục vụ tái định
cư…
Các CT vốn tư nhân tuy ngày càng có quy mô lớn nhưng cơ quan chức năng
không thể kiểm tra hết nếu không có chế độ báo cáo nghiêm ngặt với mẫu biểu chi tiết,
khoa học.
1.3.5. Ý nghĩa của việc nâng cao công tác quản lý chất lượng công trình xây
dựng.
CLCTXD là một vấn đề sống còn được Nhà nước và cộng đồng hết sức quan
tâm. Nếu ta quản lý CLCTXD tốt thì sẽ không có chuyện công trình chưa xây xong đã
đổ do các bên đã tham ô rút ruột nguyên vật liệu hoặc nếu không đổ ngay thì tuổi thọ
công trình cũng không được đảm bảo như yêu cầu. Vì vậy việc nâng cao công tác quản
lý CLCTXD không chỉ là nâng cao chất lượng công trình mà còn góp phần chủ động
chống tham nhũng chủ động ngăn ngừa tham nhũng, ngăn ngừa thất thoát trong xây


16

dựng. Theo kết quả thực tế cho thấy, ở đâu tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của
nhà nước về quản lý chất lượng công trình thì ở đó chất lượng công trình tốt.
Công trình xây dựng khác với sản phẩm hàng hoá thông thường khác vì công
trình xây dựng được thực hiện trong một thời gian dài do nhiều người làm, do nhiều
vật liệu tạo nên chịu tác động của tự nhiên rất phức tạp. Vì vậy, việc nâng cao công tác

quản lý CLCTXD là rất cần thiết, bởi nếu xảy ra sự cố thì sẽ gây ra tổn thất rất lớn về
người và của, đồng thời cũng rất khó khắc phục hậu quả.
Nâng cao công tác quản lý CLCTXD là góp phần nâng cao chất lượng sống cho
con người. Vì một khi CLCTXD được đảm bảo, không xảy ra những sự cố đáng tiếc
thì sẽ tích kiệm được rất nhiều cho ngân sách quốc gia. Số tiền đó sẽ được dùng vào
công tác đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân, hoặc
dùng cho công tác xóa đói giảm nghèo.
1.3.6. Mục tiêu và phương hướng phát triển chung của ngành xây dựng
trong những năm tới.
Duy trì tốc độ tăng trưởng, góp phần vào những chuyển biến tích cực của
nền kinh tế
Báo cáo của Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng tại Hội nghị nêu rõ: Ngành Xây dựng
đã bước vào thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2013 trong bối cảnh tình hình kinh tế
thế giới vẫn có nhiều diễn biến phức tạp, phục hồi chậm hơn dự báo; nền kinh tế trong
nước vẫn đang trong giai đoạn khó khăn; thị trường BĐS vẫn còn trầm lắng; SXKD
của các DN vẫn trong tình trạng khó khăn; xử lý hàng tồn kho và nợ xấu, duy trì đời
sống, việc làm cho người lao động tiếp tục là một thách thức lớn đối với các DN…
Trong bối cảnh đó, ngay từ đầu năm Bộ Xây dựng đã ban hành Chương trình
hành động thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ số 01/NQ-CP về những giải pháp
chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán
ngân sách Nhà nước năm 2013, Nghị quyết số 02/NQ-CP về các giải pháp tháo gỡ khó
khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu; nghiêm túc triển khai đồng bộ
các nhóm giải pháp của Chính phủ liên quan đến các lĩnh vực của Ngành…
Với sự nỗ lực, cố gắng của toàn Ngành, giá trị sản xuất ngành Xây dựng năm
2013 (theo giá hiện hành) đạt 770,41 nghìn tỷ đồng (tăng 7% so với năm 2012), chiếm


17

tỷ trọng 5,94% GDP cả nước và được đánh giá là một trong những yếu tố tích cực

trong tăng trưởng kinh tế của năm 2013.
Tỷ lệ đô thị hóa cả nước tiếp tục tăng, đạt khoảng 33,47%, trong đó 79% dân số
đô thị được cung cấp nước sạch thông qua hệ thống cấp nước tập trung, 84% rác thải
đô thị được thu gom và xử lý...
Tỷ lệ phủ kín quy hoạch chung xây dựng đạt 100% và tỷ lệ quy hoạch phân
khu/quy hoạch chi tiết 1/2000 đạt 70% (tăng 10% so với năm 2012)... Đặc biệt, diện
tích bình quân nhà ở toàn quốc đã tăng thêm 0,6m2 sàn/người, đạt 19,6m2 sàn/người;
cả nước có khoảng 1 triệu m2 sàn nhà ở xã hội, tương đương với khoảng 20 nghìn căn
hộ; tổng sản lượng xi măng tiêu thụ khoảng 61 triệu tấn, đạt 107,5% so với kế hoạch
năm…
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của ngành Xây dựng
Theo Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng, năm 2013 là năm mà Bộ Xây dựng đã tập
trung cao độ cho việc hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý nhà nước với những quan
điểm, tư tưởng đổi mới mạnh mẽ theo hướng tăng cường kiểm tra, giám sát trong đầu
tư xây dựng nhằm hạn chế thất thoát, lãng phí, nâng cao chất lượng công trình và hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư; tăng cường kiểm soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế
hoạch; gắn việc tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS với thực hiện Chiến lược phát
triển nhà ở quốc gia, đặc biệt là phát triển nhà ở xã hội (NOXH)…
Điển hình là Dự thảo Luật Xây dựng (sửa đổi) đã trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ
họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, với quan điểm đổi mới căn bản là phân định rõ các dự
án đầu tư xây dựng sử dụng các nguồn vốn khác phải có phương thức và phạm vi quản
lý khác nhau.
Cùng với Dự thảo Luật Xây dựng, Bộ đã trình Chính phủ ban hành nhiều Nghị
định quan trọng như: Nghị định số 15/2013/NĐ-CP về quản lý chất lượng công trình
xây dựng, Nghị định số 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị, Nghị định
số 188/2013/NĐ-CP về phát triển và quản lý NOXH… Đây là những Nghị định quan
trọng nhằm kiểm soát chặt chẽ chất lượng công trình xây dựng, việc đầu tư phát triển
đô thị theo quy hoạch và kế hoạch…
Các cơ chế chính sách mới ban hành với những quan điểm, tư tưởng đổi mới,
được các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng DN, người dân và xã hội đồng tình,



18

ủng hộ và đánh giá cao, từng bước đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng, góp phần
tích cực nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Tập trung đáp ứng nhu cầu nhà ở cho người dân
Bên cạnh việc đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch xây dựng, kiểm
soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch; tăng cường quản lý đầu tư xây dựng,
nâng cao chất lượng công trình và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư… Bộ Xây dựng đã tiến
hành đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS gắn với thực hiện
Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, đặc biệt là NOXH.
Trong năm 2013, Bộ đã tập trung nghiên cứu xây dựng trình Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề
án quan trọng về lĩnh vực nhà ở, trong đó đặc biệt là Nghị định số 188/2013/NĐ-CP về
phát triển và quản lý NOXH với rất nhiều cơ chế ưu đãi để thúc đẩy phát triển nhanh
NOXH.
Đồng thời, Bộ Xây dựng tập trung chỉ đạo và hỗ trợ các địa phương rà soát, xác
định nhu cầu NOXH và xây dựng chương trình phát triển nhà ở của địa phương phù
hợp với nội dung Chiến lược và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tính đến thời điểm hiện tại, toàn quốc có 124 dự án NOXH đang được triển khai
với quy mô xây dựng khoảng 78.700 căn, trong đó có 85 dự án NOXH cho người thu
nhập thấp.
Cùng với việc tập trung đẩy mạnh xây dựng NOXH, Bộ còn tiếp tục triển khai
các Chương trình hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo khu vực nông thôn, nhà ở cho người
dân các khu vực thường xuyên bị lũ lụt, hỗ trợ nhà ở cho người có công, nhà ở cho
công nhân, sinh viên…
Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng thường xuyên ngập lũ
ĐBSCL đã giải quyết chỗ ở an toàn cho 157.863 hộ dân; Chương trình 167 giai đoạn 1
đã hỗ trợ 519.869 hộ (đạt 104,8%), đang đề xuất tiếp giai đoạn 2 với khoảng 500.000

hộ; Chương trình thí điểm hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở tránh lũ, lụt khu vực miền
Trung đã hoàn thành 700/700 hộ, đang đề xuất giai đoạn mở rộng với khoảng 40.000
hộ…


19

Cơ cấu hàng hóa BĐS đã được điều chỉnh sát với nhu cầu của thị trường, tăng
nguồn cung NOXH, nhà ở thương mại diện tích nhỏ, giá bán thấp, hướng tới nhu cầu
của số đông người dân trong xã hội.
Giá nhà ở cũng đã giảm từ 10 - 30%, nhiều dự án giá giảm tới 50% so với thời
điểm sốt giá giai đoạn 2008 - 2010. Vì vậy, tình hình thị trường BĐS những tháng cuối
năm 2013 đã ấm dần lên: Lượng giao dịch thành công tăng, tồn kho BĐS có xu hướng
giảm dần (tính đến ngày 15/12/2013, tổng giá trị tồn kho đã giảm 26,5% so với quý
I/2013)...
Đẩy mạnh tái cơ cấu DN ngành Xây dựng
Trong bối cảnh nền kinh tế trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, các DN trong
Ngành đã tập trung thực hiện tái cơ cấu, chủ động khắc phục khó khăn, từng bước ổn
định và phát triển SXKD, giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động.
Tính đến ngày 01/01/2014, toàn ngành có 68.649 DN với hơn 2,283 triệu lao
động. Các DN trong Ngành đã có đủ năng lực đảm nhiệm việc thiết kế, thi công nhiều
công trình quy mô lớn, phức tạp ngang tầm khu vực; sản xuất được các loại VLXD
chủ yếu có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và xuất khẩu ra nhiều
nước trên thế giới.
Tất cả các TCty nhà nước thuộc Bộ Xây dựng đã hoàn thành việc xây dựng, trình
phê duyệt đề án tái cơ cấu, tập trung vào 4 nội dung chính gồm: Tái cơ cấu ngành nghề
kinh doanh, tái cơ cấu tổ chức, tái cơ cấu tài chính và tái cơ cấu quản trị DN.
Hiện các Tổng công ty đang tích cực thực hiện đề án tái cơ cấu đã được phê
duyệt, tiến hành thoái vốn tại các DN kinh doanh ngoài ngành nghề kinh doanh chủ
yếu; sáp nhập một số Cty con, Cty liên kết; sáp nhập, giải thể chi nhánh, văn phòng đại

diện nhằm tinh gọn bộ máy quản lý; giảm dần giá trị vốn góp của Nhà nước tại các Cty
CP mà Nhà nước không cần thiết nắm giữ cổ phần chi phối...
Qua quá trình cổ phần hóa, giá trị phần vốn nhà nước tại các DN đã tăng thêm
được 2.096,77 tỷ đồng; số lao động được sắp xếp lại là 5.602 người; đồng thời đã xử
lý nhiều vấn đề tồn tại về tài sản, tài chính, lao động, đất đai.
Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng nhận định, dù năm 2013 ngành Xây dựng đã đạt
được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần khắc


20

phục, như tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng vẫn chậm được khắc
phục; chất lượng một số công trình xây dựng còn thấp; tình trạng xây dựng không
phép, sai phép tại một số địa phương vẫn còn cao; tỷ lệ phủ kín quy hoạch xây dựng
tại một số đô thị chưa cao, chất lượng một số đồ án quy hoạch còn hạn chế; công tác
phát triển đô thị tại một số địa phương còn nhiều hạn chế; thị trường BĐS tuy đã có
chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn…
1.3.7.Mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu của ngành xây dựng trong giai đoạn tới
Theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng, trong năm 2014, ngành Xây
dựng sẽ tập trung vào 12 nhiệm vụ trong tâm của Ngành. Trong đó, Bộ Xây dựng sẽ
tiếp tục tập trung hoàn thiện các cơ chế, chính sách trong các lĩnh vực của Ngành,
trọng tâm là hoàn thiện để trình Quốc hội, Chính phủ thông qua Luật Xây dựng (sửa
đổi) và các Nghị định hướng dẫn thực hiện, Luật Nhà ở (sửa đổi) và Luật Kinh doanh
bất động sản (sửa đổi); nghiên cứu các cơ chế, chính sách để thu hút, huy động các
nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển hạ tầng đô thị…
Đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, rà soát điều
chỉnh bổ sung các quy hoạch vùng, quy hoạch chung trên phạm vi cả nước, đẩy nhanh
tốc độ phủ kín quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết...; Tiếp tục triển khai thực hiện
Nghị định 15/2013/NĐ-CP, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong đầu
tư xây dựng và thực hiện Nghị định số 11/2013/NĐ-CP, tăng cường quản lý và kiểm

soát chặt chẽ các dự án phát triển đô thị theo quy hoạch, kế hoạch...
Năm 2014 cũng là năm ngành Xây dựng sẽ tập trung đẩy mạnh thực hiện Chiến
lược phát triển nhà ở quốc gia; hoàn thành việc phê duyệt các chương trình phát triển
nhà ở của các địa phương; triển khai thực hiện Nghị định số 188/2013/NĐ-CP về quản
lý và phát triển NOXH; tích cực thực hiện các chương trình phát triển NOXH, nhà ở
cho người thu nhập thấp khu vực đô thị, các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có
công, các hộ nghèo khu vực nông thôn, khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của
bão, lũ.
Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho
thị trường BĐS gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia; Tăng cường
quản lý vật liệu xây dựng theo quy hoạch; Tổ chức thực hiện có hiệu quả Quy hoạch
phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng....


21

1.3.8. Mục tiêu cụ thể cho vấn đề chất lượng công trình xây dựng.
Không ngừng đổi mới nâng cao công tác tổ chức, điều hành quản lý doanh
nghiệp áp dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến, đầu tư thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất
kinh doanh, thực hiện nghiêm túc các quy trình công nghệ sản xuất, đảm bảo an toàn,
tiến độ, chất lượng và hiệu quả.
Phấn đấu tất cả các công trình xây dựng, sản phẩm vật liệu xây dựng, cơ khí xây
dựng, sản phẩm thiết kế, tư vấn của các DN đều được đăng ký, thực hiện đạt yêu cầu
chất lượng và chất lượng cao theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế.
1.4. Kết luận chương 1
Trong chương 1 tác giả đã đưa ra một số khái niệm về cơ bản về chất lượng và
QLCL dựa trên những khía cạnh khác nhau từ các phía như: khách hàng, nhà sản xuất
v.v.. Liên quan đến chất lượng và QLCL thi công tác giả đã đưa ra một số khái niệm,
vai trò và yêu cầu về chất lượng thi công. Từ việc nắm rõ các khái niệm, các yêu cầu
cơ bản về chất lượng và quản lý chất lượng công trình xây dựng nói chung và các công

trình bê tông nói riêng sẽ là tiền đề để định hướng cho nội dung nghiên cứu tiếp theo
của tác giả.
Để hiểu rõ hơn về công tác quản lý và nâng cao chất lượng trong giai đoạn thi
công tại ban quản lý dự án công trình công cộng, trong chương 2 tác giả sẽ đưa ra các
nội dung cơ sở pháp lý về lý thuyết trong quản lý chất lượng trong giai đoạn thi công.
Từ những cơ sở lý luận đó sẽ giúp cho tác giả có cái nhìn tổng quan về mặt lý thuyết,
tạo cơ sở cho những nội dung nghiên cứu tiếp theo.


22

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN TRONG QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
2.1. Cơ sở pháp lý:
2.1.1. Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/6/2014 do Quốc hội Nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành :
- Quy định vai trò và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng
được phân cấp, làm rõ gồm: Bộ Xây dựng, UBND các tỉnh, quận, huyện. Tránh được
tình trạng nhiều cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng khi công trình sự cố không có
đơn vị chịu trách nhiệm sẽ gây thiệt hại cho xã hội. Trong đó cơ quan chuyên môn về
xây dựng là các cơ quan trực thuộc Bộ Xây dựng, Bộ quản lý công trình xây dựng
chuyên ngành; Sở Xây dựng, Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành; Phòng có
chức năng quản lý xây dựng thuộc UBND cấp huyện;
- Chủ đầu tư vốn ngân sách Nhà nước và vốn Nhà nước là cơ quan, tổ chức,
được người quyết định đầu tư giao quản lý, sử dụng vốn để đầu tư xây dựng. Căn cứ
điều kiện cụ thể của dự án sử dụng vốn NSNN, người quyết định đầu tư giao BQLDA
chuyên ngành hoặc khu vực làm chủ đầu tư; trường hợp không có BQLDA thì người
quyết định đầu tư lựa chọn cơ quan, tổ chức đủ điều kiện làm chủ đầu tư. Khắc phục
tình trạng nhiều chủ đầu tư không đủ năng lực thực hiện và quản lý các dự án.
- Bảo hiểm bảo hành là loại bảo hiểm mới được quy định trong Luật xây dựng

2014; Theo quy định thì 3 loại bảo hiểm bắt buộc: Bảo hiểm công trình trong thời
gian thi công XD; Nhà thầu tư vấn Khảo sát, Thiết kế mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp đối với công trình cấp II, Nhà thầu thi công phải mua bảo hiểm cho người lao
động;
- Về Thẩm quyền thẩm định dự án: Dự án quan trọng quốc gia do Hội đồng
thẩm định nhà nước; đối với các dự án sử dụng vốn NSNN thì do Cơ quan chuyên
môn về xây dựng chủ trì thẩm định; Vốn nhà nước ngoài NSNN: thì cơ quan chuyên
môn về xây dựng thẩm định TKCS; Cơ quan chuyên môn thuộc người quyết định đầu
tư chủ trì thẩm định thiết kế phần công nghệ, các nội dung khác của dự án; Đối với dự
án vốn khác: Cơ quan chuyên môn về xây dựng về XD thẩm định Thiết kế cơ sở công
trình cấp I, đặc biệt, công trình công cộng có ảnh hưởng an toàn, môi trường; cơ quan
chuyên môn về xây dựng của người quyết định đầu tư thẩm định công nghệ, các nội
dung khác của dự án. Các dự án còn lại do người quyết định đầu tư tổ chức thẩm định;


23

- Về Thẩm quyền thẩm định thiết kế xây dựng, TKBVTC và dự toán: Dự án sử
dụng vốn vốn NSNN: Cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định TKKT (3 bước),
TKBVTC (2 bước), dự toán, người QĐĐT phê duyệt thiết kế, dự toán, riêng đối với
TKBVTC, dự toán (Trường hợp thiết kế 3 bước) do chủ đầu tư phê duyệt; Dự án sử
dụng vốn vốn Nhà nước: Cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định TKKT (3
bước), TKBVTC (2 bước), dự toán, riêng phần thiết kế công nghệ do Cơ quan chuyên
môn của người QĐĐT thẩm định, người QĐĐT phê duyệt TKKT, dự toán (3 bước),
Chủ đầu tư phê duyệt TKBVTC, dự toán (3 bước, 2 bước); Dự án sử dụng vốn khác:
Cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định TKKT, TKBVTC đối với công trình cấp
I, đặc biệt, công trình công cộng gây ảnh hưởng an toàn, môi trường cộng đồng, riêng
phần thiết kế công nghệ, dự toán do Cơ quan chuyên môn của người Quyết định đầu tư
thẩm định, Thiết kế, dự toán do người quyết định đầu tư và chủ đầu tư phê duyệt;
- Về thẩm quyền quyết định đầu tư xây dựng: Đối với dự án sử dụng Vốn đầu

tư công (có sử dụng vốn nhà nước) thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công; Đối
với dự án sử dụng vốn nhà nước đầu tư kinh doanh thì người đại diện của cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp quyết định đầu tư; Đối với dự án sử dụng vốn khác thì chủ sở hữu
hoặc đại diện chủ sở hữu quyết định đầu tư.
* Quy định mới về việc lấy ý kiến quy hoạch xây dựng: Cơ quan, chủ đầu tư tổ
chức lập quy hoạch xây dựng có trách nhiệm lấy ý kiến của cộng đồng dân cư có liên
quan về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng.
- Quy định mới về Giấy phép quy hoạch xây dựng: Theo đó, Giấy phép quy
hoạch xây dựng là văn bản do cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cấp cho chủ
đầu tư trong khu chức năng đặc thủ để làm căn cứ lập quy hoạch chi tiết hoăc lập dự
án khi chưa có quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chi tiết;
- Bổ sung thêm các trường hợp được miễn cấp Giấy phép xây dựng: Nhà ở
riêng lẻ ở nông thôn ; công trình xây dựng thuộc dự án khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao có quy hoạch chi tiết 1/500 đã được cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt; nhà ở thuộc dự án phát triển đô thị, dự án phát triển có quy mô dưới 7 tầng và
tổng diện tích sản dưới 500m2; Công trình chỉ lập báo cáo KTKT ở nông thôn khu vực
chưa có quy hoạch chi tiết xây dựng.
- Hình thành 02 loại Ban quản lý dự án là Ban QLDA chuyên ngành và Ban
QLDA khu vực để quản lý các dự án vốn NSNN, vốn NN theo chuyên ngành; Các ban


24

này sẽ được giao làm chủ đầu tư một số dự án và thực hiện chức năng, nhiệm vụ
QLDA, thực hiện tư vấn QLDA đối với dự án khác.
- Ban QLDA một dự án: Được thành lập để thực hiện 01 dự án sử dụng vốn nhà
nước có quy mô nhóm A có công trình cấp đặc biệt, công nghệ cao hoặc dự án quốc
phòng, an ninh.
- Thuê tư vấn QLDA: vốn nhà nước ngoài NSNN, đặc thù, đơn lẻ.
- Chủ đầu tư sử dụng bộ máy chuyên môn: sửa chữa, cải tạo nhỏ, DA có sự

tham gia của cộng đồng.
Như vậy, theo Luật Xây dựng 2014, quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân; về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư xây dựng
trên lãnh thổ Việt Nam đã được siết chặt hơn, quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Qua các
nội dung mới của Luật Xây dựng cũng thể hiện quan điểm của Quốc hội trong việc
quản lý chặt chẽ hơn nữa đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước, khắc phục lãng phí
thất thoát, nâng cao chất lượng công trình./.
2.1.2. Nghị định 32/2015/NĐ-CP ngày 25/3/2015của Chính phủ về quản lý
chi phí đầu tư xây dựng công trình:
- Về phạm vi điều chỉnh: Bổ sung, điều chỉnh tên gọi một số khái niệm như
tổng mức đầu tư xây dựng (thay tổng mức đầu tư), dự toán xây dựng (bao gồm dự toán
xây dựng công trình và dự toán gói thầu xây dựng), chỉ số giá xây dựng (mới), chi phí
quản lý dự án và tư vấn đầu tư xây dựng (mới)...
Về nguyên tắc quản lý chi phí đầu tư, có hai vấn đề được đề cập:
- Chi phí đầu tư xây dựng phải được tính đúng, tính đủ cho từng dự án, công
trình, gói thầu, phù hợp với yêu cầu thiết kế, chỉ dẫn kỹ thuật, điều kiện xây dựng, mặt
bằng giá thị trường tại thời điểm xác định chi phí và khu vực xây dựng công trình;
- Chủ đầu tư được thuê tổ chức, cá nhân tư vấn quản lý chi phí đủ điều kiện
năng lực theo quy định tại Nghị định về quản lý dự án đầu tư xây dựng để lập, thẩm
tra, kiểm soát và quản lý chi phí đầu tư xây dựng.
- Về điều chỉnh tổng mức đầu tư, thêm lý do để được điều chỉnh: Trường hợp đã
sử dụng hết chi phí dự phòng, chủ đầu tư tổ chức xác định bổ sung khoản chi phí dự
phòng do yếu tố trượt giá khi chỉ số giá xây dựng do cơ quan có thẩm quyền công bố
từ khi thực hiện dự án đến thời điểm điều chỉnh lớn hơn chỉ số giá sử dụng trong tổng
mức đầu tư đã phê duyệt.


25

- Về chi phí xây dựng, chi phí xây dựng gồm 4 khoản chi phí (chi phí trực tiếp,

chi phí chung, thu nhập chịu thuế tính trước, thuế giá trị gia tăng, chi phí xây dựng nhà
tạm để ở và điều hành thi công tại hiện trường), không bao gồm chi phí xây dựng nhà
tạm để ở và điều hành thi công tại hiện trường(chi phí nhà tạm tại hiện trường để ở và
điều hành thi công và chi phí trực tiếp khác đều được chuyển qua chi phí hạng mục
chung)
2.1.3. Căn cứ Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/05/2015 của chính phủ
về Quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng:
- Trên cơ sở căn cứ các nội dung Luật Xây dựng 2014 và kết quả tổng kết quá
trình thực hiện Nghị định 15/2013/NĐ-CP, về cơ bản Nghị định kế thừa các nội dung
ưu việt của Nghị định 15/2013/NĐ-CP, bổ sung các nội dung hướng dẫn về bảo trì
công trình xây dựng hiện nay đang quy định tại Nghị định 114/2010/NĐ-CP ngày
06/12/2010 của Chính phủ về bảo trì công trình xây dựng vào Nghị định này. Đồng
thời, Nghị định còn bổ sung các nội dung còn hạn chế, các quy định mới cần quản lý
nhưng chưa được thể hiện trong Nghị định 15/2013/NĐ-CP, đưa một số nội dung quy
định trong các Thông tư hướng dẫn Nghị định 15/2013/NĐ-CP đã đi vào cuộc sống và
vận hành tốt để giảm các nội dung hướng dẫn trong các Thông tư, nhằm tăng cường
tính ổn định của hệ thống pháp luật.
- Từ các nội dung nêu trên, Nghị định được soạn thảo theo trình tự công việc từ
giai đoạn khảo sát, thiết kế, thi công đến bảo trì công trình xây dựng. Quy định trách
nhiệm của từng chủ thể tham gia hoạt động xây dựng công trình trong từng giai đoạn.
Sự thay đổi của Nghị định này phù hợp hơn với thực tế và giúp các chủ thể năm bắt
ngay các quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng trong toàn bộ quá trình
hoạt động đầu tư xây dựng.
Căn cứ Nghị định này thì việc quản lý chất lượng công trình xây dựng phải
tuân thủ theo 06 nguyên tắc cơ bản sau:
- Công trình xây dựng phải được kiểm soát chất lượng theo quy định của Nghị
định này và pháp luật có liên quan từ chuẩn bị, thực hiện đầu tư xây dựng đến quản lý,
sử dụng công trình nhằm đảm bảo an toàn cho người, tài sản, thiết bị, công trình và các
công trình lân cận.
- Hạng mục công trình, công trình xây dựng hoàn thành chỉ được phép đưa vào

khai thác, sử dụng sau khi được nghiệm thu bảo đảm yêu cầu của thiết kế xây dựng,


×