Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Bản sắc Nùng trong thơ Mã Thế Vinh (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.15 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC



LÊ THỊ HỒNG TRANG

BẢN SẮC NÙNG TRONG THƠ MÃ THẾ VINH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Việt Trung

Thái Nguyên, năm 2016


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực chưa từng được công bố
trong một công trình khoa học nào khác.

Thái Nguyên, ngày 25 tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn

Lê Thị Hồng Trang



Xác nhận

Xác nhận

của trƣởng khoa chuyên môn

của ngƣời hƣớng dẫn khoa học

PGS. TS Trần Thị Việt Trung


ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Văn – Xã hội trường
Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên, cùng toàn thể các thầy cô giáo đã
tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho tập thể lớp Cao học
K8C - Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện để tôi có cơ hội học tập và nghiên
cứu khoa học.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS. TS Trần Thị
Việt Trung - người thầy rất nghiêm khắc, tận tình trong công việc đã truyền thụ
cho tôi nhiều kiến thức quý báu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn
động viên, khuyến khích và tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập,
nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 25 tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn


Lê Thị Hồng Trang


iii

MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ............................................................... 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 7
5. Phạm vi nghiên cứu. ..................................................................................... 8
6. Cầu trúc luận văn. ........................................................................................ 8
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 8
Chƣơng 1. BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ CA NÙNG THỜI KỲ
HIỆN ĐẠI ......................................................................................................... 10
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn ....................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm Bản sắc văn hóa dân tộc và Bản sắc văn hóa dân tộc trong
thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam ............................................................. 10
1.1.2 Vài nét về bản sắc văn hóa dân tộc Nùng ............................................. 21
1.2 Bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà thơ Nùng thời kỳ hiện đại. .. 29
1.3 Bản sắc văn hòa Nùng trong thơ mã Thế Vinh. ....................................... 34
Chƣơng 2. MỘT SỐ CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ MÃ THẾ VINH. 43
2.1 Vài nét về tác giả Mã Thế Vinh ............................................................... 43
2.2 Nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ Mã Thế Vinh .................................. 48
2.2.1 Nguồn cảm hứng mãnh liệt từ vùng đất Xứ Lạng thơ mộng, hùng vĩ và

giàu bản sắc tộc người .................................................................................... 48
2.2.2 Thơ Mã Thế Vinh - Tiếng hát ca ngợi công ơn Đảng, Bác Hồ của người
Nùng nơi vùng cao biên giới .......................................................................... 61
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT THƠ MÃ THẾ VINH....................................... 68


iv

3.1 Thơ giầu hình ảnh và thơ sáng tác cho người Nùng hát .......................... 68
3.1.1 Hình ảnh thơ .......................................................................................... 68
3.1.2. Thơ viết cho người Nùng hát ............................................................... 79
3.2 Một số biểu tượng thơ nổi bật gắn với đời sống văn hóa của cộng đồng Nùng..... 83
3.2.1 Biểu tượng hoa hồi ................................................................................ 83
3.2.2 Hát sli - một biểu tượng văn hóa của cộng đồng Nùng ........................ 85
3.2.3 “Rượu” một biểu tượng nổi bật trong đời sống văn hóa dân tộc Nùng 89
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 95


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
-Văn học dân tộc thiểu số (DTTS) là một bộ phận quan trọng của nền
văn học Việt Nam, nó đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng và đậm đà
bản sắc dân tộc của nền văn học nước nhà. Trong quá trình phát triển của mình,
văn học DTTS đã đạt được nhiều thành tựu cùng với các tên tuổi như: Nông
Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Triệu Văn Kim, Vương Anh, Y Điêng, Triệu Ân,
Mã Thế Vinh, Mã A Lềnh, Vi Thị Kim Bình, Y Phương, Pờ Sảo Mìn, Lò Ngân
Sủn, Inrasara, Vi Hồng, Vương Trung, Lâm Quý, Hà Thị Cẩm Anh, Cao Duy

Sơn, Dương Thuấn, Bùi Tuyết Mai… Những tác giả và tác phẩm dân tộc thiểu
số này bước đầu đã thu hút được khá nhiều những công trình nghiên cứu, cùng
những bài phê bình của các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình văn học. Tuy
nhiên, so với văn học Việt nói chung, việc nghiên cứu về văn học DTTS cũng
còn ở mức độ khiêm tốn, còn khá nhiều tên tuổi cùng tác phẩm văn học DTTS
hiện nay chưa được giới nghiên cứu phê bình chú ý đến. Nói một cách khác,
vẫn còn nhiều tác giả, tác phẩm (DTTS) vẫn còn đang ở dạng “tiềm ẩn” sau
những rặng núi cao hùng vĩ của các vùng miền núi xa xôi đang cần được quan
tâm tìm hiểu.
- Nhà thơ Mã Thế Vinh - Nhà thơ dân tộc Nùng, quê ở Tràng Định, Lạng
Sơn là một trường hợp “tiềm ẩn” như vậy. Tác giả Mã Thế Vinh đến với văn
chương không phải bằng con đường học hành bài bản và trường lớp chính quy mà từ một cán bộ tuyên truyền kháng chiến, tuyên truyền văn hóa, văn nghệ; từ
một con người tâm huyết với văn nghệ DTTS. Bằng sự nỗ lực tự học, tự vươn
lên, bằng năng khiếu của chính mình và của một nghệ sĩ thấm đẫm chất dân
gian dân tộc Nùng, ông đã tự tin và đã dấn thân tham gia vào nhiều lĩnh vực
nghệ thuật như: Diễn viên, biên kịch, biên đạo, sáng tác thơ, viết báo, sưu tầmnghiên cứu văn nghệ dân gian..., nhưng tên tuổi của ông được biết đến nhiều
nhất là với tư cách là một nhà thơ DTTS tiêu biểu thuộc thế hệ thứ hai. Ông


2

cũng là nhà thơ dân tộc Nùng duy nhất là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Một
số tác phẩm và giải thưởng tiêu biểu mà ông đã đạt được phải kể đến là: “Hiến
pháp ban hành nhƣ mùa xuân”, đã đạt được Giải thưởng của Hội đồng văn học
dân tộc và giải thưởng Hoàng Văn Thụ (1960); Vẽ bản đồ quê tôi (Tập thơ song
ngữ), (1981); Lằm tàng chài pây (Con đường anh đi);Tập Trường ca Song ngữ
(1995); Tục ngữ và thành ngữ Tày Nùng Lạng Sơn (Song ngữ), (2009); Báo
slao sli tò toóp (Trai gái sli đối đáp) –Thơ song ngữ - 2011, (Sưu tầm và dịch)
đạt Giải ba Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam; Tuyển tập Mã Thế Vinh (Song
ngữ Tày, Nùng - Việt)Tặng thưởng của Hội Văn học DTTS Việt Nam - 2013…

- Có thể thấy, Mã Thế Vinh là một trong những nhà thơ, nhà nghiên cứu,
sưu tầm người DTTS tiêu biểu, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp văn học các
DTTS Việt Nam hiện đại. Và một điều đáng quý là những tác phẩm của ông
luôn thẫm đẫm bản sắc văn hóa dân tộc Nùng. Ông là một nhà thơ dân tộc
Nùng rất hiếm hoi trong hàng trăm nhà thơ, nhà văn thuộc các DTTS khác hiện
nay ở nước ta; đồng thời cũng là một trong 3 nhà văn Việt Nam kỳ cựu nhất
của tỉnh Lạng Sơn - Một tỉnh miền núi biên viễn của Tổ quốc.Và ông cũng là
một trong những tác giả DTTS được giới thiệu, giảng dạy trong chương trình
văn học địa phương của tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
- Chính vì những lý do trên, tôi đã quyết định lựa chọn vấn đề: “Bản sắc
Nùng trong thơ Mã Thế Vinh” để làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình - Với
hi vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn những giá trị đặc sắc, những cống hiến
đáng trân trọng của nhà thơ Nùng - Mã Thế Vinh. Đồng thời, nếu đề tài thành
công cũng sẽ góp phần vào việc giảng dạy văn học địa phương tỉnh Lạng Sơn
được cụ thể và hiệu quả hơn.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Mã Thế Vinh là một tác giả DTTS có nhiều cống hiến cho sự phát triển
của nền văn học DTTS trong giai đoạn trước năm 2000. Nhưng hiện nay, việc
nghiên cứu về ông vẫn còn khiêm tốn, chưa xứng với tầm với những giá trị


3

mà ông đã đem lại cho nền văn học DTTS qua các sáng tác của mình.
Tuy nhiên, tên tuổi cũng như tác phẩm tiêu biểu của ông cũng đã được
nhiều người nhắc đến. Trước tiên là trong các công trình nghiên cứu
chung về văn học DTTS Việt Nam hiện đại của các tác giả như: Nông
Quốc Chấn, Lâm Tiến, Phong Lê - Đinh Văn Định, Hoàng An, Tô Hoài,
Phạm Quang Trung, Trần Thị Việt Trung, Đỗ Thị Thu Huyền… và của
tập thể các tác giả trong các cuốn Tuyển tập Văn học DTTS xuất bản

trước những năm 2000 (1988, 1997, 1999) và sau năm 2000 (2004, 2007).
Hầu như, khi nhắc tới đội ngũ các nhà thơ DTTS thời kỳ hiện đại, tất cả các
tác giả trên đều nhắc tới cái tên Mã Thế Vinh - như là nhắc tới một nhà thơ
DTTS tiêu biểu của giai đoạn từ 1960 - 2000.
Đặc biệt, năm 2013 cuốn Tuyển tập Mã Thế Vinh- (Song ngữ) do
Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên xuất bản với số trang khá dày dặn (hơn
1000 trang sách) giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu nhất của tác giả Mã
Thế Vinh đến bạn đọc, do hai tác giả: Mai Thế (Mã Thế Vinh) và Trần Thị
Việt Trung tuyển chọn và giới thiệu. Lần đầu tiên bạn đọc đã hình dung ra
được toàn bộ những đóng góp, những sáng tạo không biết mệt mỏi của nhà
thơ, nhà sưu tầm văn hóa, văn học dân gian Mã Thế Vinh sau hơn 60 năm
miệt mài với văn học DTTS. Cũng trong Tuyển tập này, một số bài nghiên
cứu, giới thiệu, phê bình về nhà thơ Mã Thế Vinh đã được tập hợp ở cuối
Tuyển tập, đó là các bài viết: Mã Thế Vinh! Riêng! Trong cái toàn thể và
bài Văn hóa truyền thống của ngƣời Nùng Xứ Lạng - Nhân tình của Mã
Thế Vinh của nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Cư; Cảm hứng sử thi trong
thơ Mã Thế Vinh của nhà lý luận phê bình Lâm Tiến; Mã Thế Vinh mộc
mạc một hồn thơ của nhà thơ Mai Liễu và Mặt trời rạng rỡ của nhà thơ
Y Phương…
Bài viết của Hoàng Tuấn Cư: Văn hóa truyền thống của ngƣời
Nùng Xứ Lạng - Nhân tình của Mã Thế Vinh đã nhấn mạnh: “Khi đọc


4

tác phẩm Hiến pháp ban hành nhƣ mùa xuân, tôi thấy tác giả bám sát các
vấn đề lớn của chính trị mà tác phẩm vẫn vƣợt qua đƣợc và không ít những
bài thơ nhƣ vậy” hay: “Ông dùng từ ngữ bình dị, không cầu kỳ, cùng với
cách diễn đạt rất “Dân tộc”, tuy nhiên thơ ông cũng có câu khá bất ngờ đó là sự khám phá, sự tìm tòi, có nhiều phát hiện chỉ có ngƣời miền núi”
[48, tr.1004 - 1011].Còn trong bài: Cảm hứng sử thi trong thơ Mã Thế

Vinh, nhà phê bình Lâm Tiến đã chỉ ra một số đặc điểm nổi bật trong thơ Mã
Thế Vinh: “Thơ của Mã Thế Vinh là thơ mang đậm chất trữ tình – sử thi, ít có
bài thơ ngẫm ngợi về thể tài nhân tình. Những câu thơ của anh chân chất, hồn
nhiên, trong sáng nhƣng cũng thật mộc mác, giản dị. Nhiều câu thơ hay nhƣ
một nét chấm phá làm nổi bật lên con ngƣời cuộc sống, cảnh vật thể hiện rõ
cảm hứng sáng tạo, tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà thơ. Mã Thế Vinh đã để lại
cho ngƣời đọc những bài thơ, câu thơ hay. Đạt đƣợc thành tựu đó đối với anh
quả là một cuộc hành trình đầy gian nan, vất vả, một công cuộc sáng tạo vƣợt
quá sức mình” [48, tr.1022]. Quả như vậy, với những đóng góp của mình trong
suốt từ thời tuổi trẻ đến cái tuổi bát thập này này thì Mã Thế Vinh hoàn toàn có
thể tự hào về sự nghiệp thơ ca đó của mình.
Trong bài viết: Mã Thế Vinh: Mộc mạc một hồn thơ - nhà thơ Mai
Liễu cũng đã khẳng định: “Nhà thơ Mã Thế Vinh thật hạnh phúc với thời đại
ông sống và sáng tác! Thơ ông, thời của ông hƣớng tới cộng đồng. Nhà thơ
Bàn Tài Đoàn cả đời làm thơ cho ngƣời Dao hát về cuộc đổi đời chƣa từng có
trong lịch sử ngƣời Dao. Thơ Mã Thế Vinh phần nhiều cũng là những bài sli
ngƣời Nùng có thể hát lên ở bất cứ nơi đâu! Tôi nghĩ đóng góp của ông hẳn là
ở mảng thơ - sli Nùng - Những bài thơ, truyện thơ sáng tác bằng tiếng Nùng...
Và vì thế, ông không chỉ có cả triệu ngƣời nói tiếng Tày Nùng hiểu ông, yêu
mến ông nhƣ việc xuất bản tiếng dân tộc làm đƣợc tốt hơn bấy giờ!”[48,
tr.1029]. Trong bài Mặt trời rạng rỡ nhà thơ Y Phương đã nhận xét một cách
tinh tế: “Tình cờ tôi đọc lại bài thơ tứ tuyệt Mặt trời cuả nhà thơ Mã Thế Vinh


5

trên mạng. Chắc ai đó thấy bài thơ này hay, đã đăng lên cho mọi ngƣời cùng
đọc... Bài thơ đã để lại cho công chúng độc giả thƣởng thức một cách thích thú.
Giống nhƣ món Nằm khau, vịt quay - những món khoái khẩu chỉ có ở Lạng
Sơn” [48, tr.1030 – 1032]. Và trong bài Cách diễn đạt độc đáo trong thơ các

dân tộc thiểu số và miền núi của Th.S. Lộc Bích Kiệm (Hội Văn học nghệ
thuật Lạng Sơn) đã viết về Mã Thế Vinh như thế này đây: “Những câu thơ nhƣ
thế chỉ có thể viết lên từ những ngƣời con sống trong lòng văn hoá, biết văn
hoá, yêu văn hoá Tày - Nùng. Ngƣời đọc cũng chỉ thấy hay khi hiểu đƣợc yếu
tố văn hoá Tày - Nùng chứa đựng trong đó. Cụ thể ở câu thơ của Mã Thế Vinh
muốn nhắc đến yếu tố văn hóa khi ngƣời con trai và ngƣời con gái Tày (hoặc
Nùng) hẹn gặp nhau tại buổi chợ phiên, trên đƣờng xuống chợ, một trong hai
ngƣời đi trƣớc sẽ bẻ những cành lá đánh dấu trên đoạn đƣờng mình đi để
ngƣời đi sau nhận biết rằng anh (hoặc em) đã đi trƣớc và đi theo lối này. Cứ
thế họ đi tìm nhau theo con đƣờng tình yêu đã đƣợc đánh dấu” [13,tr.69]
Trong cuốn sách Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc
(tập 3 - Hương rừng) của tác giả Hoàng Văn An có bài viết : Lạng Sơn với tác
phẩm xƣa và nay trong đó ông đã nhận xét về Mã Thế Vinh một cách trân
trọng như sau: “Lạng Sơn có một vài nhà thơ, nhà văn trƣởng thành từ Chi hội
văn nghệ Việt Bắc nhƣ Mã Thế Vinh (thơ), Vi Thị Kim Bình, Nguyễn Trƣờng
Thanh (văn), sau đó là một số các tác giả khác, đặc biệt có tác phẩm “Hiến
pháp ban hành nhƣ mùa xuân” và tập song ngữ “Vẽ bản đồ quê tôi” của nhà
thơ Mã Thế Vinh - đƣợc Giải thƣởng miền núi - dân tộc của Hội Nhà văn, cùng
sự ra đời của Hội VHNT Lạng Sơn năm 1968 đã đánh thức tiềm năng VHNT
nói chung và thơ ca xứ Lạng nói riêng” [1, tr.17]
Có thể thấy rõ ở những bài viết này, các tác giả đã chỉ ra được một số
đặc điểm nổi bật về nội dung cũng như các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng
trong sáng tác của nhà thơ Mã Thế Vinh, cũng như đã khẳng định được những
đóng góp quan trọng của nhà thơ đối với văn học Lạng Sơn nói riêng, với văn


6

học các DTTS Việt Nam nói chung (giai đoạn trước năm 2000). Tuy nhiên, cho
tới nay chúng tôi vẫn chưa thấy có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ

thống, toàn diện về các sáng tác thơ của Mã Thế Vinh, nhất là về một trong
những đặc điểm nổi bật trong tác phẩm thơ ca của ông - Đó là: Bản sắc dân tộc
Nùng trong các tác phẩm của nhà thơ dân tộc thiểu số này.
Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề: “Bản sắc Nùng trong thơ Mã Thế
Vinh” để làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình, với hi vọng sẽ góp một tiếng
nói khoa học vào việc khẳng định những giá trị nhiều mặt của các sáng tác (ở
đây chủ yếu là mảng thơ ca) cũng như nét đặc trưng nổi bật trong các tác phẩm
của nhà thơ - đó là về bản sắc Nùng trong thơ Mã Thế Vinh. Từ đó góp phần
khắc họa rõ nét hơn chân dung nhà thơ Nùng của Xứ Lạng nói riêng, của các
DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại nói chung.
3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là toàn bộ những sáng tác thơ (gồm
cả Trường ca) của tác giả Mã Thế Vinh gồm: 10tác phẩm thơ (Trong đó có cả
các tập thơ được sưu tầm, dịch từ tiếng Nùng) của ông:
- Vẽ bản đồ quê tôi, (Song ngữ), Nxb Văn hóa – Hà Nội (1981)
- Lằm tàng chài pây (Con đường anh đi) Trường ca Song ngữ - Nxb Hội
Văn học nghệ thuật Lạng Sơn (1995)
- Tâp thơ “ Nhắn bạn” - (Song ngữ ), Nxb Văn hóa dân tộc (1997)
- Mã Thế Vinh, Tuyển tập thơ - Trƣờng ca - Truyện thơ, Nxb Hội văn
học nghệ thuật Lạng Sơn (2003)
- Báo slao sli tò toóp (Trai gái sli đối đáp) - (Thơ song ngữ - do Mã Thế
Vinh biên tập và dịch) - Nxb Lao Động(2011).
- Sli sình làng (Tập sli song ngữ) do Mã Thế Vinh Biên tập và dịch Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh Lạng Sơn xuất bản.


7

- Cỏ lẩu và sli lƣợn Nùng Phàn slình (Tập sli song ngữ - do Mã Thề
Vinh Sưu tầm và biên dịch) - Nxb Lao Động, (2012)

-Then Văn Quan (Then song ngữ - do Mã Thề Vinh sưu tầm và biên
dịch)- Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam xuất bản
- Tuyển tập Mã Thế Vinh (Song ngữ Tày, Nùng - Việt, Phần thơ) Nxb
Đại học Thái Nguyên,(2013).
- Tập thơ Tình quê, Nxb Văn hóa dân tộc (2015)
3.2 Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm hướng tới mục tiêu:
- Làm rõ bản sắc Nùng trong những sáng tác thơ của tác giả Mã Thế
Vinh ở trên cả hai phương diện: Nội dung phản ánh và nghệ thuật thể hiện.
- Góp phần tái hiện chân dung nhà thơ dân tộc Nùng - Mã Thế Vinh và
góp phần khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà thơ đối với Văn học
tỉnh Lạng Sơn nói riêng, với sự nghiệp Văn học của các DTTS Việt Nam nói
chung.
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra được những đặc điểm cơ bản của bản sắc văn hóa dân tộc trong
đời sống văn hóa tinh thần của người Nùng; từ đó phân tích những nét đẹp
riêng mang đậm bản sắc Nùng trong những sáng tác thơ Mã Thế Vinh ở cả hai
phương diện: Nội dung và nghệ thuật.
- Khẳng định những giá trị, những đóng góp của nhà thơ Mã Thế Vinh
đối với văn học Lạng Sơn nói riêng, với văn học của các DTTS Việt Nam nói
chung trong quá trình vận động và phát triển của nó.


8

4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sẽ sử dụng những phương pháp nghiên
cứu như sau:
- Phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học.

- Phương pháp phân tích- tổng hợp.
- Phương pháp thống kê, so sánh .
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Văn học với Văn hóa học; Dân tộc học,
Lịch sử…
5. Phạm vi nghiên cứu.
- Khảo sát toàn bộ sáng tác của nhà thơ Mã Thế Vinh, đi sâu vào nghiên
cứu và phân tích các tác phẩm thơ của nhà thơ Mã Thế Vinh.
- Khảo sát một số tác phẩm thơ của các nhà thơ DTTS khác (để so sánh,
đối chiếu với thơ Mã Thế Vinh).
- Đọc tham khảo một số công trình nghiên cứu về Văn hóa học, Dân tộc
học và Lý luận phê bình văn học để phục vụ phần cơ sở lý luận và thực tiễn của
đề tài.
6. Cầu trúc luận văn.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung chính của Luận văn có
cấu trúc gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Bản sắc dân tộc trong thơ Nùng thời kỳ hiện đại.
Chƣơng 2: Mã Thế Vinh - Nhà thơ Nùng xứ Lạng.
Chƣơng 3: Nghệ thuật thơ Mã Thế Vinh.
7. Đóng góp của luận văn
Nếu đề tài thực hiện thành công thì đây sẽ là công trình nghiên cứu đầu
tiên, phân tích một cách có hệ thống và khá toàn diện về đặc điểm và thành tựu
thơ ca trong sự nghiệp sáng tác của tác giả Mã Thế Vinh - một nhà thơ dân tộc


9

Nùng tiêu biểu của thơ ca DTTS Việt Nam hiện đại. Từ đó khẳng định những
đóng góp đáng trân trọng của nhà thơ đối với văn học Lạng Sơn nói riêng, với
văn học các DTTS Việt Nam nói chung. Kết quả của luận văn cũng sẽ là một
tài liệu tham khảo phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy văn học địa phương tỉnh

Lạng Sơn.


10

Chƣơng 1

BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ CA NÙNG THỜI KỲ
HIỆN ĐẠI
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1.1. Khái niệm Bản sắc văn hóa dân tộc và Bản sắc văn hóa dân tộc trong
thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam
* Khái niệm: Bản sắc dân tộc và Bản sắc văn hóa dân tộc.
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn đề rất
quan trọng đối với các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là trong thời kỳ hiện đại.
Bởi chính bản sắc dân tộc đảm bảo cho dân tộc tồn tại, phát triển qua tất cả sự
biến động của lịch sử. Nhờ bản sắc dân tộc chúng ta biểu lộ được một cách toàn
vẹn sự hiện diện của mình trong giao lưu với quốc tế. Việc giữ gìn bản sắc dân
tộc là góp phần chống lại nguy cơ đồng hóa về văn hóa trong xu hướng hội
nhập hiện nay.
Từ điển tiềng Việt của Hoàng Phê có định nghĩa: “Bản sắc là màu sắc,
là tính chất riêng, tạo thành đặc điểm chính” [25, tr.31]. Xét nghĩa từ nguyên
tiếng Hán thì bản sắc là màu gốc chưa bị pha trộn, là sắc thái hồn nhiên tự
nhiên chưa bị đẽo gọt, trang điểm tỉa tót. Ở góc độ văn hóa, lịch sử dân tộc,
triết học thì như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Bản sắc là nét
riêng biệt, độc đáo của một dân tộc thể hiện trong một nền văn hóa, nghệ thuật,
trong phong tục tập quán, trong đời sống muôn màu của dân tộc.” [7]. Còn nhà
nghiên cứu Hoàng Trinh thì chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc là tổng thể những tính
chất, tình cảm, tính cách, đƣờng nét, màu sắc biểu hiện ở một dân tộc trong
lịch sử tồn tại và phát triển giúp cho dân tộc đó giữ vững tính duy nhất, tính

thống nhất, tính nhất quán của bản thân mình trong quá trình phát triển”
[34,tr.19]
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã xác định: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,


11

những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đƣợc vun đắp nên qua
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc”. [8,tr.56]
Thuật ngữ bản sắc thường được sử dụng gắn với từ văn hóa và dân tộc.
Nói đến dân tộc là nói đến văn hoá, bản sắc văn hoá và nói đến văn hoá là nói
đến dân tộc, bản sắc dân tộc. Có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá
trị đặc trưng bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển
trong lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản
sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững;
còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi
hơn. Tuy nhiên, nếu dừng lại ở đây thì khái niệm bản sắc văn hóa vẫn là một
khái niệm vô định, vì nói tới văn hóa là nói tới con người và nói tới những dân
tộc cụ thể đã sinh ra, duy trì và phát triển nó. Vì vậy, chỉ khi tiếp cận đến
bản sắc văn hóa của dân tộc thì ý nghĩa của nó mới được thể hiện một
cách trọn vẹn.
Còn về khái niệm Bản sắc văn hóa dân tộc và Bản sắc văn hóa dân tộc
trong vănhọc thì cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà nghiên cứu
lý luận phê bình văn học bàn đến và đưa ra những ý kiến, những nhận định vừa
mang tính khái quát vừa mang tính cụ thể. Ví dụ như: Nhà nghiên cứu Phùng
Quý Nhâm khái quát:“Thuật ngữ bản sắc dân tộc của văn hóa xác định những
đặc điểm độc đáo của nền văn học dân tộc nhƣ một giá trị tạo nên một diện
mạo riêng của dân tộc đó” [17,tr.251]; nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cũng đưa
ra nhận định của mình:“Ta nên hiểu bản sắc nhƣ là một bản chất độc đáo, là

diện mạo tinh thần riêng, là cái suigeneris (bản chất riêng) của sự vật, làm cho
nó phân biệt với cái khác”; và ông cũng chỉ ra bản sắc dân tộc “Là thuộc tính
độc đáo của một nền văn học vừa biểu hiện cái chung của nền văn học ấy, vừa
phân biệt nó với nền văn học khác”. [26,tr.225]
PGS.TS Trần Thị Việt Trung trong công trình nghiên cứu Bản sắc dân
tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nhấn mạnh: “Bản sắc


12

dân tộc là những nét riêng biệt độc đáo của một nền văn hóa, văn học, bao
gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa văn hóa, văn minh của dân tộc
đƣợc vun đắp nên qua lịch sử, tạo thành phong cách dân tộc”. [35, tr.33]
Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hoá Nông Quốc Chấn đã có những phát
hiện khá cụ thể về khái niệm này như: “Bản sắc văn hoá Việt Nam bao gồm
nhiều nét đặc trƣng. Có những nét chung trong văn hoá ngƣời Việt (còn gọi là
ngƣời Kinh). Có những nét riêng trong văn hoá các DTTS. Những nét ấy biểu
hiện trong cách lao động, cách sống, cách kiến trúc, nhà cửa, cách ứng xử giữa
ngƣời với ngƣời… những nét riêng ấy không mâu thuẫn với nét chung; Nó
đang có sự hài hoà” [6,tr.52]
Như vậy có thể hiểu: Bản sắc dân tộc là những nét riêng biệt, độc đáo
của một nền văn hóa, văn học, nó bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa văn hóa, văn mạch của dân tộc được vun đắp nên qua lịch sử, tạo thành
phong cách dân tộc.
Các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học (Hoàng Trinh, Nguyễn
Khoa Điềm, Trần Đình Sử, Phùng Quý Nhâm, Đinh Quang Tồn, Dương Duy
Ngữ, Nguyễn Duy Bắc…) đều có những ý kiến thống nhất khi bàn về vấn đề
bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác văn học. Theo các nhà nghiên cứu trên
thì bản sắc dân tộc trong văn học được thể hiện ở: Đề tài, chủ đề vàcác phƣơng
thức biểu hiện của tác phẩm. Ngoài ra, tác giả Phùng Quý Nhâm còn bổ sung

thêm đó là: Tính cách, tâm hồn dân tộc.Tóm lại, có thể thấy rõ, bản sắc văn
hóa dân tộc trong sáng tác văn học được thể hiện ở những phương diện cơ bản
sau (chúng tôi xin phép được trình bầy lại những ý kiến của những người đi
trước về vấn đề cụ thể này):
Đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học: Đề tài là chỉ các loại hiện tượng
đời sống, được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Còn chủ đề
là vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra nội dung cụ thể của tác phẩm


13

văn học. Như vây, đề tài, chủ đề tác phẩm văn học là những yếu tố quan trọng
đối với nội dung của các tác phẩm văn học.
Đời sống sinh hoạt và con người là những yếu tố cơ bản của đề tài. Đây
cũng chính là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc thể hiện bản sắc dân tộc trong
tác phẩm văn học. Cho nên có thể nói có bao nhiêu hiện tượng đời sống dân tộc
thì có bấy nhiêu đề tài phản ánh về cuộc sống, con người, thiên nhiên, văn hóa…
của dân tộc. Thông qua những hiện tượng được phản ánh trong tác phẩm người ta
có thể nhận biết được nét riêng của mỗi dân tộc.
Bên cạnh đề tài thì bản sắc dân tộc còn được thể hiện qua chủ đề của tác
phẩm. Chủ đề và tư tưởng là hạt nhân cơ bản của nội dung tác phẩm. Nhà văn
thông qua chủ đề tư tưởng để phản ánh lí tưởng thầm mĩ, tinh thần, ý chí, khát
vọng... của dân tộc mình. Đến với những tác phẩm như Nam quốc sơn hà (Lí
Thường Kiệt), Hịch tƣớng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Đại cáo bình Ngô (Nguyễn
Trãi)...ta sẽ nhận thấy được những yếu tố mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.
Đó chính là tinh thần yêu nước nồng nàn, là ý chí đấu tranh quật cường, khẳng
định chủ quyền cho độc lập dân tộc của Việt Nam. Còn khi đến với những tác
phẩm như: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần
Côn - Đoàn Thị Điểm, Thơ của Hồ Xuân Hương ... người đọc sẽ nhận thấy
những giá trị nhân đạo sâu sắc toát lên từ chủ đề tác phẩm. Đó là tiếng nói trân

trọng giá trị con người, bênh vực và cảm thông cho những bất hạnh mà họ gặp
phải... Có thể nói, thông qua tác phẩm văn chương, nhà văn đã phản ánh được
truyền thống dân tộc, tâm hồn và cốt cách dân tộc.
Tính cách dân tộc và tâm hồn dân tộc còn được biểu hiện qua hoàn cảnh
lịch sử và tính cách điển hình của nhân vật. Khi nói đến bản sắc dân tộc là nói đến
con người, đến cộng đồng dân tộc. Nhân vật trong văn học có tính điển hình trong
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể là sự kết tinh cao độ của bản sắc dân tộc.
- Bản sắc dân tộc còn đƣợc thể hiện ở hình thức nghệ thuật của tác
phẩm. Đó chính là việc giữ gìn, sử dụng ngôn ngữ dân tộc để sáng tác. Ngôn


14

ngữ là một bộ phận của văn hóa, nó có giá trị biểu trưng cho dân tộc, nó kết
tinh những quan niệm đã hình thành trong lịch sử phát triển của dân tộc. Cho
nên vấn đề ở đây không phải là tìm hiểu ngữ nghĩa của câu chữ mà thâm nhập
vào cả một nền văn hóa. Khi đọc tác phẩm văn học Việt Nam cần phải có một
vốn tri thức về thành ngữ, tục ngữ, những cách ví von dân gian…của ông cha ta
vun đắp hình thành từ ngàn xưa. Sự kế thừa ngôn ngữ dân tộc (ngôn ngữ tự
nhiên, ngôn ngữ phổ thông, ngôn ngữ quần chúng, ngôn ngữ trong văn thơ
truyền thống) đã giúp các nhà thơ có điều kiện sử dụng nhuần nhuyễn và sâu
sắc vốn ngôn ngữ của dân tộc mình. Các từ, nhóm từ, tục ngữ, ca dao, lời ăn
tiếng nói hàng ngày đã mang tính ước lệ tượng trưng cao đều được các nhà thơ
dân tộc vận dụng trong sáng tạo nghệ thuật.
Bản sắc dân tộc thể hiện ở sự vân dụng hệ thống kết cấu và thể loại
truyền thống. Mỗi dân tộc có một truyền thồng văn hóa riêng của mình. Đó là
kho báu kết tinh những giá trị cao đẹp của một hệ thống thi pháp mà các thế hệ
trước để lại. Một nhà văn chân chính luôn biết kết thừa và phát huy những
truyền thống tốt đẹp đó.
Thể loại là một yếu tố góp phần thể hiện rất rõ bản sắc dân tộc: Puskin

đã vận dụng những thể thơ ca truyền thống của dân tộc mình một cách nhuần
nhuyễn và sáng tạo nên đã được mệnh danh là “Mặt trời thi ca Nga”. Trong thơ
của ông mang âm hưởng của những làn điệu dân gian Nga, vì thế nó đã diễn đạt
được sinh động tâm hồn Nga. Dân tộc Việt Nam coi thể thơ lục bát là thể thơ
đặc trưng của dân tộc chính vì thế từ khi ra đời đến nay nó vẫn được vận dụng
như một phương thức thể hiện hiệu quả nét bản sắc dân tộc Việt. So với thơ thì
lịch sử phát triển của văn xuôi còn rất trẻ, văn xuôi nghệ thuật DTTS còn trẻ
hơn nữa. Trong văn xuôi, thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết chiếm đại đa số.
Hình thức thể loại này bắt nguồn từ hình thức của truyện cổ dân gian của người
Việt và của cộng đồng DTTS. Cho tới nay, truyện ngắn và tiểu thuyết vẫn được


15

sử dụng như những thể loại chính thống trong tác phẩm tự sự của dân tộc Việt
nói chung, của các DTTS nói riêng. Ví dụ như:
Trong truyện cổ tích ta thường thấy xuất hiện lối kết thúc có hậu. Bởi nó
đã phản ánh được khát vọng bao đời của con người Việt Nam là “Ở hiền gặp
lành”, “Ác giả, ác báo”. Kiểu kết cấu này đã được kế thừa một cách sáng tạo
trong sáng tác văn học từ dân gian đến hiện đại.
Như vậy, muốn thể hiện được bản sắc văn hóa dân tộc trong văn chương
thì trong lao động sáng tạo nghệ thuật - mỗi nhà văn phải thể hiện được tâm
hồn, tính cách dân tộc qua cách cảm, cách nghĩ, cách nói riêng của dân tộc
mình; và thể hiện một cách sáng tạo những nét đẹp của truyền thống văn hóa
dân tộc trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Có thể nói, mỗi một nhà
văn (dù là người dân tộc nào), dù viết về đề tài nào, cũng phải thể hiện được
bản lĩnh dân tộc và cá tính sáng tạo của cá nhân mình. Nếu thiếu đi những điều
này, các nhà văn sẽ dễ dàng để mất đi bản sắc dân tộc trong sáng tác của mình.
*Bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ ca dân tộc thiểu số
Bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ ca DTTS vừa có sự thống nhất với bản

sắc dân tộc trong văn học Việt Nam nói chung, nhưng lại mang những nét
riêng, độc đáo. Thơ ca DTTS là do các nhà thơ DTTS sáng tạo ra. Bản sắc dân
tộc trong thơ DTTS là bản sắc dân tộc – dân tộc của chính nhà thơ dân tộc sáng
tác ra. Bản sắc dân tộc trong thơ DTTS là những nét riêng biệt độc đáo trong
truyền thống lâu đời của các DTTS được kết tinh, biểu hiện trong thơ. Chính vì
vậy, các nhà thơ DTTS luôn có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của
dân tộc mình. Đây là một việc làm hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối
với sự tồn tại và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc. Các
tác giả trong cuốn “Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam
thời kỳ hiện đại” đã chỉ ra khá rõ và cụ thể về vấn đề này như sau:
Trở về với cội nguồn văn hóa dân tộc là một trong những phương cách
tốt nhất để làm lên bản sắc dân tộc trong thơ. Với các nhà thơ DTTS thì điều đó


16

trước hết là trở về với ngôn ngữ dân tộc (tiếng mẹ đẻ) để sáng tác. Quá trình kế
thừa và sử dụng vốn quý này sẽ góp phần tô đậm bản sắc dân tộc cho thơ, bởi
ngôn ngữ là một biểu hiện quan trọng nhất của đặc tính dân tộc. Những sáng
tác đầu tiên của các nhà thơ miền núi hiện đại thường được viết bằng tiếng dân
tộcvà hầu như không người làm thơ DTTS nào lại không từng dùng thứ ngôn
ngữ mẹ đẻ của mình để sáng tác. Quá trình này đòi hỏi người viết phải có sự
sáng tạo rất nhiều dựa trên khả năng tiềm tàng của thứ ngôn ngữ bản địa. Như
chúng ta đã biết, những sáng tác thơ ca của các nhà thơ DTTS đến được với
đông đảo bạn đọc phải thông qua việc dịch ra tiếng mẹ đẻ. Thật khó có thể
chuyển tải được hết những cảm nghĩ tinh tế, kín đáo, những ẩn ý chỉ có thể diễn
đạt được bằng tiếng dân tộc với các tập quán, cùng các phương cách phô diễn
và lĩnh hội đặc thù của người DTTS. Nhưng cũng phải nói, nhiều bài thơ được
dịch sang tiếng Việt về căn bản vẫn đảm bảo được tứ thơ, hệ thống hình ảnh,
cách cấu tạo và những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng. Đó là kết quả của

việc lao động sáng tạo để tạo ra thể “song ngữ”. Đã có rất nhiều các tác giả
thành công trong việc sử dụng hình thức thơ song ngữ mà chúng ta có thể kể
đến như các bài thơ: Việt Bắc chuyển mình, Hiến pháp ban hành nhƣ mùa
xuân, đẹp… của nhà thơ Mã Thế Vinh; Dọn về làng, Bộ đội ông cụ, Bài thơ
Pắc Bó, Chiếc đàn tính và tiếng hát ngƣời nghệ sĩ mù, Đảng ngƣời mẹ quang
vinh của nhà thơ Nông Quốc Chấn… và còn nhiều nhà thơ khác cũng thành
công theo hướng này. Để góp phần tô đậm bản sắc dân tộc cho thơ khi dịch ra
tiếng Kinh, hoặc viết bằng tiếng Kinh các nhà thơ dân tộc đã đưa nhiều từ (cụm
từ) dân tộc vào trong sáng tác. Đó là những danh từ chỉ sự vật riêng chỉ có ở
miền núi hoặc những từ có sắc thái đặc biệt như: Giàng (trời); Khuổi slao (suối
con gái); Pò (núi); Điếp (yêu); Pí noọng (anh, em) Sli, phong slƣ…
Có thể thấy, nhờ việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ làm chất liệu và làm công
cụ tư duy và sự sáng tạo trong trạng thái song ngữ, tác phẩm của các nhà thơ
DTTS đã thể hiện được một phần bản sắc của dân tộc mình. Bởi vì một bài thơ


17

của người dân tộc mà không nói lên tâm hồn của dân tộc mình thì không được
goi là bản sắc văn hóa dân tộc nữa.
Bản sắc dân tộc đƣợc thể hiện trong thơ ca dân tộc thiểu số qua chủ
thể sáng tác. Nhà văn bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, một nền văn hoá nhất
định. Cho nên bản sắc dân tộc trong văn học liên quan chặt chẽ tới chủ thể sáng
tạo ra nó. Chính họ là người bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc dân tộc
trong văn học, làm cho bản sắc đó không mất đi mà trường tồn mãi mãi.
Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: "Có thể nói rằng bản sắc
của nghệ thuật dân tộc do chính những nghệ sĩ dân tộc tạo ra" [5,tr.41].
PGS.TS Nguyễn Duy Bắc cũng đưa ra nhận định: "Bản sắc dân tộc trong văn
học là do chính nhà văn dân tộc sáng tạo ra... ". Với phương pháp tiếp cận bản
sắc dân tộc trong thơ các DTTS Việt Nam như vậy, tác giả Nguyễn Duy Bắc đã

làm rõ bản sắc dân tộc thể hiện trong thơ DTTS Việt Nam hiện đại và nhấn mạnh:
"Bản sắc dân tộc trong thơ dân tộc là bản sắc dân tộc - dân tộc của chính nhà thơ sáng
tạo ra nó". Có lẽ, các nhà văn, nhà thơ DTTS là người nhạy cảm và thấy rõ vấn
đề này hơn ai hết. Nhà nghiên cứu Lâm Tiến có cái nhìn cụ thể hơn: “Bản sắc
dân tộc trong văn học là do chính nhà văn sáng tạo ra, nó là sự thể hiện tâm
hồn, tính cách dân tộc qua cách cảm, cách nghĩ, cách nói riêng của nhà văn, là
sự thể hiện một cách đẹp đẽ sáng tạo những truyền thống văn hóa của dân tộc
trong những điều kiện lịch sử nhất định” [31]. Còn nhà thơ Inrasara (dân tộc
Chăm) nói: "Không ai có thể hát thay chúng ta"…
Các nhà văn, nhà thơ là người dân tộc thiểu số là người con của dân tộc,
được sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc, nên họ có cách cảm, cách nghĩ,
cách diễn đạt riêng, thể hiện được rõ truyền thống văn hoá của dân tộc mình
và nói lên tiếng nói, tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của chính dân tộc mình.
Đại đa số các nhà văn, nhà thơ DTTS đều là những người con, người em của
chính dân tộc mình, họ sinh ra và lớn lên trên chính quê hương của mình, nên
họ là những người vô cùng am hiểu về cuộc sống, thiên nhiên, con người, về


18

phong tục tập quán của dân tộc mình. Vì vậy, khi sáng tác các nhà văn, nhà
thơ đã đưa vào sáng tác của mình những nét đặc trưng tiêu biểu nhất về bản
sắc văn hoá của dân tộc mình. Tiếng nói của họ thể hiện trong các sáng tác
của mình chính là tiếng nói của dân tộc đã sinh ra họ.
Như vậy, một tác phẩm muốn có được bản sắc dân tộc, nhà văn phải gắn
bó chặt chẽ với cội nguồn của nền văn hóa đó, phải hiểu sâu sắc và yêu tha thiết
truyền thống văn hoá của dân tộc mình, có cảm hứng từ cội nguồn văn hóa đó,
có tài năng, có sự sáng tạo và thể hiện bản sắc đó trong cả nội dung và hình
thức nghệ thuật.
Bản sắc dân tộc đƣợc thể hiện qua đối tƣợng phản ánh: Đó là đề tài, chủ

đề mà nhà thơ nhận thức, khám phá từ sự tổ hợp các đặc điểm về tự nhiên về xã
hội, về các phong tục tập quán của dân tộc; từ các vấn đề có sức ám ảnh trong
quá trình sáng tác của nhà thơ. Trong bài “Trả lời bạn thơ Mƣờng”, nhà thơ
Nông Quốc Chấn đã viết: “Dân tộc mình nói hàng ngày nhƣ thế nào? Nơi ở ra
sao? Làm ruộng làm nƣơng bằng cách gì? Nhà cửa, quần áo, điệu hát, điệu
múa, phong tục, tình hình có gì đặc biệt” [16,tr50]. Nông Quốc Chấn đã khái
quát được vấn đề là: Toàn bộ đối tượng phản ánh của thơ ca DTTS đều gắn với
đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Cụ thể là:
- Đối tƣợng phản ánh là môi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng xã hội: Mỗi
dân tộc, mỗi vùng miền đều sống trong những không gian thiên nhiên khác
nhau mang những nét đặc trưng riêng của mình. Nếu như những con người của
đồng bằng sống trên những vùng đất bằng phẳng, phì nhiêu, màu mỡ với những
cánh đồng xanh ngút mắt, những dòng sông đỏ nặng phù sa... thì trong sáng tác
của các nhà văn, nhà thơ DTTS - không gian thiên nhiên hiện ra đó là những
con suối, những dòng sông vốn hiền hòa, thơ mộng nhưng cũng thật dữ dội,
đầy hiểm nguy khi mùa nước lũ… Môi trường thiên nhiên ở đây là những dãy
núi sừng sững, là sự ngút ngàn của rừng cây, là những ruộng bậc thang, những
ngôi nhà sàn, là những chiếc cọn nƣớc kẽo kẹt đưa nước suối lên ruộng…


19

- Đối tƣợng phản ánh là những sinh hoạt văn hóa của dân tộc: Chính
nếp sống sinh hoạt là cơ sở tạo nên bản sắc dân tộc. Người DTTS sống hòa hợp
với núi rừng, với thiên nhiên, họ sống hòa hợp với nhau - đó là cái gốc của tinh
thần nhân ái, đoàn kết, quý trọng con người… Bên cạnh đó, những sinh hoạt
văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc cũng ăn sâu vào tâm thức các nhà thơ
DTTS. Những lễ hội, những phong tục tập quán là những kết tinh của truyền
thống văn hóa dân tộc luôn được phản ánh trong những sáng tác của các nhà
thơ DTTS. Nét đẹp trong các hoạt động văn hóa như những trò chơi dân gian;

những hình thức diễn xướng như: Tung còn, ném yến, đánh đu, hát then, hát sli,
hát lượn… đã phản ánh được đời sống tinh thần phong phú của đồng bào DTTS
Việt Nam trong tác phẩm của các nhà thơ DTTS.
- Đối tƣợng phản ánh còn là đời sống tâm hồn, tính cách của con ngƣời
dân tộc: Đặc điểm nổi bật nhất của người dân tộc miền núi là họ sốngvới nhau
rất mộc mạc, chân thành, có cái gì đó “rất nguyên sơ” nhưng cũng rất văn hóa,
văn minh. Họ hiền lành, tốt bụng, cả tin, lãng mạn, phòng khoáng… nhưng
cũng rất quyết liệt, rắn rỏi, bản lĩnh. Trong các tác phẩm thơ của: Nông Quốc
Chấn, Bàn Tài Đoàn, Mã Thế Vinh, Mã A Lềnh, Pờ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Y
Phương, Insara, Bùi Tuyết Mai… những đặc điểm đó trong đời sống tâm hồn,
trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày của người miền núi đã luôn được phản
ánh một cách rõ nét và sinh động.
Có thể nói, bản sắc dân tộc thể hiện trong thơ ca các DTTS được kết tinh
ở đối tƣợng phản ánh, ở thế giới hình tƣợng mang đậm màu sắc dân tộc được
nhà thơ sáng tạo ra. Thế giới đó được thể hiện thông qua sự cảm nhận, thông
qua những quan niệm của các nhà văn về cuộc sống, con người miền núi và
cách phản ánh mang đậm nét cá tính sáng tạo của tứng nhà văn.
Bên cạnh đó, bản sắc dân tộc còn đƣợc thể hiện ở hình thức nghệ
thuật của tác phẩm. Hình thức nghệ thuật ấy là ngôn ngữ, là kết cấu, là cốt
truyện và hệ thống thể loại.Người nghệ sĩ bao giờ cũng muốn chuyển tải hết


20

điệu hồn của dân tộc mình vào tác phẩm văn chương. Một trong những phương
thức giúp chuyển tải tốt nhất chính là ngôn ngữ. Vì thế đã có những nhà văn,
nhà thơ dùng tiếng mẹ đẻ để sáng tạo thơ văn. Dường như chỉ có thứ tiếng ấy
mới diễn tả được đúng và đủ những tư tưởng, tình cảm, những khát vọng, ước
ao... của đồng bào dân tộc mình. Hơn nữa, họ còn đưa vào sáng tác của mình
cách diễn đạt, cách nói quen thuộc của người DTTS. Hệ thống thành ngữ, tục

ngữ giàu sắc thái dân gian, dân tộc cũng được sử dụng như một phương tiện
nghệ thuật mang lại hiệu quả cao trong việc thể hiện bản sắc dân tộc trong tác
phẩm văn chương.
Các tác giả: Bàn Tài Đoàn, Vương Anh, Vương Trung, Dương Thuấn, Y
Phương, Inrasara…là những nhà thơ DTTS hay sử dụng tiếng mẹ đẻ trong các
sáng tác của mình.Vì thế,các nhà thơ đã thể hiện được đặc điểm vềtâm lý, con
người cùng truyền thống văn hoá của dân tộc mình vào trong các sáng táccụ
thể. Như vậy, ngôn ngữ trong tác phẩm không chỉ đơn thuần là công cụ nữa
mà nó trở thành một nét bản sắc của văn hoá dân tộc. Mỗi từ ngữ được nhà thơ
sử dụng trong sáng tác của mình trở thành kết tinh của truyền thống văn hoá
dân tộc. Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ để sáng tạo nghệ thuật, các nhà
văn, nhà thơ DTTS sáng tác bằng tiếng Kinh ngày càng nhiều, nhưng họ vẫn
thểhiện chân thực, sinh động tư tưởng, tình cảm dân tộc bằng cách kế thừa,
sáng tạo những tinh hoa trong vốn văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Vì
vậy, việc sử dụng tiếng Kinh để sáng tác vẫn không làm mất đi bản sắc dân tộc,
bởi cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ vẫn mang đậm màu sắc của DTTS.
Bản sắc dân tộc còn biểu hiện ở sự vận dụng các hình thức thể loại thơ
ca truyền thống. Thơ ca DTTS có sự thấm nhuần sâu đậm củavăn hoá và văn
học dân gian, bởi thơ ca dân tộc thiểu số được phát triểnthẳng từ thơ ca dân
gian lên thơ ca hiện đại - nên có sự ảnh hưởng hết sức sâu đậm củavăn hoá và
văn học dân gian. Mỗi dân tộc có những làn điệu dân ca, điệu thơ riêng như:
Người Tày - Nùng có những điệu sli, lƣợn, phong slƣ, soong hao,...người Dao


×