Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

ĐỀ CƯƠNG : QUẢN LÝ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.27 KB, 39 trang )

ĐỀ CƯƠNG : QUẢN LÝ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
1. DƯ LUẬN XÃ HỘI
Trong số những thành tựu quan trọng nhất mà loài người đạt được trong thời
gian gần đây, những phát triển nhảy vọt của các kỹ thuật truyền thông là một hiện
tượng gây kinh ngạc và có những ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Cùng với sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, sự ra đời của phương tiện truyền thông hiện đại là sự hình
thành hệ thống các kênh thông tin đại chúng như một thiết chế xã hội quan trọng của
xã hội hiện đại. Truyền thông đại chúng (mass media) ngày nay được hiểu như là toàn
bộ những kỹ thuật lan truyền thông tin tới những nhóm xã hội lớn, mà chủ yếu bằng
báo in, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, internet hoặc các phương tiện khác như sách,
áp phích… Bên cạnh sự cải tiến không ngừng về tốc độ, dung lượng và tính đa dạng,
các phương tiện truyền thông tăng nhanh khả năng chuyển tải lẫn chất lượng kỹ thuật
của chúng. Những thay đổi ấy làm cho các phương tiện truyền thông có khả năng lan
xa và thấm sâu, làm thay đổi cả bản chất của xã hội cũng như đời sống tâm lý, các
chuẩn mực văn hóa và những thói quen của con người.
Dư luận xã hội là sự đánh giá của một cộng đồng tự ý thức về một vấn đề nào đó.
Dư luận xã hội là ý kiến của nhóm có đủ thông tin cũng có khi của một nhóm chưa có
thông tin đầy đủ. Trường hợp đầu là có sự đánh giá chính xác, nhóm sau chỉ là đồn
thổi. Xét liên hệ dân trí và dư luận nó là tỉ lệ thuận. Dân trí có văn hóa thường có dư
luận

chính

đáng



tin

đồn


thường



trong



hội



khai.

Dư luận xã hội khi đã hình thành là biểu thị thái độ của đa số người trong cộng đồng,
là quan điểm, cảm xúc, ý chí tập thể nên có sức mạnh lớn lao. Trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người, dư luận xã hội đã đóng vai trò điều hoà các mối quan hệ xã hội .
Dư luận xã hội chẳng những có vai trò điều hoà các mối quan hệ xã hội mà cả hành vi
xã hội. Trên cơ sở phán xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng dư luận xã hội nêu ra các
chuẩn mực xã hội, hứng dẫn những việc nên làm, nên tránh. Nó làm cho các truyền
thống, phong tục đã hình thành phát huy ảnh hưởng trong xã hội. Ngoài vai trò điều
hoà, dư luận xã hội còn có vai trò giáo dục con người nhiều khi mạnh hơn cả biện
pháp hành chính. Dư luận xã hội một khi đã được hình thành thì nó tác động vào ý
thức con người, chi phối ý thức cá nhân. Về phương diện này, dư luận xã hội có thể

1


động viên, khuyến khích hoặc phê phán, công kích những biểu hiện thiếu đạo đức
hoặc hành vi cá nhân, của nhóm người trong xã hội, phòng ngừa các hành vi phạm

pháp, nó buộc từng cá nhân phải thu mình vào lễ nghi, phong tục. Dư luận xã hội còn
có chức năng cố vấn cho các tổ chức, cho cơ quan chức năng giải quyết các vấn đề có
liên quan đến.
Vai trò và chức năng của truyền thông đại chúng trong đời sống xã hội đã được
chứng minh từ lâu. Thế nhưng, dưới cái nhìn của xã hội học, cơ chế tác động qua lại
giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong
việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội.
Dư luận XH – theo góc độ xã hội học – là sự thể hiện tâm trạng XH, phản ánh sự
đánh giá của các nhóm xã hội lớn, của công chúng nói chung về các hiện tượng, sự
kiện xã hội, đại diện cho lợi ích của các nhóm xã hội mà những lợi ích này có tính cấp
thiết trên cơ sở các quan hệ XH đang tồn tại.
Dư luận XH là cầu nối giữa ý thức xã hội và hành động xã hội. Vì vậy, với việc
hình thành và thể hiện dư luận XH, các phương tiện truyền thông mới có thể làm tốt
chức năng “tổ chức tập thể, cổ động tập thể”, mới góp phần tạo nên động lực tinh thần,
tạo nên sức mạnh cho các hành động XH.
Việc thể hiện dư luận XH trên các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung
và thể hiện dư luận XH đều dựa trên yêu cầu: Thông tin đưa ra công luận phải dẫn đến
sự tranh luận của quần chúng, nghĩa là các thông tin đó trở thành điểm khởi đầu cho sự
đánh giá của dư luận XH đều có các tính chất sau:
- Nó phản ánh được lợi ích của xã hội.
- Nó có tính cấp bách
- Nó tạo nên sự tranh luận
Quá trình hình thành dư luận xã hội có sự đòi hỏi cao ở tính thống nhất rất phức
tạp của các đối tượng công chúng. Các yếu tố quan niệm chung về định hướng giá trị,
bề dày của kinh nghiệm chính trị, tính tích cực chính trị xã hội, trình độ học vấn của
công chúng là các nhân tố quan trọng để tập hợp các cá nhân vào dòng chảy của các
phương tiện truyền thông đại chúng, và qua hệ thống này thể hiện ý kiến của cá nhân
họ và của nhóm xã hội mà bản thân họ là một thành viên.

2



Sự trùng khớp càng cao giữa ý kiến của nhóm với ý kiến chung của xã hội là
nhân tố quan trọng để tạo nên mối liên kết xã hội nhằm đảm bảo tính chất bền vững
của dư luận xã hội.
Tính chất chân thực của nội dung thông tin được phát trên các phương tiện
truyền thông đại chúng có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành dư luận xã hội.
Uy tín của nguồn tin cũng phụ thuộc nhiều nhất vào tính chân thực của thông tin, vì
đây là nhân tố sẽ xác định thái độ của công chúng đối với chủ đề mà các phương tiện
thông tin đại chúng khơi gợi và đề xuất, từ đó mà tạo nên mối liên hệ xã hội trên cơ sở
những lợi ích chung để tiến hành thảo luận và đánh giá. Mức độ chín muồi trong sự
đánh giá của dư luận xã hội về một chủ đề nào đó sẽ là cơ sở để tạo nên hành động xã
hội của các nhóm dân cư, các tầng lớp xã hội. Điều đó có nghĩa là dư luận xã hội được
hình thành và trở nên bền vững không bởi các tác động của phưong tiện truyền thông
đại chúng sẽ được bộ lộ ra ở cả hai cấp độ: lời nói và việc làm. Hiệu quả của dư luận
xã hội sẽ được đo bằng sự ảnh hưởng trên cả hai cấp độ đó.

2. VĂN HÓA ĐỌC
Thế giới hôm nay đang bước vào kỷ nguyên truyền thông mới, trong đó nền văn
hóa đọc như bị thu hẹp, lùi dần vào quá khứ, còn Internet và các loại thông tin kỹ
thuật số đang mở ra tương lai. Các phương tiện truyền thông trực tuyến hiện đại đang
tiếp tục thu hút ngày càng nhiều người sử dụng hơn với những tính năng cung cấp
thông tin nhanh nhạy, toàn diện và trực tiếp. Điều đó cho thấy khả năng tham gia hoạt
động truyền thông nằm trong tầm tay của mỗi người nếu chúng ta thực sự có niềm say
mê và mối quan tâm.
Ðọc chính là học tập và truyền bá tri thức của nhân loại. Khi kho tàng tri thức ấy
không ngừng được bổ sung, ngày càng lớn lên vô cùng tận với thời gian thì văn hóa
đọc cũng phát triển mạnh mẽ không ngừng. Với kho tàng trí thức khổng lồ, mỗi người
đọc cả đời cũng không hết.
Cho nên văn hóa đọc thôi thúc con người phải chịu khó đọc để mở rộng kiến

thức, nâng cao sự hiểu biết nhằm hoàn thiện nhân cách và làm việc có hiệu quả. Trong
thời hiện đại, với nhịp sống công nghiệp, với những cuộc mưu sinh hoặc tìm cách làm

3


giàu, thời gian rỗi của con người ngày càng eo hẹp, có ảnh hưởng rất lớn tới văn hóa
đọc. Trong khi đó, các phương tiện nghe nhìn phát triển rất mạnh, các hình thức giải
trí đa dạng, hấp dẫn thường xuyên xuất hiện đã khiến cho người ta dần dần ngại đọc
sách, xa rời văn hóa đọc.
Thực tế cho thấy, dù xã hội phát triển đến đâu, văn hóa đọc vẫn giữ vai trò rất
quan trọng, vẫn vô cùng cần thiết đối với mỗi con người. Văn hóa đọc gắn liền với sự
ra đời của chữ viết có những đặc trưng riêng biệt vì thế không có hình thức nào để
thay thế được nó. Quá trình đọc là quá trình hấp thụ tri thức qua cảm nhận của người
đọc. Trong quá trình đọc, con người phải suy nghĩ, phân tích tổng hợp, tư duy biến tri
thức của nhân loại thành tri thức của riêng mình. Tri thức sẽ hằn sâu trong trí não của
mỗi người và đọng lại trở thành vốn kiến thức để con người vận dụng vào công việc và
cuộc sống của chính mình, có tác dụng hơn hẳn những tiếng nói thoáng qua, những
hình ảnh lướt qua. Văn hóa đọc cũng giúp con người tăng trí tưởng tượng nhất là
những tác phẩm văn học. Từ những dòng chữ, thông qua ngôn ngữ văn học, những
nhân vật, những khung cảnh thiên nhiên, xã hội như hiển hiện trước mắt người đọc.
Ðọc các tác phẩm văn học có tác dụng bồi dưỡng tâm hồn, tư tưởng và sự sáng tạo cho
người đọc. Có thể nói văn hóa đọc giữ vai trò chủ chốt trong quá trình học tập, quá
trình nhận thức của mỗi người chúng ta.
Như vậy văn hóa đọc rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại góp phần không nhỏ
cho sự phát triển xã hội. Cho nên cần phải tuyên truyền giáo dục để mọi người nhận
thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của sách, của văn hóa đọc với mỗi người,
văn hóa đọc phải trở thành nhu cầu không thể thiếu của con người. Ngay cả ở những
nước công nghiệp phát triển, văn hóa đọc vẫn được coi trọng. Trong cuộc sống thường
ngày hối hả, bận rộn chúng ta vẫn chứng kiến cảnh người ta say mê đọc sách báo trên

máy bay, trên tàu điện ngầm, trong khi chờ đợi. Ðọc sách báo đã trở thành thói quen.
Bên cạnh đó phải hình thành hệ thống thiết chế văn hóa đọc chủ yếu là mạng lưới thư
viện. Trước đây, nhiều tỉnh, thành phố đã xây dựng được mạng lưới thư viện đến tận
cơ sở, làng, xã. Tuy nhiên, hệ thống này hoạt động yếu, kém, cơ sở vật chất thiếu thốn,
vốn ngân sách dành cho sách, báo ít ỏi nghèo nàn, cho nên phần lớn các thư viện đều

4


vắng bạn đọc, bụi phủ đầy sách báo. Văn hóa đọc cần được khơi dậy ngay từ cơ sở,
tạo thành phong trào quần chúng ham đọc sách báo, cần phải đầu tư nhiều hơn nữa
cho mạng lưới thư viện để có nhiều đầu sách báo phong phú, đổi mới hình thức hoạt
động thu hút đông đảo bạn đọc. Những năm gần đây xuất hiện một số cách làm mới
như xây dựng các bưu điện văn hóa xã kết hợp giải quyết nhu cầu thông tin liên lạc
cùng với nhu cầu đọc sách của nhân dân, xây dựng những thư viện gia đình, cụm dân
cư làm nòng cốt cho phong trào đọc sách báo ở cơ sở. Tất cả những việc làm đó đều
nhằm mục đích tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân tiếp cận với sách, báo, với
văn hóa đọc.
Ðể văn hóa đọc phát huy tầm ảnh hưởng của mình, có sức hấp dẫn đông đảo
bạn đọc, một vấn đề rất quan trọng đặt ra là phải có nhiều tác phẩm đọc đa dạng,
phong phú bổ ích và hấp dẫn. Muốn cho trẻ em ham đọc sách, thoát nghiện trò chơi
điện tử thì phải có sách hay cho các em đọc. Dư luận đã lưu ý còn quá nhiều truyện
tranh nhiều tập lôi cuốn các em xem tranh hơn là đọc. Những lời thoại có dòng chữ
ngắn ngủi, lí nhí nhiều khi lại thô thiển. Mặc dù, công tác xuất bản những năm gần đây
có rất nhiều cố gắng, đưa ra thị trường nhiều loại sách đa dạng, trong đó có những
cuốn sách quý, tuy nhiên cũng xuất hiện không ít những ấn phẩm in rất đẹp, bìa dày
nhưng nội dung nhạt nhẽo, vô bổ khiến cho người đọc cảm thấy đọc mất thời gian.
Cùng với việc phát triển công nghệ hiện đại đã xuất hiện loại hình đọc mới như trang
thông tin điện tử, báo điện tử, sách điện tử. Ðây là cơ hội mới để phát triển văn hóa
đọc trong thời hiện đại. Tuy còn là bước khởi đầu ở nước ta song đòi hỏi chúng ta cần

nhanh chóng nắm bắt quản lý tốt loại hình này, bảo đảm chất lượng về nội dung và
hình thức, đáp ứng nhu cầu của người đọc trong tình hình mới, góp phần nâng cao
nhận thức, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho con người.

3. CHỐNG THAM NHŨNG.
1. Định nghĩa, đặc trưng của tham nhũng
Ở Việt Nam, khái niệm tham nhũng được quy định tại Luật phòng, chống tham
nhũng năm 2005. Theo đó, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi

5


Theo định nghĩa trên đây, tham nhũng có những đặc trưng cơ bản như sau:
- Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực công:
Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ
quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị, nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức,
đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước.
Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân
đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật
trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh
nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của
Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền
hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó
- Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao:
Đây là đặc trưng thứ hai của tham nhũng. Chủ thể tham nhũng phải sử dụng
“chức vụ, quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình,
cho gia đình mình hoặc cho người khác. Một người có chức vụ, quyền hạn thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật vì động cơ vụ lợi nhưng hành vi đó không lợi dụng chức vụ,

quyền hạn thì không coi là tham nhũng.
- Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi:
Mục đích của hành vi tham nhũng phải là mục đích vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện
hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà không xuất phát từ động cơ vụ lợi thì hành vi
đó không là hành vi tham nhũng. Vụ lợi là lợi ích vật chất (tiền, nhà, đất, các vật có
giá trị...) hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn mong muốn đạt được
từ việc thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình.
II- NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN
CỦA THAM NHŨNG
Các nghiên cứu về tham nhũng ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy
tham nhũng là hiện tượng xã hội gắn với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai
cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước và các quyền lực
công cộng khác. Tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ khác nhau. Khi

6


nhà nước và quyền lực chính trị còn tồn tại thì còn có điều kiện để xảy ra tham nhũng.
Cùng với sự phát triển của các hình thái nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường, các quan hệ chính trị - kinh tế tạo ra những tiền đề khách quan
quan trọng làm cho tham nhũng phát triển. Đối với mỗi cá nhân, nhu cầu về lợi ích là
yếu tố chủ quan dẫn đến tham nhũng. Khi yếu tố lợi ích kết hợp với sự lạm dụng
quyền lực của những người có chức vụ, quyền hạn thì khả năng xảy ra tham nhũng là
rất cao.
Những nguyên nhân, điều kiện cơ bản của tham nhũng như sau:
1. Nguyên nhân và điều kiện khách quan
- Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, trình độ quản lý còn lạc hậu, mức sống
thấp, tạo ra các kẽ hở cho tệ tham nhũng nảy sinh và phát triển. Bên cạnh đó, do ảnh
hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, sự cạnh tranh và việc đề cao quá mức giá trị
đồng tiền làm cho người sản xuất, kinh doanh có xu hướng tối đa hoá lợi nhuận bằng

mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh doanh. Trong
kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, có những giá trị xã hội bị
đảo lộn, mọi người đều phải chịu sức ép của việc kiếm tiền, làm xuất hiện tâm lý mọi
việc đều có thể mua bán. Những nghiên cứu gần đây cho thấy tác hại to lớn của những
yếu tố tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường thật sự đã đến mức báo động, chính
điều này đã góp phần làm gia tăng tệ tham nhũng thông qua việc thúc đẩy các hành vi
vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, làm giàu phi pháp, chiếm đoạt tiền của Nhà
nước và nhân dân.
- Cơ chế chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán,việc
phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, phân biệt quản lý nhà nước và quản
lý sản xuất, kinh doanh có phần chưa rõ. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ chế quản lý tài sản công,
quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước còn lỏng lẻo.
- Một số nét văn hoá như biếu và nhận quà tặng... bị lợi dụng để thực hiện hành
vi tham nhũng.
2. Nguyên nhân và điều kiện chủ quan của hành vi tham nhũng

7


- Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái, công tác
quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên yếu kém. Điều này đã đượcđánh giá trong nhiều
văn kiện của Đảng. Ngày 21-8-2006, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X cũng nhận định: “Công tác cán bộ nói chung và việc quản
lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không
nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức,
lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo
cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”.
- Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin - cho” trong hoạt

động công vụ vẫn còn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý. Cơ
chế “xin - cho” là một trong những nguy cơ của tệ tham nhũng, hối lộ mà đến nay vẫn
chưa có cách khắc phục. Bên cạnh đó, chế độ công vụ của cán bộ, công chức mới bắt
đầu được quan tâm xây dựng, hiện tại còn thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả.
Chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức chưa rõ ràng, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm
của cán bộ lãnh đạo đối với những sai phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị
mình. Chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý, chậm được
cải cách. Đồng lương không đủ đảm bảo nhu cầu của cuộc sống là một động cơ đẩy
cán bộ, công chức thực hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực khi có điều kiện, cơ hội.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng ở một số nơi chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; việc xử lý tham nhũng chưa
nghiêm.
- Chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong đấu tranh chống tham
nhũng chưa rõ ràng, thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể, hữu hiệu.
- Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu. Những năm qua,
hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đã thu được một số kết quả
tích cực nhưng trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng.
- Việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia của lực
lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa được quan tâm đúng mức.

8


Báo chí vừa có tác dụng cảnh báo những nơi có nguy cơ tham nhũng, vừa tham gia
phát hiện và đặc biệt là tạo nên dư luận mạnh mẽ đòi xử lý tham nhũng. Vì những lý
do khác nhau mà một số cơ quan còn e ngại trước sự tham gia của báo chí, hoặc là vì
bản thân sự thông tin đôi khi không chính xác hoặc không đúng thời điểm đã gây khó
khăn cho việc phát hiện và xử lý triệt để các vụ việc tham nhũng. Bên cạnh đó, công
tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về tham nhũng và đấu tranh chống

tham nhũng mặc dù đã nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nhưng chưa tạo
ra một sự chuyển biến tích cực trong ý thức xã hội trong việc phản ứng với tệ nạn
tham nhũng cũng như đề cao ý thức trách nhiệm của người dân trong việc tham gia
vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
III- TÁC HẠI CỦA THAM NHŨNG
1. Tác hại về chính trị
Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất nước,
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng báo
động. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự án
lớn mà còn xuất hiện nhiều trong các cấp chính quyền cơ sở - cơ quan tiếp xúc với
nhân dân hằng ngày, giải quyết những công việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của
nhân dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX chỉ rõ:
“... Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình
trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng...”1.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của
việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội hoặc một nhiệm vụ quản lý
nhất định của Nhà nước. Tổng quát hơn, sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Nhân dân chính là động
lực, chủ thể, mục đích của cách mạng.
Để nhân dân mất niềm tin, tức là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vô cùng to
lớn, thậm chí có tính chất quyết định đối với sự nghiệp cách mạng.

9


2. Tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và của

công dân.
Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền của, thời gian,
công sức của nhân dân. Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát liên quan tới tham
nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỉ đồng. Đó là
những con số lớn và đáng lo ngại so với số thu ngân sách hằng năm của nước ta. Hậu
quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập
thể hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham
nhũng, mà nguy hiểm hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng
phí một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân. Ở mức độ thấp
hơn, việc một số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi
thực thi công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân
phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của
mình như: xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác...
Nếu xét từng trường hợp một thì giá trị vật chất bị lãng phí có thể không quá lớn,
nhưng nếu tổng hợp những vụ việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong đời sống hằng
ngày của nhân dân thì con số bị thất thoát đã ở mức độ nghiêm trọng.
3. Tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo
đức xã hội, tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Trước những lợi ích bất chính
đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã
không giữ được phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng, không phục vụ nhân
dân mà hướng tới các lợi ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công
vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng không chỉ phát sinh ở
trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất
đai… mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra
tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao... Thậm chí, cả những lĩnh
vực lẽ ra không thể có tham nhũng, cả dưới góc độ đạo đức và pháp luật, như lĩnh vực

10



phúc lợi xã hội hay bảo vệ pháp luật. Hành vi tham nhũng xảy ra không ít trong các
chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách; tham nhũng tiền,
hàng hoá cứu trợ xã hội, trong cả xét duyệt công nhận di tích lịch sử, văn hoá, thi đua
khen thưởng. Thậm chí tham nhũng còn xảy ra trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình thường
trong quan niệm của một số cán bộ, công chức. Đó chính là biểu hiện của sự suy thoái,
xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Hơn thế, tham nhũng còn xâm phạm
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, khi người thực hiện hành vi tham
nhũng có khi là giáo viên, bác sĩ, những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế,
văn hoá, xã hội - những người xây dựng đời sống, nền tảng tinh thần cho xã hội.

4 . LỐI SỐNG CỦA GIỚI TRẺ
-( XH ngày nay; giới trẻ ngày nay ( giới trẻ la ai, họ có j và cần j, thực trạng ngày
nay)
- giới trẻ với n trào lưu mới: sống đua đòi; sống sĩ diện và chảnh; sống hưởng
thu, thực dụng; sống buông thả, sống thử; thể hiện cái tôi quá đáng; các trào lưu khác)
- Hướng đi cho giới trẻ: sống co lý tưởng và mục đích; có hành trang; có bản lĩnh
và ý chý
Chúng ta đều biết rằng, Văn hoá luôn là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh
thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại. Dân
tộc nào, xã hội nào cũng có các nhu cầu: ăn, mặc, ở, sáng tạo và hưởng thụ nghệ
thuật…Song thực hiện những điều đó như thế nào, mức độ và cách thức thỏa mãn nhu
cầu đó như thế nào?. Đó chính là đời sống văn hóa, lối sống văn hóa. Trong khi đó bản
sắc văn hóa được thể hiện ngay trong đời sống văn hoá, lối sống văn hoá. Vậy, đời
sống văn hoá, lối sống văn hoá của mỗi con người, cộng đồng người trong các giai
đoạn và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, cho thấy trình độ văn minh, tiến bộ của xã hội, dân
tộc, đất nước.
Đời sống văn hoá, lối sống văn hoá là một bộ phận cấu thành của nền văn hóa

dân tộc. Đời sống văn hóa, lối sống văn hóa có tác động tích cực đối với các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội. Nhận thức được điều này, ngay trong cuộc kháng chiến giải

11


phóng dân tộc, dù phải đặt nhiệm vụ cứu nước, giải phóng dân tộc lên hàng đầu, Đảng
ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên quan tâm đến lĩnh vực văn
hóa. Năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu một định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng khác. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt, cùng với biểu hiện của đó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
Thực trạng đời sống văn hóa, lối sống văn hóa của thanh thiếu niên “Thanh
thiếu niên” là một nhóm xã hội dân cư có tính phức hợp rất cao, hàm chứa trong đó
nhiều sự đa dạng về độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư trú, định hướng giá trị,
lợi ích, tâm linh và các mô hình ứng xử, lựa chọn xã hội v.v... Vì vậy, trong nghiên
cứu về văn hóa và lối sống thanh thiếu niên, cần phải đặc biệt lưu ý đến tính phức hợp
và tính đa dạng cao của nhóm xã hội dân cư. Bộ phận dân cư này có một sức mạnh đối
với sự phát triển nền kinh tế nói chung và việc xây dựng nền văn hoá nói riêng. Với ý
nghĩa nhóm xã hội - dân cư thì thanh thiếu niên cũng có vai trò và ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong đời sống của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia - dân tộc. Hồ Chí Minh
từng nói: “Một năm bắt đầu bằng mùa xuân, cuộc đời bắt đầu bằng tuổi trẻ. Tuổi trẻ là
mùa xuân của dân tộc”. Nhờ sức trẻ, sự năng động nhiệt tình khám phá, thanh thiếu
niên là chủ thể chuyển tải liên tục các giá trị liên thế hệ. Mặt khác, họ lại rất khó xác
lập cho mình những giá trị xác định để có thể tạo nên bản sắc bền vững của nền văn
hoá dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu khám phá những định hướng giá trị, xác định
những yếu tố khách quan, chủ quan của văn hóa và lối sống của bộ phận dân cư

“thanh thiếu niên” này là hết sức khó khăn, chỉ mang tính tương đối.
Văn hóa thanh thiếu niên trước hết phải được coi là một bộ phận không tách rời
của văn hóa dân tộc. Vì vậy, đời sống văn hóa của thanh niên trước hết cũng phản ánh
bản sắc văn hóa của dân tộc với những đặc điểm chung của văn hóa dân tộc. Tuy
nhiên, thanh thiếu niên là bộ phận dân cư có tính đặc thù của cộng đồng quốc gia dân

12


tộc. Vì vậy, nó còn có những đặc trưng (sắc thái) riêng: Thanh thiếu niên là lớp người
trẻ, có sức khỏe, năng động; là nơi các giá trị chưa định hình và đang được kiểm
nghiệm là nơi thể nghiệm những gì họ nhận được từ thế hệ đi trước, tiếp thu được từ
thế giới bên ngoài, những giá trị này cọ xát lẫn nhau để tạo ra những hệ giá trị mới, mô
thức ứng xử mới, với những lựa chọn sống luôn luôn mới.
2.1. Mục đích sống
Vì sao chúng ta lại đề cập đến mục đích sống. Bởi lẽ, đời sống văn hóa, lối sống
văn hóa trước hết phải được thể hiện ở mục đích sống. Ở khía cạnh này, có thể nói
thanh thiếu niên cả nước nói chung phần đông là những người sống có hoài bão và lý
tưởng, ngày càng nhận thức sâu hơn giá trị cuộc sống. Điều này được chứng minh trên
nhiều mặt, cụ thể là: quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề chính trị - xã hội; có mục
đích sống rõ ràng; tham gia tích cực các phong trào xã hội, có nhu cầu giải trí lành
mạnh.
Đã có không ít bài báo, diễn đàn bàn về đời sống văn hóa, lối sống thanh thiếu
niên hiện nay. Một số người thuộc các thế hệ đi trước chê rằng thanh thiếu niên ngày
nay chạy theo vật chất, sống thiếu lý tưởng, hoài bão. Nhưng cũng có ý kiến ngược lại,
“không nên vơ đũa cả nắm”, theo các ý kiến này, quả thật cũng có một số như vậy,
nhưng lại là số ít và rất may họ không phải là tiêu biểu, phần đông thanh niên ngày nay
sống có hoài bão, lý tưởng,
Đối với các vấn đề chính trị - xã hội: Thanh thiếu niên ngày nay quan tâm khá
nhiều đến các vấn đề chính trị - xã hội: hầu hết thanh niên hiện nay đã có những quan

điểm đúng đắn, có thái độ rõ ràng, dứt khoát với những hành vi sai lệch của các thế lực
thù địch. Điều này cho thấy, thái độ, tư tưởng và nhận thức của thanh niên trước những
âm mưu kích động của các thế lực thù địch đã có những bước tiến đáng kể.
Về mục đích sống: Đa phần thanh thiếu niên đều có mục đích sống rõ ràng và họ
luôn có ý thức xây dựng cho mình một nếp sống, giá trị sống có mục đích. Bên cạnh
đó, các giá trị khác của cuộc sống mang những nét đặc trưng của tuổi trẻ cũng rất được

13


thanh niên quan tâm: họ mong muốn thành đạt (thành đạt được hiểu theo nghĩa thanh
niên có cuộc sống ý nghĩa chỉ khi nào tự khẳng định được giá trị, khả năng của chính
mình).
Thanh thiếu niên ngày nay tham gia tích cực các phong trào xã hội, có nhu cầu
giải trí lành mạnh: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, mức sống, mức thu
nhập của đại bộ phận người dân đang ngày càng nâng cao, các nhu cầu giải trí của
thanh thiếu niên hiện nay trong các đô thị lớn ngày càng đa dạng. Ở lĩnh vực này, hầu
hết thanh thiếu niên cũng đã thể hiện được xu hướng tích cực, chủ động trong lựa chọn
các nhu cầu giải trí của mình.
2.2. Cách ứng xử và ăn mặc
Cách ứng xử, cách ăn mặc của thanh thiếu niên cũng là một khía cạnh trong đời
sống VH, lối sống VH. thanh thiếu niên cả nước nói chung, phần đông có ứng xử tốt
trong quan hệ gia đình, cộng đồng, ăn mặc phù hợp với phong cách của người Việt.
- Ứng xử trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt trong quan hệ gia đình và cộng
đồng là một biểu hiện của đời sống văn hóa, lối sống văn hóa. thanh thiếu niên ngày
nay nhận thức được những lối sống văn hóa cần được thể hiện trong cách ứng xử của
mình. Có những hành vi ứng xử tốt không chỉ giúp cho bản thân có những điều kiện
tốt trong quan hệ với gia đình, xã hội hiện tại mà còn có ích cho họ sau này.
- Ăn mặc (trang phục) góp phần tạo nên phong cách và đó cũng là một biểu hiện
của đời sống VH, lối sống VH của con người nói riêng, một cộng đồng XH nói chung.

Ở lĩnh vực này, thanh thiếu niên nói chung hầu hết ăn mặc phù hợp với truyền thống
của người Việt, tất nhiên ở họ cũng có sự cách điệu cho phù hợp với phong cách của
giới trẻ, nhưng không quá lố bịch, kệch cỡm.
2.3. Học tập
Học tập đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng đời sống văn hóa tốt, lối
sống lành mạnh. Những biểu hiện trong học tập cũng là những nét cơ bản trong đời

14


sống văn hóa, lối sống văn hóa. Ở khía cạnh này, hầu hết thanh thiếu niên đã thể hiện
sự năng động, sáng tạo, ham học hỏi. Điều này được minh chứng ở các điểm sau: trình
độ học vấn, mong muốn được đi học, ý chí tự lực tự cường, không cam chịu đói
nghèo, lạc hậu, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống là xu hướng ngày càng được khẳng
định trong lớp trẻ.
2.4. Lao động
Đời sống văn hóa, lối sống văn hóa còn thể hiện qua lao động. Do đó, những biểu
hiện trong lao động cũng là những nét thể hiện đời sống văn hóa, lối sống văn hóa. Ở
khía cạnh này, hầu hết thanh thiếu niên đều rất quan tâm đến các vấn đề: tìm việc làm,
mong muốn có việc làm phù hợp, có thu nhập đảm bảo được cuộc sống của bản thân
và gia đình sau khi ra trường.
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, đời sống VH, lối sống VH của thanh niên
hiện nay cũng đang bộc lộ những vấn đề cần quan tâm (tuy đó chỉ là bộ phận nhỏ
trong thanh thiếu niên):
Trước hết, quan niệm về cuộc sống của một bộ phận thanh thiếu niên còn lệch
lạc, có lối sống thực dụng, không có lý tưởng, coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị tinh
thần. Một bộ phận thanh thiếu niên ăn mặc trời trang phản cảm, có cách ứng xử, lối
sống xa lạ với đạo lý truyền thống và văn hóa dân tộc. Điều này dễ dàng nhận thấy
thông qua cách ăn mặc của giới trẻ trong các thành phố lớn: Nam muốn mặc như con
gái. Nữ lại ăn mặc như con trai. Trình trạng đánh nhau trong giới trẻ 9x ngày càng báo

động và lên án với nhiều trò man dại do chính họ nghĩ ra: cho hội kẹp dao lam vào
giữa các ngón tay mà xông ra tát vào đối tượng; tung clip quay lén các cảnh “ nóng”
lên mạng; tụ tập với nhau sống theo kiểu “bầy đàn”. Thượng tá Nguyễn Văn Thành,
phó trưởng Công an quận Đống Đa (Hà Nội) cho biết: đơn vị từng triệt phá nhiều ổ
nhóm có hàng chục thanh thiếu niên cả nam lẫn nữ sống theo kiểu “quần hôn” trong
các phòng trọ. Sống thử cũng được coi như một trào lưu trong lối sống của bộ phận
thanh thiếu niên, đặc biệt là sinh viên trong những năm gần đây, mà hệ quả của nó
được nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra là hại nhiều hơn lợi. Đây là “biểu hiện đáng lo ngại

15


thứ hai trong đời sống văn hóa của sinh viên”, chỉ xếp sau: “không chịu học hành, xin
điểm, quay cóp”. Đặc biệt thanh niên ngày nay có một số lượng không nhỏ có tư tưởng
mê tín khi gặp những khó khăn, tỷ lệ thanh niên tin vào thần thánh, trời, phật chiếm
khá cao. Nhưng phân tích sâu vào các vấn đề tâm linh, XH cho thấy đây không phải là
lối sống tinh thần, cơ bản mà là do đua đòi, vui chơi, giải trí là chính.
Dưới áp lực của cuộc sống (cha mẹ bận rộn đi kiếm tiền, đi công tác...), giới trẻ
sẽ thiếu vắng sự chăm sóc, quản lý của các bậc phụ huynh, nhu cầu của con cái ít được
qua tâm. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân cách cũng như
lối sống văn hoá cho thanh niên. Như vậy, gia đình có vai trò quan trọng đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người. Nếu nhân cách của con người bao
gồm hai mặt đức và tài, thì gia đình là nơi nuôi dưỡng đạo đức và gieo mầm tài năng.
Do đó hơn ai hết các bậc cha mẹ cần nhận thức đúng trách nhiệm của mình để giữ gìn
hạnh phúc gia đình, xây dựng gia đình văn hóa: no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh
phúc.
Truyền thôn tác động tới giới trẻ, có các tiêu cực và tích cực, 2 mặt của đời sống
( sự phát triển của công nghệ hình thành 1 số lối sống hay tư tưởng lệch lạc; có những
định hướng tốt…)
5 . QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO TÍN NGƯỠNG

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền dân sự và chính trị
cơ bản của con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người và
trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Tự do tín ngưỡng hay tự do tôn giáo thường được coi là một nguyên tắc ủng
hộ quyền tự docủa cá nhân hay cộng đồng trong việc công khai hoặc bí mật thực
hành, thờ phụng, rao giảng, hay tu tập một tôn giáo hay tín ngưỡng. Khái niệm
này thường được thừa nhận là có bao gồm cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự
do không theo một tôn giáo nào. Tại nhiều quốc gia, tự do tín ngưỡng được nhiều
người coi là một quyền cơ bản của con người.

16


Việt Nam là đất nước có truyền thống văn hoá lâu đời và là một nước đa tín
ngưỡng, tôn giáo với khoảng hơn 20 triệu tín đồ theo các tôn giáo khác nhau. Từ
xưa đến nay, các tín ngưỡng, tôn giáo luôn chung sống hoà hợp, gắn bó với dân
tộc. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, các dân tộc đã kề vai, đoàn kết bên
nhau đấu tranh giành độc lập dân tộc, tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Cả 54 dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
đã hình thành một truyền thống tốt đẹp từ ngàn xưa, đó là xây dựng cuộc sống
đan xen, hoà bình, trong đó mỗi dân tộc đều có tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục
tập quán và văn hoá khác nhau góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta hiểu rõ nhu cầu tâm linh của nhân dân Việt Nam bởi lẽ, hầu hết
nhân dân Việt Nam không những có tín ngưỡng truyền thống thờ cúng tổ tiên, thờ các
vị thành hoàng, những vị đã có công xây dựng quê hương, đất nước…mà không ít
người là tín đồ các tôn giáo. Bản tính của người Việt Nam là khoan dung, cởi mở. Do
vậy, dù là tôn giáo nào, tín ngưỡng nào, từ đâu đến thì cộng đồng cũng sẵn sàng chấp
nhận miễn là nó không xâm phạm đến lợi ích quốc gia và đi ngược lại truyền thống
văn hoá dân tộc.
Theo luật quốc tế, tự do tôn giáo nằm trong sự bảo vệ tự do tư tưởng, tín ngưỡng

và tôn giáo. Ba sự tự do này được áp dụng một cách đồng đều đối với các tín ngưỡng
hữu thần, không hữu thần, hay vô thần cũng như các quan điểm bất khả tri và bao hàm
tất cả các tín ngưỡng khác với một cái nhìn siêu việt về vũ trụ và những quy chuẩn xử
sự. Tự do tôn giáo và tín ngưỡng theo đúng nghĩa bao gồm tự do của và tự do về tôn
giáo và tín ngưỡng, có thể được hiểu như quyền chấp nhận hay không chấp nhận bất
cứ những quy tắc hay thái độ tôn giáo nào đó. Tự do về tư tưởng và tín ngưỡng được
bảo vệ theo cách giống như bảo vệ tự do về tôn giáo và niềm tin. Nó bao gồm tự do tư
tưởng về tất cả mọi vấn đề, sự nhận thức cá nhân và sự cam kết đi theo một tôn giáo
hay tín ngưỡng được biểu lộ Tự do đưa ra, thu thập và sử dụng trong chừng mực nhất
định các bài báo hay tài liệu cần thiết liên quan đến các lễ nghi hay tục lệ của một tôn
giáo hay tín ngưỡng;
• Tự do xin và nhận các tài trợ tài chính hay các đóng góp khác từ các cá nhân và
tổ chức;

17


• Tự do truyền giáo, bổ nhiệm, bầu cử hay chỉ định những nhà lãnh đạo kế vị
thích hợp đáp ứng những yêu cầu và tiêu chuẩn của bất cứ tôn giáo hay tín ngưỡng
nào;
• Tự do tiến hành những ngày nghỉ, kỷ niệm những ngày lễ thánh, và những nghi
lễ theo giới luật của tôn giáo hay tín ngưỡng đó;
• Tự do tôn giáo tại nơi làm việc, kể cả quyền được cầu nguyện, ăn mặc và các
chế độ ăn kiêng;
• Tự do tập hợp và nhóm họp để thờ phụng hay tiến hành các nghi lễ;
• Tự do công bố tín ngưỡng của cá nhân;
• Tự do thay đổi hay từ chối đi theo một tôn giáo nào đó;
• Tự do giáo dục tôn giáo, trên cơ sở “đảm bảo lợi ích tốt nhất” cho trẻ em.
- Tự do thực hành tôn giáo tập thể
Các quyền về tôn giáo không chỉ cho phép cá nhân được hưởng những tự do đề

cập trên. Một tôn giáo hay tín ngưỡng có thể được và thường là được thể hiện trong
cộng đồng, vì vậy thường diễn ra ở những nơi công cộng. Điều này cũng ngụ ý sự
cho phép quyền tự do tập hợp, nhóm họp trong cộng đồng các tín đồ tôn giáo.
Tự do của các cơ quan tôn giáo riêng biệt Các cơ quan riêng biệt dựa trên cơ sở
tôn giáo cũng được hưởng đầy đủ sự bảo vệ theo tự do tôn giáo. Các cơ quan này có
thể là những ngôi nhà dùng làm địa điểm thờ phúng, sùng bái; hoặc là các cơ quan
truyền giáo đào tạo về các vấn đề tôn giáo, hoặc thậm chí là các Tổ chức phi chính phủ
Bên cạnh việc chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào các tôn giáo, phải đấu
tranh chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp
cách mạng. Do đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam, trước đây khi xâm lược nước ta,
các thế lực đế quốc đều tìm cách lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị
của chúng. Ngày nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ việc lợi dụng tôn giáo để
chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy trong khi tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng ta chủ trương phải cảnh giác đấu tranh với
những hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Hai nhiệm vụ này có mối
quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết với nhau. Giải quyết đúng đắn và đầy đủ nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo chính đáng của quần chúng là làm cho đồng bào có đạo yên tâm, tin

18


tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào chế độ và sự nghiệp đổi mới đất nước, hiểu rõ
âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn tạo của các thế lực xấu, từ đó nêu cao cảnh giác để họ
"tự giác đấu tranh chống lại chúng, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của
mình, bảo vệ an ninh Tổ quốc". Ngược lại, khi làm tốt công tác đấu tranh chống địch
lợi dụng tôn giáo sẽ tạo môi trường sinh hoạt tôn giáo lành mạnh, không bị địch lợi
dụng để quần chúng yên tâm sinh hoạt tôn giáo.

6. AN NINH VÀ SƯC KHỎE CON NGƯỜI
khái niệm an ninh con người, an ninh con người có hai khía cạnh chính: 1- an

toàn trước các mối đe dọa triền miên như đói khát, bệnh tật và áp bức; 2 - con người
được bảo vệ trước những biến động bất thường và có hại đối với cuộc sống hằng ngày
- bất luận ở trong gia đình, nơi công sở hay ở cộng đồng . Nói cách khác, cần phải tạo
dựng cùng lúc các hệ thống chính trị, xã hội, môi trường, kinh tế, quân sự và văn hóa
để chúng giúp con người đặt nền móng vững chắc cho sự tồn tại, cho cuộc sống bản
thân và bảo vệ nhân phẩm của chính mình. an ninh con người không tách rời hòa bình,
an ninh và phát triển. Nó không chỉ đơn giản là tình trạng không có xung đột bạo lực,
mà còn bao gồm nhân quyền, quản lý nhà nước tốt, cơ hội tiếp cận giáo dục và chăm
sóc sức khỏe và bảo đảm mỗi cá nhân có cơ hội và sự lựa chọn để phát huy được năng
lực của mình.
Theo các tài liệu chính thức của Liên hợp quốc và phù hợp với cách lý giải được
trình bày ở trên, có 7 nhân tố cơ bản cấu thành an ninh con người (3). Mặc dù các quốc
gia chưa hoàn toàn thống nhất quan điểm về an ninh con người, nhưng những nội dung
này hầu như không bị tranh cãi nhiều, ngoại trừ cách thức làm sao để thực hiện việc
bảo đảm an ninh con người dựa trên các tiêu chí đó.
1 - An ninh kinh tế: An ninh kinh tế ở đây được hiểu tương đối hẹp so với khái
niệm an ninh kinh tế trong kinh tế học. Nó không hướng tới việc duy trì hay thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, không nhằm bảo vệ hàng hóa trong nước khỏi sự cạnh tranh của
hàng nước ngoài, cũng không bàn các vấn đề tài chính, thuế quan mà hướng vào việc
bảo đảm mức thu nhập cơ bản của con người. ở tiêu chí này vấn đề việc làm đóng vai

19


trò quan trọng. Dân số thế giới tăng mạnh (4), trong khi đó, sự tiến bộ nhanh chóng của
khoa học - công nghệ đã cho ra đời nhiều ngành sản xuất mới đòi hỏi trình độ và tay
nghề nhân công cao hơn rất nhiều, ví dụ như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
và các ngành công nghiệp dịch vụ khác, mà chỉ có một bộ phận nhỏ lực lượng lao
động có thể đáp ứng các yêu cầu công việc mới. Các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao
động ngày càng thu hẹp khiến cho sức ép cạnh tranh việc làm ngày càng lớn, đe dọa

trực tiếp tới an ninh kinh tế của mỗi cá nhân.
2 - An ninh lương thực: theo định nghĩa của Chương trình lương thực thế giới,
an ninh lương thực là một trạng thái mà không lúc nào con người bị đói - nghĩa là họ
có đủ các chất dinh dưỡng cho một cuộc sống hiệu quả, hoạt bát và khỏe mạnh (5). Tuy
nhiên sẵn có nguồn lương thực chưa phải một điều kiện để bảo đảm an ninh, bởi vì con
người vẫn có thể bị chết đói khi lương thực dồi dào. Trong một thế giới tiến bộ như
ngày nay vẫn còn hơn 800 triệu người bị đói (6). Vấn đề chủ yếu ở chỗ việc phân phối
lương thực kém hiệu quả và con người thiếu khả năng mua hàng (7). Qua đó có thể thấy
ngoài nhân tố ảnh hưởng của thiên tai đối với khả năng sản xuất lương thực, các chính
sách và trình độ quản lý kinh tế của các chính phủ cũng đóng góp một phần không nhỏ
vào việc bảo đảm nguồn cung cấp lương thực cũng như thu nhập cho người dân.
3 - An ninh sức khỏe: Sức khỏe có thể là một trong những nhân tố quan trọng và
trực tiếp nhất của an ninh con người. Một người bị ốm, nhất là bị bệnh nặng luôn có
cảm giác thiếu an toàn. Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta đều coi "sức khỏe là vốn
quý của con người". Ở các nước đang phát triển, mỗi năm có hàng triệu người chết do
các căn bệnh truyền nhiễm và liên quan đến ký sinh trùng. Còn ở các nước phát triển,
các nhân tố gây chết người thường liên quan đến hệ tuần hoàn máu (do lối sống) và
ung thư. Ở cả hai nhóm nước này, mối đe dọa tới sức khỏe con người thường nhiều
hơn trong cộng đồng dân cư nghèo khổ nhất, những người sinh sống ở nông thôn và
nhất là trẻ em và phụ nữ(8). Những năm gần đây nhiều loại bệnh như HIV/AIDS ngày
càng trở nên nguy hiểm

20


4 - An ninh môi trường: Các mối đe dọa từ môi trường đối với con người có thể
chia làm hai loại: do con người tạo ra và do thiên thiên tạo ra. Những mối đe dọa do
con người tạo ra bao gồm ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất đai, sa mạc hóa hoặc nạn
chặt phá rừng; ô nhiễm không khí. Mối đe dọa do thiên nhiên tạo ra bao gồm: bão, lụt,
hạn hán, động đất, sóng thần.

5 - An ninh cá nhân: có lẽ không phải chịu các hành vi bạo lực đối với thân thể
mỗi cá nhân là khía cạnh quan trọng nhất của an ninh con người. Bất luận ở nước giàu
hay nghèo, cuộc sống con người ngày càng bị đe dọa bởi nạn bạo lực khó lường trước.
Có một số hình thức đe dọa sau:
- Đe dọa từ nhà nước (tra tấn, lao động khổ sai)
- Đe dọa từ các quốc gia khác (chiến tranh, xung đột vũ trang giữa các nhóm
xuyên biên giới)
- Đe dọa từ các nhóm người khác (căng thẳng và xung đột sắc tộc)
- Đe dọa từ các cá nhân hoặc băng nhóm chống lại các cá nhân và băng nhóm
khác (tội phạm, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, bạo lực đường phố)
- Đe dọa trực tiếp đối với phụ nữ và trẻ em (bạo lực trong gia đình, lạm dụng trẻ
em)
- Đe dọa đối với bản thân (tự tử, nghiện hút)(12).
Tuy nhiên, tùy điều kiện của mỗi quốc gia mà các hình thức đe dọa tới an ninh cá
nhân sẽ khác nhau(13).
6 - An ninh cộng đồng: hầu hết con người gắn vấn đề bảo vệ an ninh của mình
vào trong một nhóm người nhất định, chẳng hạn như một gia đình, một cộng đồng dân
cư, một tổ chức hay một nhóm sắc tộc (14). Nói rộng hơn, an ninh của một người cũng
có thể được bảo đảm khi người đó sống ở trong một quốc gia nhất định, bao gồm
nhiều cộng đồng khác nhau hợp thành. Đương nhiên một cộng đồng thường có khả

21


năng tập hợp lực lượng mạnh hơn để chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài. Nếu một
nhóm hay một cộng đồng nào đó được an toàn, thì khả năng mỗi thành viên trong cộng
đồng cũng được an toàn là rất cao
7 - An ninh chính trị: đối với nhân tố này trong khái niệm an ninh con người,
Liên hợp quốc gắn nó với việc "xã hội tôn trọng các quyền cơ bản của con người" (15).
Theo nghĩa này, an ninh chính trị được mở rộng rất nhiều bởi lẽ bản thân quyền con

người đã bao hàm cả quyền chính trị. Điều này đồng nghĩa với việc vi phạm nhân
quyền là đe dọa tới an ninh chính trị. Tuy nhiên, ở khía cạnh này, bảo đảm an ninh
chính trị còn tập trung vào việc làm sao để con người không phải chịu sự đàn áp,
ngược đãi của các lực lượng thuộc quyền lực nhà nước, đặc biệt là công an và quân
đội. Thậm chí tỉ lệ ngân sách quốc phòng so với chi phí cho giáo dục, chăm sóc sức
khỏe và các dịch vụ xã hội khác cũng được coi là một tiêu chí để đánh giá mức độ an
ninh chính trị(16).
Các mối đe dọa toàn cầu đối với an ninh con người
Có thể chia mối đe dọa đối với an ninh con người theo 2 loại: Thứ nhất là các
mối đe dọa ở cấp quốc gia, tức là chúng thường chỉ có tác động trong phạm vi biên
giới quốc gia; thứ hai là các mối đe dọa toàn cầu, tức là chúng phổ biến và có tác động
trên phạm vi rộng, xuyên quốc gia, ảnh hưởng tới nhiều cộng đồng khác nhau. Các
mối đe dọa tới an ninh con người thuộc loại thứ nhất đã được đề cập nhiều trong các
phân tích ở phía trên, vì vậy ở đây chúng tôi chỉ tập trung phân tích các mối đe dọa
thuộc loại thứ 2 - các mối đe dọa toàn cầu, bao gồm 7 mối đe dọa cơ bản nhất như sau:
1 - Sự gia tăng dân số không được kiểm soát:
2 - Bất bình đẳng về cơ hội kinh tế
3 - Áp lực về di dân
4 - Xuống cấp về môi trường

22


5 - Buôn lậu ma túy:
6 - Khủng bố quốc tế
7 - Phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD):
Biện pháp bảo vệ an ninh con người trong điều kiện hiện nay
Bản thân vấn đề "an ninh con người" là rất phức tạp nên việc bảo đảm an ninh
con người lại càng không đơn giản. Tùy thuộc vào cách nhìn nhận vấn đề này của từng
quốc gia, từng cộng đồng, hay rộng hơn cả là các tổ chức mang tầm vóc thế giới mà

chính sách và biện pháp bảo đảm an ninh con người khác nhau. Mỗi nước có thể có
con đường, cách đi của riêng mình. Dù vậy, thế giới mà trong đó sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng lên đòi hỏi phải có cách tiếp cận và giải pháp ở
cấp độ quốc tế. Các biện pháp toàn cầu thường có tác động sâu sắc và lâu dài đối với
các cộng đồng dân cư và để thực hiện được các biện pháp đó đòi hỏi phải có sự quyết
tâm, trách nhiệm cao, sự hợp tác, phối hợp của tất cả các quốc gia, các cộng đồng trên
toàn thế giới. Có thể khái quát những biện pháp bảo vệ an ninh con người trên phạm vi
toàn cầu như sau:
- Phát triển có tính bền vững, bao gồm kiểm soát tăng dân số tự nhiên và bảo vệ
môi trường; tạo cơ hội công bằng (phân phối tốt hơn các tư liệu sản xuất như đất đai
và vay tín dụng; tiếp cận các cơ hội thị trường; tạo việc làm; hệ thống an sinh xã hội);
công bằng toàn cầu thông qua việc "tái cơ cấu căn bản" thu nhập của thế giới, tiêu
dùng và lối sống.
- Quân sự: giảm chi phí mua sắm vũ khí; đóng cửa tất cả các căn cứ quân sự;
chuyển đổi viện trợ quân sự thành viện trợ kinh tế; chấm dứt chuyển giao vũ khí; xóa
bỏ trợ cấp xuất khẩu vũ khí; đào tạo lại công nhân trong các ngành công nghiệp quốc
phòng; hợp tác chống phổ biến WMD và tiến tới loại trừ hoàn toàn WMD.
- Tái cơ cấu Bắc - Nam: tiếp cận thị trường thế giới một cách công bằng cho các
nước nghèo bằng cách dỡ bỏ các rào cản thương mại (đặc biệt trong dệt may và nông

23


nghiệp); bồi thường tài chính từ các nước giàu để đổi lấy việc hạn chế di dân và sử
dụng quá mức các nguồn tài nguyên môi trường của thế giới; tạo một cơ chế thanh
toán toàn cầu cho các dịch vụ khác nhau (ví dụ dịch vụ môi trường, kiểm soát ma túy
và dịch bệnh) hay các "thiệt hại" trong trường hợp bị tổn thương về kinh tế cũng như
các hành vi kinh tế không lành mạnh (ví dụ việc khuyến khích chảy máu chất xám,
hạn chế nhập cư lao động tay nghề thấp, hạn chế xuất khẩu).
- Thể chế: khôi phục và cơ cấu lại IMF, WB và UN để tập trung hơn vào phát

triển con người; điều chỉnh kinh tế nhằm vào người giàu chứ không phải người nghèo;
xây dựng các mô hình quản trị mới ở mọi nơi để tạo thêm quyền lực cho người nghèo.
- Dân chủ hóa đời sống xã hội: khuyến khích phát triển các thể chế dân chủ trong
từng quốc gia, tạo các điều kiện cho người dân được bảo đảm các quyền tự do, dân
chủ, quyền con người, có các điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển toàn diện.
Chia sẻ nhiều điểm trong các biện pháp trên, ủy ban An ninh con người của Liên
hợp quốc đã khuyến nghị nhiệm vụ bảo đảm an ninh con người trên tất cả các lĩnh vực
nên bắt đầu bằng việc giải quyết các vấn đề cơ bản nhất, tập trung vào 10 nhóm chính:
- Bảo vệ con người trong các cuộc xung đột bạo lực;
- Bảo vệ con người khỏi việc phổ biến vũ khí;
- Trợ giúp về an ninh cho những người đang trên đường di rời khỏi quê hương;
- Thành lập các quỹ tạm thời về an ninh con người trong các tình huống hậu xung
đột;
- Khuyến khích giao thương công bằng và tiếp cận thị trường đem lại nguồn lợi
cho những người nghèo khổ;
- Bảo đảm mức sống tối thiểu cho con người ở khắp mọi nơi;
- Chú ý ưu tiên tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản và đồng đều;

24


- Phát triển một hệ thống các quyền phát minh sáng chế có hiệu quả và công
bằng;
- Bảo đảm quyền con người bằng hệ thống giáo dục phổ cập thông qua các nỗ lực
toàn cầu cũng như của từng nước;
- Bảo vệ sự cần thiết của những chuẩn mực chung toàn cầu về con người, nhưng
đồng thời phải tôn trọng tự do lựa chọn của các cá nhân, các dân tộc để duy trì sự đa
dạng bản sắc(21).
Như vậy ở cấp độ quốc tế, các chủ trương và biện pháp vĩ mô để đảm bảo an
ninh con người trong điều kiện hiện nay đã được tuyên bố rất rõ ràng. Vấn đề còn lại

là làm sao các tổ chức quốc tế có thể phối hợp với từng quốc gia để thực hiện. Và quan
trọng hơn cả là mỗi nước phải tự nỗ lực và xây dựng chương trình riêng, phù hợp với
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của mình để đưa an ninh con người
thành một ưu tiên.

7. QUYỀN DÂN CHỦ
DÂN CHỦ LÀ GÌ?
Dân chủ – theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhân dân” – về cơ bản được định nghĩa
là một hình thức chính phủ trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Dân chủ có
thể do người dân trực tiếp thực thi. Ở các xã hội lớn hơn, dân chủ được thực thi bởi
các quan chức do nhân dân bầu ra. Hay theo như câu nói nổi tiếng của Tổng thống
Abraham Lincoln, dân chủ là chính phủ “của nhân dân, do dân và vì dân”.
Tự do và dân chủ thường được dùng thay thế cho nhau. Thực ra hai khái niệm
này không đồng nghĩa. Dân chủ không chỉ là một loạt ý tưởng và các nguyên tắc về tự
do, mà còn bao hàm cả những thực tiễn và các tiến trình đã được hình thành trong suốt
chiều dài lịch sử vốn phức tạp. Dân chủ là sự thể chế hóa tự do.

25


×