Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Thơ Lò Cao Nhum (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HỒNG CHUNG

THƠ LÒ CAO NHUM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HỒNG CHUNG

THƠ LÒ CAO NHUM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ HỒNG MY

THÁI NGUYÊN - 2015


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và chưa
từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Thái Nguyên ngày

tháng năm 2015

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Chung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
i




MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
MỤC LỤC ........................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ ...............................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
6. Dự kiến đóng góp của luận văn ....................................................................... 6
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 7
NỘI DUNG .......................................................................................................... 8
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THƠ DÂN TỘC THÁI VIỆT NAM
THỜI KỲ HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ LÒ CAO NHUM ..................... 8
1.1. Khái quát về thơ dân tộc Thái Việt Nam thời kỳ hiện đại ........................... 8
1.2. Giới thiệu về nhà thơ Lò Cao Nhum .......................................................... 12
1.2.1. Quê hương và gia đình nhà thơ ............................................................... 12
1.2.2. Con người ................................................................................................ 14
1.2. Giới thiệu về hành trình thơ Lò Cao Nhum................................................ 15
Chương 2. CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH
TRONG THƠ LÒ CAO NHUM .......................................................... 18
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Lò Cao Nhum .............................................. 18
2.1.1. Khái niệm cảm hứng chủ đạo .................................................................. 18
2.1.2. Cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương đất nước ........................................ 19
2.1.3. Tự hào về con người miền núi ................................................................. 27
2.1.4. Ngợi ca, tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc Thái và đồng
bào miền núi Tây Bắc .............................................................................. 38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
ii




2.2. Nhân vật trữ tình ......................................................................................... 49
2.2.1. Khái niệm nhân vật trữ tình ..................................................................... 49
2.2.2. Nhân vật trữ tình mạnh mẽ, phóng khoáng ............................................. 50

2.2.3. Nhân vật trữ tình suy tư, hoài niệm ......................................................... 54
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ LÒ CAO NHUM ............... 66
3.1. Thơ Lò Cao Nhum giàu biểu tượng ........................................................... 66
3.2. Thể thơ tự do chiếm ưu thế......................................................................... 79
3.3. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ của đồng bào miền núi ........................... 84
KẾT LUẬN....................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 93

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
iii




DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng:
Bảng 3.1. Tổng hợp các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Lò
Cao Nhum........................................................................................ 67
Bảng 3.2. Thống kê thể thơ sử dụng trong các tập thơ của Lò Cao Nhum .......... 79
Bảng 3.3. Thống kê thể thơ sử dụng trong tập thơ Rượu núi .......................... 80
Biểu đồ:
Biểu đồ 3.1. Số lần sử dụng các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong
thơ Lò Cao Nhum ........................................................................ 67
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ ............................................................ 79
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ sử dụng các thể thơ trong tập thơ Rượu núi ....................... 80

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
iii





MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, văn học viết dân tộc
thiểu số Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực và đạt được những
thành tựu đáng khích lệ. Ngày càng nhiều tác giả người dân tộc thiểu số có tác
phẩm hay được bạn đọc đón nhận, chất lượng tác phẩm ngày một ổn định hơn.
Các thể loại văn học đạt được thành tựu là truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ…
Nằm trong dòng chảy thơ dân tộc thiểu số nói chung, thơ dân tộc Thái
không ngừng phát triển; nhiều tác giả, tác phẩm đã được “ghi danh” trong nền
thơ Việt Nam hiện đại: Cầm Biêu với Ngọn lửa không tắt (2001); Vương
Trung với Sóng Nậm Rốm (1979); Lò Cao Nhum với Soi gương núi (1997),
Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn (2001), Gốc trời (2009), Rượu núi
(2010)… Trong đó, Lò Cao Nhum là một trong số những tác giả tiêu biểu.
Là một cây bút thơ dân tộc Thái, Lò Cao Nhum đem đến cho bạn đọc
những bài thơ mang dấu ấn riêng. Thơ ông mang phong vị vùng núi Tây Bắc,
đặc biệt là phong vị đồng bào dân tộc Thái. Đó là những vẻ đẹp hùng vĩ và thơ
mộng của núi rừng Tây Bắc, là vẻ đẹp văn hóa Thái gắn liền với những lễ hội ở
Bản Lác, Mai Châu nơi ông sống; đó là những cảm nhận của một tâm hồn thiết
tha với văn hóa quê hương trong thời kỳ đổi mới, là những trải nghiệm của tác
giả trên mọi miền của Tổ quóc thân yêu...Đến với thơ Lò Cao Nhum, người đọc
cảm nhận được nhiều điều thú vị, hấp dẫn, sâu sắc về quê hương, đất nước; về
truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Thái; về vẻ đẹp
tâm hồn nhà thơ.
Là một giáo viên môn Ngữ văn đang giảng dạy ở Hòa Bình, nơi nhà thơ
Lò Cao Nhum đang sống và sáng tác, tác giả luận văn mong muốn qua đề tài
nghiên cứu góp phần giới thiệu thơ Lò Cao Nhum và cuộc sống, văn hóa của
đồng bào dân tộc Thái và đồng bào miền núi cao Tây Bắc với công chúng độc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1




giả. Đồng thời, chọn đề tài nghiên cứu cụ thể một tác giả văn học dân tộc thiểu
số địa phương, luận văn còn hướng tới mục đích giúp cho việc giảng dạy văn
học địa phương ở Hòa Bình có hiệu quả hơn; mang đến cho các em học sinh
tình cảm gắn bó, tự hào về quê hương.
2. Lịch sử vấn đề
Lò Cao Nhum bắt đầu sáng tác thơ từ những năm bảy mươi của thế kỷ hai
mươi. Ông có thơ đăng báo đầu tiên là chùm thơ ba bài trên Tạp chí Văn nghệ
Hà Sơn Bình, số tháng 8 năm 1980 (Những tâm tư gặp mưa; Một sớm mùa
gặt; Em về Piềng Lướng). Ngay sau khi ra mắt, chùm thơ đầu tay này đã tạo
được sự chú ý với bạn đọc. Cũng trên tạp chí Văn nghệ Hà Sơn Bình, số tháng
9 năm 1980, tác giả Vũ Tuấn Anh (Viện Văn học Việt Nam) đã có bài viết giới
thiệu về hai chùm thơ của hai tác giả trẻ Lò Cao Nhum và Đinh Nam Khương
(Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam). Khi đó, Lò Cao Nhum là một nhà thơ trẻ,
mới bước chân vào “làng” văn nghệ. Bài giới thiệu của Vũ Tuấn Anh về chùm
thơ ba bài của Lò Cao Nhum đã có ý nghĩa động viên rất lớn đối với nhà thơ
dân tộc Thái đến từ Hòa Bình này.
Năm 1996, nhà thơ Lò Cao Nhum in tập thơ Rượu núi. Sau đó một năm,
năm 1997, trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam số tháng 4, nhà thơ
Nguyễn Đức Mậu đã có bài viết giới thiệu về bài thơ Rượu núi, khẳng định sự
độc đáo “cả về ý lẫn tình” của bài thơ: “Toàn bộ bài thơ Rượu núi được viết
bằng bút pháp giản dị, giàu chất dân tộc. Phải chăng Rượu núi là thứ rượu
chan chứa tình đời, tình người, và chính những câu thơ hay trong bài cũng là
men rượu chắt ra từ cuộc sống? Trong cuộc thi truyện ngắn và thơ năm 1996

do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức, bài thơ Rượu núi đã giành được vị trí
xứng đáng trong số các giải thưởng, thực sự là một đóng góp độc đáo cả về ý
lẫn tình” [dẫn theo 25]. Đến nay Rượu núi vẫn là một trong những bài thơ hay
nhất của Lò Cao Nhum. Bằng “con mắt xanh”, Nguyễn Đức Mậu đã giúp cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2




sắc màu, hương vị của bài thơ Rượu núi lan toả đến bạn đọc, bắc chiếc cầu nối
đưa Rượu núi của Lò cao Nhum đến với người yêu thơ.
Năm 2000, ngay sau khi Lò Cao Nhum in tập thơ Sàn trăng, nhà thơ
Trần Quốc Thực đã viết bài giới thiệu tập thơ Sàn Trăng với nhan đề: Lò Cao
Nhum trên Sàn trăng in trên báo Văn nghệ dân tộc miền núi của Hội nhà văn
Việt Nam. Nhà thơ Trần Quốc Thực đã cảm nhận được sự gắn bó của Lò Cao
Nhum với quê hương miền núi và đặc điểm ngòi bút Lò Cao Nhum trong cách
diễn đạt, thể hiện cảm xúc: “Muốn tìm gặp Sàn trăng của Lò Cao Nhum, dứt
khoát phải đi qua vùng Rẻo cao Pù Bin rồi. Gian khổ là cái chắc. Ở đấy có sấm
rền bất chợt, có gió lành gió độc, có mưa như khóc, có củi ướt khói bay đỏ mắt, có
cái nết lầm lỳ của người miền núi và cái tình Pù Bin bền như củi lửa bốn mùa...
Rõ ràng ngay từ đầu, Lò Cao Nhum đã không hề có ý định thi vị hóa con người và
cảnh vật quê hương mình. Cái nếp ngay thẳng của người miền núi đã tạo cho anh
có cách cảm xúc và diễn đạt khúc triết, có độ nén riêng trong thơ” [31].
Năm 2011, trong cuốn Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện
đại - Một số đặc điểm, Lò Cao Nhum được nhắc đến với các tập thơ: Giọt sao
trở về (1995), Rượu núi (1996), Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn
(2001), Lò Cao Nhum được xếp vào hàng các nhà thơ trẻ sau năm 1975 đến
nay với nét “trẻ trung, sôi nổi, hồn nhiên và giàu sức sáng tạo” [34]. Trong

công trình nghiên cứu này, Lò Cao Nhum mặc dù chưa được giới thiệu như
một tác giả tiêu biểu, song thơ ông được nhìn nhận dưới góc độ phê bình văn
học với những nhận xét thỏa đáng. Điều đó đã giúp cho quá trình nghiên cứu
thơ Lò Cao Nhum có điểm tựa chắc chắn.
Ngoài những bài viết về thơ Lò Cao Nhum kể trên, chúng tôi còn tham
khảo những bài viết về thơ Lò Cao Nhum đăng tải trên website. Tác giả Đỗ
Thu Huyền (Viện Văn học) với bài viết Lò Cao Nhum tình bền củi lửa đã có
cái nhìn khái quát về 7 tập thơ của Lò Cao Nhum: “Qua 7 tập thơ (Giọt sao trở
về (1995), Rượu núi (1996), Soi gương núi (1997), Sàn trăng (2000), Theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

3




lời hát về nguồn (2001), Gốc trời (2009), Rượu núi - thơ chọn lọc, (2010)
người đọc tưởng như khó nắm bắt ngay phong cách thơ Lò Cao Nhum nhưng
chính qua sự thoạt tiên rời rạc, pha tạp ấy chúng ta tìm được sự nhất quán, đấy
là mạch cảm xúc của một con người lúc nào cũng khát khao khám phá và
chiêm nghiệm” [12]. Bài viết của Đỗ Thu Huyền tập trung khám phá phong
cách thơ Lò Cao Nhum. Tác giả đã nhận thấy từ thơ Lò Cao Nhum cốt cách của
một con người “nâng niu, trân trọng” văn hoá Thái “trong từng câu chữ, hình
ảnh và giọng điệu” [12].
Nhà thơ Bùi Việt Phương trên website Văn học quê nhà có bài viết Nét
mới trong thơ Lò Cao Nhum. Tác giả bài viết đã khẳng định hồn thơ của Lò
Cao Nhum: “Cái tên Lò Cao Nhum bấy lâu nay đã bị “đóng đinh” vào Rượu
núi, bởi rượu núi hay bằng rượu núi?... Không phải vì rượu núi đã cạn vì tiếp
sau tiếng vang đó anh vẫn có Nóc nhà ta có hoa khau cút, Sàn trăng, Lời
tháng giêng… mà bởi trong thơ của chàng thi sĩ Thái đã xuất hiện những

hướng nghĩ khác, những suy tư cật vấn” [26]. Bùi Việt Phương đã nhận thấy,
sau Rượu núi, Lò Cao Nhum đã có những bài thơ đặc sắc khác, với những
hướng suy tư “cật vấn” hơn.
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum tác giả luận văn nhận thấy,
các ý kiến viết về thơ Lò Cao Nhum nhìn chung thống nhất, nhiều bài có những
điểm chung trong nhận xét. Các bài viết nói trên đã khẳng định những ‘nét
riêng” trong thơ Lò Cao Nhum: thơ ông mang cốt cách của một con người yêu
dân tộc mình tha thiết với những tin tưởng, lạc quan; hồn thơ gắn bó tha thiết
với quê hương miền núi với những khao khát khám phá, chiêm nghiệm; bút
pháp thơ giản dị, diễn đạt khúc triết, có độ nén trong thơ.
Tuy nhiên, các bài viết về thơ Lò Cao Nhum chủ yếu nhằm giới thiệu khái
quát về thơ ông; hoặc cảm nhận, phê bình về một số bài thơ cụ thể. Cho đến
nay, chưa có một công trình chuyên sâu nào nghiên cứu toàn bộ sáng tác của
nhà thơ Lò Cao Nhum.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

4




Hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu về thơ Lò Cao Nhum sẽ tiếp tục được
mở rộng, đi sâu trong công trình nghiên cứu này; từ đó có được bức chân dung
hoàn chỉnh hơn về một nhà thơ dân tộc Thái trong diện mạo thơ dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu đặc điểm thơ Lò Cao Nhum; đánh giá đóng góp của nhà thơ
đối với sự phát triển của thơ dân tộc Thái nói riêng và thơ ca dân tộc thiểu số nói

chung; làm tài liệu giảng dạy văn học địa phương tại các trường trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình; vận dụng vào nghiên cứu, phát triển văn hoá, văn học địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về nhà thơ Lò Cao Nhum và những yếu tố ảnh hưởng đến
sáng tác thơ của ông.
- Làm rõ đặc điểm cơ bản về nội dung, nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum.
- Kết luận, đánh giá về những đóng góp của nhà thơ Lò Cao Nhum trong
sự phát triển của thơ dân tộc Thái hiện đại, khẳng định được vị trí của nhà thơ
trong nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
- Đề xuất việc vận dụng kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các tập thơ in chung và
riêng của nhà thơ Lò Cao Nhum; cụ thể là bảy tập thơ sau:
1. Giọt sao trở về, Thơ, Hội VHNT Hòa Bình, 1995.
2. Rượu núi, Thơ, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 1996.
3. Mùa hoa chuông, Thơ in chung 3 tác giả, Sở VHTT Hòa Bình, 1997.
4. Sàn trăng, Thơ, Hội VHNT Hòa Bình, 2000.
5. Theo lời hát về nguồn, Thơ, Hội VHNT Hòa Bình, 2001.
6. Gốc trời, Thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2009.
7. Rượu núi, Thơ chọn, Nhà xuất bản Văn học, 2010.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

5




Trong quá trình triển khai làm luận văn, tác giả mở rộng phạm vi nghiên
cứu đến các thể loại khác của Lò Cao Nhum (ký, dịch) và so sánh, đối chiếu
với tác phẩm của một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cơ bản như sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum; lý giải
những tác động của hoàn cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa dân tộc, thiên nhiên,
cuộc sống, con người tới khát vọng sáng tạo của nhà thơ.
5.2. Phương pháp khảo sát, thống kê
Luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát, thống kê làm căn cứ để
phân tích, đánh giá các nội dung nghiên cứu, giúp cho việc triển khai các luận
điểm, luận cứ được sáng tỏ.
5.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp này được sử dụng để phân tích đặc điểm nội dung và nghệ
thuật thơ Lò Cao Nhum; từ đó, tổng hợp, khái quát những đóng góp của Lò Cao
Nhum đối với văn học địa phương Hòa Bình - Tây Bắc nói riêng và văn học dân
tộc thiểu số nói chung.
5.4. Phương pháp so sánh
Cùng với việc phân tích những nét mới trong nội dung và nghệ thuật
trong thơ Lò Cao Nhum, tác giả luận văn tiến hành so sánh, đối chiếu với một
số tác phẩm của một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác nhằm khẳng định vị trí,
tìm ra nét chung và nét riêng trong thơ Lò Cao Nhum so với các cây bút dân tộc
thiểu số khác, nhất là đối với các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu thơ Lò Cao Nhum;
lý giải những tác động của hoàn cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa dân tộc, thiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

6





nhiên, cuộc sống, con người tới khát vọng sáng tạo của nhà thơ; phân tích
những đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum; góp phần khẳng
định vị trí và những đóng góp của Lò Cao Nhum trong sự phát triển của thơ ca
dân tộc thiểu số hiện đại.
Đề tài nghiên cứu về thơ Lò Cao Nhum đóng góp thêm cho việc nghiên
cứu thơ dân tộc Thái và nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa khích lệ, thúc đẩy sáng tác của các tác giả là
người dân tộc thiểu số của tỉnh Hòa Bình nói riêng và vùng núi cao Tây Bắc
nói chung.
Từ năm học 2008 - 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số
5977/BGD&ĐT-GDTrH ngày 07/7/2008, về việc hướng dẫn thực hiện nội
dung giáo dục địa phương ở cấp THCS và cấp THPT; Năm học 2015 - 2016,
Sở GD&ĐT Hòa Bình có công văn số 1649/SGD&ĐT-TrH ngày 10/9/1015 về
việc hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục địa phương cấp THCS, THPT (Phụ
lục 1). Cả hai văn bản nói trên đều thống nhất hướng dẫn thực hiện nội dung
giáo dục địa phương đối với các nhà trường là “cần tham khảo các tài liệu về
văn hoá, ngôn ngữ, tác phẩm văn học sáng tác về đề tài địa phương hoặc tác
giả người địa phương”. Như vậy, luận văn Thơ Lò Cao Nhum sẽ cung cấp
thêm một tư liệu khoa học đáng tin cậy; góp phần làm phong phú thêm tài liệu
nghiên cứu, giảng dạy, học tập văn học địa phương trong các nhà trường ở tỉnh
Hòa Bình.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có ba phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận. Phần Nội dung
được triển khai theo ba chương:
Chương 1: Khái quát về thơ dân tộc Thái Việt Nam thời kỳ hiện đại và
nhà thơ Lò Cao Nhum.
Chương 2: Cảm hứng chủ đạo và nhân vật trữ tình trong thơ Lò Cao Nhum.
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật thơ Lò Cao Nhum.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

7




NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THƠ DÂN TỘC THÁI VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
VÀ NHÀ THƠ LÒ CAO NHUM

1.1. Khái quát về thơ dân tộc Thái Việt Nam thời kỳ hiện đại
Hòa chung sự phát triển của nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời
kỳ hiện đại, văn học dân tộc Thái ngày một phát triển và có được nhiều thành
công. Trong đó, thơ là một trong những thể loại kết tinh được nhiều thành tựu
nhất, thể hiện ở sự phát triển của lực lượng sáng tác, chất lượng tác phẩm, nội
dung phản ánh và hình thức nghệ thuật.
Từ trước năm 1945, thơ ca dân tộc Thái chủ yếu là các tác phẩm văn học
dân gian như truyện thơ Xống chụ xon xao, Khun lú - Nàng ủa, Tản chụ xiết
sương… Tác phẩm được cho là đóng vai trò là bước chuyển tiếp giữa thơ ca
dân gian và thơ dân tộc Thái hiện đại là Lời hát nền Văn Hoan của nghệ nhân
Ngần Văn Hoan: “Lời hát nền Văn Hoan đã đóng vai trò là bước chuyển tiếp
giữa thơ ca dân gian và thơ ca dân tộc Thái hiện đại, chuẩn bị những tiền đề
quan trọng để hình thành và phát triển thơ ca dân tộc Thái hiện đại nói riêng
và thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại Việt Nam nói chung” [dẫn theo 32, tr.60].
Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm, văn học dân tộc thiểu số không ngừng phát triển và nhanh chóng
khẳng định vị thế của mình. Thơ ca dân tộc Thái hiện đại cũng giữ một vai trò

quan trọng trong sự phát triển thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại nói chung.
Đội ngũ các nhà thơ dân tộc Thái phát triển nhanh, số lượng tác phẩm ngày
một phong phú, nhiều cây bút đã đạt được những thành công đáng ghi nhận. Ban
đầu, bạn đọc chỉ mới biết đến một số tên tuổi như Cầm Biêu, Lương Quy Nhân,
Hoàng Nó. Thế hệ các nhà thơ trưởng thành sau đó gồm có Vương Trung, Lò Văn
Cậy, La Quán Miên… Sau năm 1975 có thêm nhiều tác giả trẻ sớm khẳng định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

8




được tên tuổi như Lò Vũ Vân, Lò Cao Nhum, Cầm Bá Lai, Cà Thị Hoàn, Lò
Ngọc Duyên… Cho đến nay, đội ngũ các nhà thơ dân tộc Thái hiện đại ngày một
trưởng thành; sáng tác ngày càng phong phú, đa dạng và hấp dẫn.
Cầm Biêu, Lương Quy Nhân, Hoàng Nó… là lớp các nhà thơ dân tộc
Thái thuộc thế hệ đầu tiên. Họ đều sinh vào những năm hai mươi của thế kỷ
XX: Cầm Biêu (1920 - 1998), Lương Quy Nhân (1926 - 1996), Hoàng Nó (sinh
năm 1925); đều bắt đầu sáng tác từ sau Cách mạng tháng Tám. Người cho ra
mắt tập thơ đầu tay sớm nhất là Lương Quy Nhân với tập Cán bộ với dân
mường (1947). Người có số lượng sáng tác nhiều nhất là Cầm Biêu với 09 tác
phẩm (Thơ ca Hạn Khuống (1957), Hạn Khuống (1992), Cầu văn bản
(1982), Ánh hồng Điện Biên (1984), Thơ cưới xin và lên nhà mới (1992),
Bản Mường nhớ ơn (1994), Ngọn lửa không tắt - Peo Phầy mì mọt
(1995)…). Nhà thơ Hoàng Nó từ khi cầm bút cho đến năm 1993 đã xuất bản 05
tác phẩm (Diễn ca khu tự trị (1954), Lòng dân miền núi (1957), Chị công
nhân cầu đường (1957), Tiếng hát mường hoa lan (1987), Vượt sông Đà
(1993). Lớp nhà thơ này là những người đầu tiên vượt mọi khó khăn mở ra con
đường đưa thơ dân tộc Thái đến với đến với thơ hiện đại Việt Nam.

Lớp các nhà thơ trưởng thành sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1954) cũng đã đem đến cho thơ dân tộc Thái nhiều thành công. Nhà thơ
Vương Trung (1938 - 2012) ngoài viết tiểu thuyết, dịch thơ cổ, nghiên cứu sử
thi, đã sáng tác các tập thơ: Ing-Éng (thơ tiếng dân tộc và dịch tiếng phổ thông,
1967); Sóng Nậm Rốm (thơ, 1979). Nhà thơ Lò Văn Cậy (sinh năm 1928)
được bạn đọc biết đến với tác phẩm thơ Hạt muối hạt tình (1986). Thời gian
này, các nhà thơ lớp trước vẫn tiếp tục sáng tác. Lương Quy Nhân (sinh năm
1926) đã xuất bản khá nhiều tác phẩm như Cán bộ với dân Mường (tập thơ
chữ Thái, khu tự trị Thái - Mèo xuất bản 1947), Hoa đang nở (tập thơ chữ Thái
cho thiếu nhi, khu tự trị Tây Bắc xuất bản 1961), Thơ Lương Qui Nhân (tuyển
thơ, Khu tự trị Tây Bắc xuất bản 1960), Biên giới lòng người (Nhà xuất bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

9




Văn hóa Dân tộc, Hà Nội), Hoa trời (Hội Văn nghệ Lai Châu xuất bản 1987),
Độ dày của tình yêu (thơ song ngữ, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc Hà Nội
1994). Sự tiếp nối và kế tục giữa các lớp nhà thơ đã góp phần khẳng định sự
trưởng thành của thơ dân tộc Thái.
Đặc biệt, sau năm 1975 xuất hiện thêm nhiều nhà thơ trẻ, có nhiều tác
phẩm xuất sắc. Tiêu biểu có Lò Vũ Vân (sinh năm 1943) với Lời cây sáo ôi
(2001), Vòng xòe và sao xa; Cầm Bá Lai (1950 - 1988) có tập Hoa và nắng;
Lò Cao Nhum với 7 tập thơ Giọt sao trở về (1995), Rượu núi (1996), Soi
gương núi (1997), Sàn trăng (2000), Theo lời hát về nguồn (2001), Gốc trời
(2009), Rượu núi - thơ chọn lọc (2010).
Các nhà thơ dân tộc Thái dù có những điểm khác nhau về thời đại, vùng
miền, nghề nghiệp, học vấn… nhưng cội nguồn và văn hóa dân tộc đã bồi đắp

nên những hồn thơ dung dị, giàu lòng nhân ái, yêu thiên nhiên, quê hương làng
bản, yêu văn hóa dân tộc mình.
Nguồn cảm hứng vô tận tạo nên hồn thơ Thái đặc sắc là thiên nhiên
hùng vĩ, nên thơ; những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc; những
con người chất phác hồn hậu giàu tình cảm, đặc biệt là người con gái Thái
khỏe mạnh, đảm đang, xinh đẹp, khéo léo, dịu dàng.
Một trong những đặc trưng dễ nhận thấy trong thơ của các nhà thơ dân tộc
Thái là ở sự gắn bó, yêu mến đến đắm say thiên nhiên hùng vĩ, nên thơ của quê
hương. Đến với thơ ca dân tộc Thái ta có thể bắt gặp những đỉnh núi cao hùng vĩ,
những cánh đồng cỏ xanh mướt nối tiếp nhau đến tận chân trời, những con gió
quen thuộc nhiều vẻ nhưng thân thương gần gũi trong thơ Lương Quy Nhân:
“Gió về đây, gió ơi!
Mong gió hãy về mát mẻ
Gió giong đường thuyền, gió ruổi đường xe
Gió lướt đường trời xanh cao, gió ơi!...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

10




…Đã làm gió, gió đừng giận dữ
Gió giận dữ lửa sẽ cháy tàn
Đã làm gió, gió đừng gắt gỏng
Gió gắt gỏng tim người sẽ đau”
(Gió - Nhà xuất bản Giáo dục 2005)
Các nhà thơ dân tộc Thái luôn có nguồn cảm hứng đặc biệt trước vẻ đẹp
nguyên sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Những hình ảnh ruộng bậc thang
như bắc đến tận trời, những cánh đồng lúa chín vàng ẩn hiện trong sương sớm,

những cao nguyên đồng cỏ xanh mướt tới tận chân trời hay màu trắng tinh
khiết của hoa Ban rừng quyến rũ… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn các
nhà thơ; đồng thời, hiện thực cuộc sống, tình yêu, lao động sản xuất, phong tục
tập quán, văn hóa… cũng đi vào thơ. Đọc thơ ca Thái thời kỳ hiện đại, “chúng
ta có thể hình dung ra một cách cụ thể và sinh động cảnh sắc thiên nhiên, con
người, cùng những nếp sinh hoạt cũng như những phong tục tập quán đậm đà
bản sắc của người Thái, thấu hiểu được thế giới tâm hồn vốn rất phong phú
của người Thái” [33, tr.294].
Thơ dân tộc Thái vừa kết tinh, kế thừa những đặc trưng của thơ dân gian
Thái, vừa có tính hiện đại. Trong quá trình phát triển, các nhà thơ Thái đã phát
hiện và khẳng định “thần thái”, “hồn vía”, bản sắc và tầm vóc dân tộc mình.
Sự trưởng thành về đội ngũ và chất lượng sáng tác của thơ dân tộc Thái
được tác giả Trần Thị Việt Trung khẳng định trong công trình nghiên cứu Bản
sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại: “Có thể thấy, số
lượng các tác phẩm thơ Thái ngày càng nhiều và chất lượng các tác phẩm ngày
càng được nâng cao. Nhiều bài thơ của các tác giả dân tộc Thái được bạn đọc
yêu mến, thừa nhận; nhiều tác phẩm, tập thơ được trao những giải thưởng có
uy tín như: Ngọn lửa không tắt (Cầm Biêu) - đạt Giải A của Uỷ ban toàn quốc
Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam 1995, Hoa và nắng (Cầm Bá Lai) được trao
giải B của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 1997;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

11




Rượu núi của Lò Cao Nhum đạt giải C cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ quân
đội, Giải A Giải thưởng văn học nghệ thuật Hoà Bình 50 năm, (1998)... Đó
không chỉ là sự thừa nhận về chất lượng nghệ thuật của thơ ca Thái mà còn là

sự khẳng định vị trí cũng như những đóng góp của thơ Thái đối với nền thơ ca
dân tộc Việt Nam hiện đại” [33, tr.238].
Có thể nói, môi trường thơ ca với nhiều vẻ đẹp của đồng bào dân tộc
Thái đã giúp tâm hồn Lò Cao Nhum ủ ấp, chưng cất và kết tinh được chất men
say độc đáo trong thơ.
1.2. Giới thiệu về nhà thơ Lò Cao Nhum
1.2.1. Quê hương và gia đình nhà thơ
Lò Cao Nhum người dân tộc Thái, quê ở Mai Châu, Hòa Bình; sinh ngày
09 tháng 06 năm 1955, tại một một bản nhỏ bên núi Khọ Pha, nơi ông bà ngoại
nhà thơ sơ tán thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Người Thái ở Mai Châu có cội nguồn từ vùng đất Mường Hước Pước
Khà tức là miền Bắc Hà thuộc tỉnh Lào Cai ngày nay, theo dọc sông Hồng rẽ
sang sông Đà, rồi tới lập nghiệp ở vùng Mộc Châu, vùng Mường Khoòng,
Thanh Hóa và vùng Mai Châu Hòa Bình tính đến nay được khoảng trên dưới
700 năm, tức vào khoảng đầu thế kỷ XIV.
Mai Châu là con đường tơ lụa giao lưu buôn bán giữa người Kinh ở Thăng
Long - Hà Nội, người Mường ở tỉnh Hòa Bình, người Thái ở các tỉnh Sơn La, Hòa
Bình, Thanh Hóa với các tộc người Lào ở đất nước Triệu Voi. Con đường đó từ
kinh đô Thăng Long - Hà Nội theo thuyền buôn lên chợ Bờ tới chợ Suối Rút và đi
đường bộ vào Mai Châu, sang Quan Hóa lên Mường Lát và sang Lào.
Bản Chác Lác (tức bản Lác ngày nay) đã có tên trong gia phả này ngay
khi người Thái đặt chân đến mường Mùn khai phá mở mang đất đai cư trú và
sinh sống. Bản Chác Lác nằm thuộc vùng trung tâm của mường Mùn, cũng là
trung tâm các Tạo mường cư trú. Mặt khác, thung lũng mường Mùn được bao
bọc bởi các dãy núi cao. Bởi vậy, văn hóa cổ truyền Thái ở bản Lác cũng như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12





của mường Mùn nói chung rất đậm đặc sắc thái, khác với một số vùng tiếp giáp
các nền văn hóa khác như đã nói trên.
Lò Cao Nhum gắn bó với quê hương Tây Bắc. Dấu ấn quê hương in rõ
nét trong thơ ông từ các hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên Tây Bắc như đá
núi, rừng cây, dòng sông, mây, gió, tiếng chim hót, mặt trời... đến những phong
tục tập quán như tục bắt vợ, tục ở rể của người Thái, tục cúng thần linh ngày
mùa (Bắt vợ, Sàn trăng…); những lễ hội quen thuộc của bản làng quê hương
qua đêm múa xòe, lễ khuộng mùa (Đêm xòe và múa lăm vông, Đêm mường
Bui, Tung còn…); những sinh hoạt trong lao động sản xuất như phát nương,
làm rẫy, đan phên, dựng nhà, chống sàn, sửa gác (Bàn tay, Trên bờ lúa…);
những vật dụng, đồ dùng, những hình ảnh quen thuộc của người Thái như nhà
sàn, cầu thang, bếp lửa, hoa khau cút, vò rượu cần… (Sàn trăng, Nóc nhà ta có
hoa khau cút…).
Ngoài quê hương, những yếu tố từ gia đình cũng có ảnh hưởng lớn đến
sự nghiệp sáng tác của nhà thơ. Ông nội của Lò Cao Nhum sinh ra trong một
gia đình nghèo tại bản Tòng (xã Tòng Đậu, Mai Châu, Hòa Bình). Người cha
Lò Cao Nhum sinh năm 1931 tại bản Lác, xã Chiềng Châu, Mai Châu, Hòa
Bình. Từ thuở niên thiếu, ông đã nhanh chóng hòa nhập vào các phong trào
cách mạng như tham gia giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám tại
huyện, tham gia du kích kháng chiến chống Pháp tại địa phương, tham gia Ban
quản trị Hợp tác xã và nhiều năm là Bí thư Chi bộ bản Lác.
Trong cảm nhận của nhà thơ Lò Cao Nhum, ông nội và người cha của
nhà thơ là hai con người vừa bình dị, vừa phi thường. Hình ảnh ông nội và
người cha của nhà thơ đã trở đi trở lại nhiều lần với nhiều xúc cảm khác nhau,
đôi chỗ nó sáng lên như những hình ảnh đẹp (Ông nội tôi khai sinh miền đất).
Lò Cao Nhum mồ côi mẹ từ năm lên hai tuổi, có lẽ vì thế mà trong thơ
ông, bạn đọc luôn cảm nhận một nỗi khát khao tình mẹ đến cháy bỏng. Nỗi khát
khao ấy khiến hình ảnh về người mẹ có khi được chuyển hóa thành người phụ nữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

13




nói chung, hay hình ảnh người bà, người vợ… Dù là hình ảnh nào thì người phụ
nữ trong thơ ông luôn là người tận tâm với gia đình, đảm đang, giỏi giang, tháo
vát, ân cần, tận tụy, thủy chung… (Mưa, Bà đi tàu thủy xuôi sông Đà…).
Gia đình và quê hương, là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến con
đường văn chương của nhà thơ. Nó vừa là động lực thôi thúc, vừa là nguồn
cảm hứng, vừa là đề tài, vừa là chất liệu đầy ắp và tiềm tàng những hình ảnh,
hình tượng, cách suy nghĩ, cách triết lý mộc mạc mà sâu sắc của người Thái.
1.2.2. Con người
Nhà thơ Lò Cao Nhum là một người giàu nghị lực, luôn khao khát vươn
lên trong cuộc sống. Ông mồ côi mẹ từ nhỏ nhưng không chịu chấp nhận sự
thua thiệt của số phận. Lớn lên gặp thời chiến tranh ác liệt ở cả hai miền Nam
Bắc đang tạm thời chia cắt nên việc học hành của ông bị đứt đoạn liên tục. Mặc
dù vậy, ông vẫn luôn phấn đấu học hỏi không ngừng. Năm 16 tuổi (1971), nhà
thơ nhập ngũ theo lệnh tổng động viên, gia nhập lực lượng Công an nhân dân
vũ trang của tỉnh. Những năm này, rồi về sau nữa, theo các vị trí công việc
khác nhau, Lò Cao Nhum phải nỗ lực củng cố bồi bổ thêm kiến thức của mình
bằng cách theo học các lớp tại chức, các lớp bồi dưỡng như sư phạm, công an,
kế toán, văn hóa...
Trong hành trình phấn đấu không ngừng, nhà thơ Lò Cao Nhum đã tích
cực tham gia vào các hoạt động văn hóa văn nghệ và đạt được nhiều thành
công. Tháng 1 năm 2001, Lò Cao Nhum trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam. Ngoài ra, ông còn là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số

Việt Nam, hội viên Hội Văn học nghệ thuật Hòa Bình… Lò Cao Nhum từng đi
nhiều nơi, đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau và có nhiều đóng góp tích
cực. Ông từng là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình các
nhiệm kỳ 2,3,4; Ủy viên Ban Thường vụ Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình
nhiệm kỳ 4; Ủy viên Ban văn học dân tộc miền núi Hội Nhà văn Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

14




nhiệm kỳ 7; Ủy viên Ban Kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 8; Trưởng
phòng Biên tập, Thư ký tòa soạn báo Văn nghệ Hòa Bình...
Mặc dù đã trải nhiều nghề khác nhau, nhưng với Lò Cao Nhum, niềm
đam mê lớn nhất của ông vẫn là thơ. Với ông, làm thơ trước hết là để sẻ chia
tâm tư tình cảm với mọi người. Nhà thơ khao khát sẻ chia những vần thơ của
mình với bạn đọc mọi miền đất nước. Trong sâu thẳm tâm hồn mình, nhà thơ
luôn nặng trĩu một nỗi lòng với văn hóa Thái. Ông tâm sự: “Tôi viết khi nào
cần viết, cần nói ra. Viết tự nhiên theo giọng của mình, tức là cách nghĩ cách
cảm của người Thái miền núi. Viết được như vậy tôi cho là thành công” (ghi
trực tiếp).
Với những trải nghiệm cuộc sống và niềm say mê tìm hiểu, sáng tác văn
học, Lò Cao Nhum đã có những thành công nhất định trên hành trình lao động
nghệ thuật. Ông đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong văn học dân tộc
Thái nói riêng và trong văn học dân tộc thiểu số nói chung.
1.2. Giới thiệu về hành trình thơ Lò Cao Nhum
Lò Cao Nhum ngoài sáng tác thơ còn viết ký, dịch, sưu tầm, khảo cứu.
Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại:
Ký: Phiên chợ hoa văn, Hội Văn học nghệ thuật Hòa Bình, 2005;

Sưu tầm, dịch dân ca ca Thái: Dân ca Thái Mai Châu, Sở Văn hóa
Thông tin Hà Sơn Bình, 1991; Lời hát trong lễ hôi Chá Chiêng, Nhà xuất bản
Văn hóa dân tộc, 2001;
Khảo cứu: Bếp lửa trong đời sống người Thái, Nhà xuất bản Văn hóa
dân tộc, 2008.
Tuy nhiên, Lò Cao Nhum say mê nhất vẫn là thơ. Ông làm thơ từ trước
những năm 80 của thế kỷ XX, đến nay đã xuất bản 07 tập thơ.
Năm 1995, ông in tập thơ đầu tay Giọt sao trở về. Tập thơ gồm 31 bài, in
ở Nhà xuất bản Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình. Tập thơ đầu tay này bao
gồm các bài thơ ông sáng tác từ năm 1981 đến năm 1995. Xuyên suốt tập thơ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

15




cái nhìn của một con người dần trưởng thành. Bắt đầu là một chàng trai trẻ đi
xa về cảm thấy xao xuyến trước tình cảm của người thân, làng xóm, và niềm
hạnh phúc lớn lao khi được làm cha: “Cúi hôn gót chân con làm bố” (Trở lại
nhà sàn). Bài thơ kết thúc tập thơ là cái nhìn của một người đàn ông từng trải,
nặng trĩu tâm sự với những đổi thay, vấp ngã của cuộc đời. Giọt sao trở về tuy
chưa gây được nhiều chú ý của bạn đọc nhưng đã đánh dấu sự thành công bước
đầu của một nhà thơ trẻ.
Năm 1996, Lò Cao Nhum in tập Rượu núi. Tập thơ này gồm 34 bài
(trong đó có 33 bài là sáng tác mới, 01 bài được chỉnh sửa và in lại - Ngã ba
suối). Một số bài thơ trong tập Rượu núi đã nhận được những giải thưởng có
giá trị: Hai bài thơ Chiều núi, Ngã ba suối đã nhận được giải thưởng Chùm thơ
hay trong năm, báo Văn nghệ Trẻ, 1996. Sau đó, với bài thơ Rượu núi, Lò Cao
Nhum được tặng giải C cuộc thi Thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội 1996 - 1997.

Đến tập thơ Rượu núi, bạn đọc cảm nhận rõ một Lò Cao Nhum như “thăng hoa”
hơn khi viết về quê hương, bạn bè và những người thân. Ông đã có những câu thơ
rất xuất sắc: “Ngửa bàn tay cũng da/ Úp bàn tay cũng thịt”, “Rượu nhà tôi/ Ủ từ
sắc lá rừng gai/ Chắt từ củ mài hốc đá/ Vợ tôi nấu thơm từ lửa đỏ đêm dài/ … Đã
uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã say đổ tràn tình mà say” (Rượu núi) hay “Mỗi
ngày tôi một ban mai/ Trồng một tia nắng/ Gặt chùm nụ cười chín rực” (Ban
mai)… Có thể nói, với tập thơ Rượu núi, Lò Cao Nhum đã đánh dấu một bước
tiến quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của mình đó là khẳng định được tài
năng thơ của mình trước công chúng.
Trong khoảng hơn chục năm sau này, Lò Cao Nhum vẫn miệt mài sáng
tác. Ông đã ra mắt bạn đọc các tập thơ: Mùa hoa chuông (10 bài), Thơ in
chung 3 tác giả, Sở Văn hóa Thông tin Hòa Bình, 1997; Sàn trăng (37 bài),
Thơ, Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình, 2000; Theo lời hát về nguồn (53 bài),
Thơ, Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình, 2001; Gốc trời (56 bài), Thơ, Nhà
xuất bản Hội Nhà văn, 2009. Năm 2010, Lò Cao Nhum tuyển chọn các sáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

16




tác của mình in thành một tập với nhan đề Rượu núi (gồm 143 bài in tại Nhà
xuất bản Văn học, 2010). Với những tập thơ này, Lò Cao Nhum đã nhận được
các giải thưởng: tập thơ Gốc trời được nhận giải B của Hội Văn học Nghệ
thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2010; tập thơ Sàn trăng (cùng với
Rượu núi), được nhận giải A giải thưởng Văn học Hòa Bình 5 năm, 10 năm…
của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình. Xuyên suốt các tập thơ, bạn đọc vẫn gặp
một con người có tâm hồn giản dị, có trái tim thiết tha với tình yêu quê hương
đất nước, nhưng với một cái nhìn của con người từng trải hơn, suy tư chiêm

nghiệm nhiều hơn.
Ngoài các giải thưởng về thơ, Lò Cao Nhum còn được nhận các giải
thưởng về ký và khảo cứu: Tập khảo cứu Bếp lửa trong đời sống người Thái đã
đem đến cho ông giải C của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam năm 2009; với tập ký Phiên chợ hoa văn, Lò Cao Nhum được nhận giải A
giải thưởng Văn học Hòa Bình 10 năm của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình.
Trên hành trình nghệ thuật, Lò Cao Nhum vẫn miệt mài sáng tạo. Giờ
đây, ở độ tuổi ngoài 60, khi không còn vướng bận nhiều với công việc và
những lo toan trong cuộc sống, Lò Cao Nhum đi nhiều hơn. Đến mỗi vùng trời
khác nhau của tổ quốc, nhà thơ đều tìm thấy cho mình những cảm xúc thơ tươi
mới. Các tác phẩm mới ra đời bồi đắp thêm cho những thành công của nhà thơ
trong hành trình sáng tác thơ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

17




Chương 2
CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH
TRONG THƠ LÒ CAO NHUM
2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Lò Cao Nhum
2.1.1. Khái niệm cảm hứng chủ đạo
Cảm hứng thường được hiểu là trạng thái tâm tư đặc biệt khi sức chú ý
được tập trung cao độ, kết hợp với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện để óc
tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả. Cảm hứng là hứng thú sáng tạo
nói chung và sáng tạo văn học nói riêng.
Hê Ghen và Bêlinxki đều dùng từ “cảm hứng”: “để chỉ trạng thái hưng

phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà
họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt ngồn từ lý tưởng xã hội của nhà
văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại” [8].
Hêghen cho rằng: “Cảm hứng chủ đạo là biểu hiện tâm hồn người nghệ sĩ
say mê, thâm nhập vào bản chất của đối tượng, trở thành tương ứng với nó, gần
như là xuyên suốt vào nó. Theo ông, cảm hứng chủ đạo cần được xem như là
một sản phẩm của “một tinh thần phong phú và hoàn thiện, một cá tính mà
trong đó tất cả những năng lực bản thể phổ quát đều được thực hiện” [8].
Bêlinxki quan niệm: “Trong những tác phẩm thi ca đích thực, tư tưởng
không phải là một khái niệm trừu tượng, được diễn tả một cách giáo điều, mà
nó tạo thành linh hồn tỏa vào trong tác phẩm, giống như ánh sáng chiếu vào
pha lê. Tư tưởng trong sáng tạo thi ca - đó chính là cảm hứng… Cảm hứng là
sự thiết tha và nhiệt tình nống cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó” [8].
Từ những quan điểm trên, Bêlinxki đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu cảm
hứng chủ đạo của nhà văn trong tác phẩm để tìm hiểu đặc điểm sáng tác của
nhà văn ấy “Công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên của người phê bình là giải
đoán cảm hứng chủ đạo của tác phẩm” [8].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

18




Giáo sư Trần Đình Sử đưa ra quan điểm về cảm hứng: Cảm hứng là một
tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một ham muốn tích cực đưa đến hành
động. Điều quan trọng là cần nhận ra cảm hứng như một lớp nội dung đặc thù
của tác phẩm văn học. Cảm hứng trong tác phẩm, trước hết là niềm say mê
khẳng định chân lý, tư tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa,
tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê phán,

tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cảm hứng chủ đạo là: “Trạng thái tình
cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư
tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những
người tiếp nhận tác phẩm” [8, tr.44].
Đây là khái niệm công cụ dược sử dụng để nghiên cứu cảm hứng chủ
đạo trong thơ Lò Cao Nhum. Theo chúng tôi, khái niệm này cho phép người
nghiên cứu xác định được những nội dung cơ bản sau:
- Cảm hứng chủ đạo gắn liền với tình cảm của tác giả về đối tượng sáng
tác ở mức độ mãnh liệt, say đắm. Tình cảm ấy có được do tác động của ngoại
cảnh và yếu tố nội sinh.
- Cảm hứng chủ đạo gắn với tư tưởng xác định, có tác động lan truyền
cảm xúc đến người đọc.
Vận dụng khái niệm đó, có thể xác định được cảm hứng chủ đạo trong
thơ Lò Cao Nhum là cảm hứng về quê hương đất nước, là tình yêu tha thiết với
thiên nhiên, phong tục tập quán, tình yêu văn hóa dân tộc Thái cùng sự gắn bó
chân thành với cuộc sống giản dị, con người mộc mạc của quê hương.
2.1.2. Cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương đất nước
Cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương, đất nước trong thơ của Lò Cao Nhum
được hòa vào từng bài thơ như một lẽ tự nhiên trong tâm hồn nhà thơ. Vì sao
khi viết về quê hương, tâm hồn Lò Cao Nhum lại rất tự nhiên, phóng khoáng và
giàu tình cảm đến thế? Tìm hiểu thơ Lò Cao Nhum, chúng tôi nhận thấy cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

19





×