Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Nhân vật mang yếu tố kì ảo trong truyện kì từ thế kỷ XVIII đến thế kỉ XIX (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 112 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHAN THỊ THANH TÂM

NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO
TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TỪ THẾ KỶ XVIII
ĐẾN THẾ KỈ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2016


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHAN THỊ THANH TÂM

NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO
TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TỪ THẾ KỶ XVIII
ĐẾN THẾ KỈ XIX


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn: TS. NGÔ THỊ THANH NGA

THÁI NGUYÊN - 2016


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Nhân vật mang yếu tố kì ảo trong truyện
truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Không sao chép của ai. Các kết quả của đề tài là trung thực và chưa được công
bố ở các công trình khác.
Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên
các tác phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận
văn. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn

Phan Thị Thanh Tâm

i



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



LỜI CẢM ƠN
Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Ngô Thị Thanh Nga
- Người đã tận tình hướng dẫn giúp em trong suốt em trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn tới Ban giám hiệu, các phòng ban chức năng,
Khoa sau Đại học, Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, cùng
các thầy cô đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực
hiện luận văn.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, các bạn lớp Văn học Việt Nam K22 đã động viên, khích lệ giúp đỡ
trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 22 tháng 6 năm 2016
Tác giả

Phan Thị Thanh Tâm

ii


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5
7. Bố cục của đề tài .............................................................................................. 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........... 7
1.1. Một số vấn đề về truyện truyền kì ................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm................................................................................................... 7
1.1.2. Quá trình phát triển .................................................................................... 8
1.1.3. Nhân vật văn học và nhân vật truyện truyền kì ....................................... 15
1.2. Một số tác phẩm truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX............. 23
1.2.1. Truyền kì tân phả ..................................................................................... 23
1.2.2. Tân truyền kì lục ...................................................................................... 26
1.2.3. Lan Trì kiến văn lục................................................................................. 29
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO
TRONG TRUYỀN KÌ TÂN PHẢ; TÂN TRUYỀN KÌ LỤC;
LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC .................................................................. 34
2.1. Nhân vật người kì lạ ................................................................................... 34
2.1.1. Xuất thân.................................................................................................. 35
2.1.2. Ngoại hình .............................................................................................. 38
iii



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



2.1.3. Tính cách, phẩm chất ............................................................................. 40
2.2. Nhân vật thần tiên ....................................................................................... 48
2.2.1. Xuất thân.................................................................................................. 49
2.2.2. Ngoại hình ............................................................................................... 52
2.2.3. Tính cách, phẩm chất ............................................................................... 53
2.3. Nhân vật ma quỷ ......................................................................................... 57
2.3.1. Xuất thân.................................................................................................. 59
2.3.2. Ngoại hình ............................................................................................... 62
2.3.3. Tính cách, phẩm chất ............................................................................... 65
2.4. Nhân vật loài vật ......................................................................................... 67
2.4.1. Xuất thân ................................................................................................. 68
2.4.2. Tính cách, phẩm chất ............................................................................. 72
Chương 3. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA TÁC PHẨM QUA HỆ THỐNG
NHÂN VẬT MANG YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ
TỪ THẾ KỈ XVIII ĐẾN THẾ KỈ XIX............................................................. 78

3.1. Khát vọng của con người, đặc biệt là khát vọng tình yêu của người
phụ nữ ...................................................................................................... 78
3.2. Phản ánh hiện thực...................................................................................... 81
3.3. Thể hiện mong ước của tác giả ................................................................... 88
KẾT LUẬN....................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 100

iv



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại là một bộ phận quan trọng của nền văn học Việt Nam.
Đi hết chặng đường của mình,văn học trung đại đã đạt được những thành tựu
rực rỡ, để lại những dấu ấn riêng với nhiều tác giả tên tuổi cùng với những tác
phẩm nổi tiếng.
Truyền kì là một thể loại của văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại.
Loại hình văn học kì ảo này đã và đang thu hút sự quan tâm của các nhà sáng
tác cũng như giới nghiên cứu văn học. Sự chuyển biến của một giai đoạn, thời
kì văn học, theo Bakhtin, được đặc trưng bởi sự thay đổi của đời sống thể loại.
Thế nhưng, thể loại đang sống trong hiện tại bao giờ cũng nhớ đến quá khứ của
nó bởi “đằng sau mỗi một loại văn học đều có một truyền thống lớn lao tuy ẩn
mà hiện”.
Tìm về với truyền kì, người ta nhận ra đây là một “đặc sản” của văn học
phương Đông so với văn học phương Tây. Ở phương Tây, chỉ đến cuối thế kỷ
XVIII, truyện ma và văn học kì ảo mới thực sự ra đời (dẫn theo Ngô Tự Lập).
Trong khi đó, ở phương Đông, ngay từ thế kỉ IX ở Trung Quốc, văn học kì ảo
đã phát triển mạnh mẽ và kết tinh ở thể loại truyền kì. Ở Việt Nam Truyền kì
mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Tân truyền kì lục
(Phạm Qúy Thích) và Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh) là những tập truyện
truyền kì giữ vai trò đặc biệt trong quá trình phát triển, đồng thời cũng là kết
tinh của truyền kì Việt Nam.
Thể loại truyền kì được giảng dạy và học tập xuyên suốt các cấp học. Vì
vậy nghiên cứu truyện truyền kì là một dịp để người viết có điều kiện nghiên
cứu và hiểu sâu sắc hơn về thể loại này giúp cho công việc giảng dạy có được
hiệu quả hơn.

1


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



Chính vì những lý do trên khiến người viết quyết định chọn: “Nhân vật
mang yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX” làm
đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình để người đọc hiểu sâu hơn về vị trí, vai trò
của việc xây dựng nhân vật truyện truyền kì, đồng thời giúp cho người học có
thêm hiểu biết mới về kiểu nhân vật mang yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì và
có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về thể loại trong giai đoạn này.
2. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát loại hình nhân vật mang yếu tố kì ảo trong
những tác phẩm từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX với: Truyền kì tân phả (Đoàn
Thị Điểm), Tân truyền kì lục (Phạm Qúy Thích) và Lan Trì kiến văn lục (Vũ
Trinh) với mục đích làm rõ thêm những đặc điểm của loại nhân vật truyện
truyền kì cũng như hiểu hơn về tư tưởng của các tác giả gửi gắm qua những tác
phẩm truyền kì ưu tú này. Ngoài ra cũng chỉ rõ hơn đóng góp của từng tác
phẩm riêng lẻ nói riêng và của thể loại truyền kì nói chung cho văn xuôi trung
đại Việt Nam.
3. Lịch sử vấn đề
Căn cứ vào tình hình tư liệu hiện nay, có thể khẳng định rằng nhân vật
truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX là một vấn đề chưa được các
nhà nghiên cứu quan tâm, xem xét một cách đầy đủ. Nếu có cũng chỉ là những
bài nghiên cứu về những một tác phẩm hay một vài tác phẩm riêng lẻ và
thường thiên về một loại nhân vật như: người trí thức, người phụ nữ. Cụ thể các
công trình, bài viết có liên quan đến đề tài mà tôi nghiên cứ như sau:
1. Truyền kì tân phả

Với tác phẩm này, chúng tôi chú ý đến một số bài viết và công trình sau:
Thứ nhất “Đoàn Thị Điểm và Truyền kì tân phả” của Bùi Thị Thiên
Thai, Tạp chí văn học, số 1/2011 đã đề cập đến số phận, vị trí và vai trò của
người phụ nữ trong xã hội, đồng thời khẳng định tác phẩm này được ra đời vào
2


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



thế kỉ XVIII, bởi đây là thời kỳ trào lưu chủ nghĩa nhân đạo phát triển mạnh, đề
cao nữ quyền. Bài viết cho người đọc thấy những đóng góp của Đoàn Thị Điểm
cho dòng văn học nhân đạo chủ nghĩa.
Thứ hai là công trình của Trần Thị Băng Thanh và Bùi Thị Thiên Thai
“Mối liên hệ giữa Truyền kì tân phả và lễ hội dân gian”. Qua công trình này,
các tác giả đã chỉ ra được luồng sinh khí mới mà Đoàn Thị Điểm đã tạo dựng
trong tác phẩm của mình về văn hóa dân gian như tín ngưỡng thờ mẫu, thờ tổ
tiên… tiếp thêm sức mạnh cho tác phẩm tồn tại lâu bền.
Thứ ba trong cuốn chuyên khảo Mấy vấn đề thi pháp văn học trung
đại Việt Nam, Trần Đình Sử ở mục truyện truyền kì, có giới thiệu và nhận
xét về Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm nhưng chưa bàn đến nhân vật
của tác phẩm.
2. Tân truyền kì lục
Như Lời giới thiệu của Nhà xuất bản Văn học, Phạm Quý Thích soạn
riêng tác phẩm này cho gia đình không muốn cho người ngoài biết nên sách
này ít thấy. Mặt khác số lượng truyện trong Tân truyền kì lục cũng khá khiêm
tốn (3 truyện) nên sự quan tâm của giới nghiên cứu về tác phẩm cũng không
nhiều. Tuy nhiên trong luận văn Thạc sĩ Quá trình phát triển của truyện truyền
kì qua một số tác phẩm tiêu biểu của tác giả Ngô Thị Thanh Nga cũng đã đề

cập đến tác phẩm này ở giai đoạn thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX và sơ bộ chỉ ra
điểm khác biệt về chất truyền kì (trong đó có phương diện xây dựng nhân vật).
Đây là những gợi ý bổ ích để chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Lan Trì kiến văn lục
Nói đến thành tựu của truyện truyền kì Việt Nam, chúng ta không thể bỏ
qua Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh. Là tác phẩm văn xuôi tự sự Việt Nam
trung đại, nhìn chung những nghiên cứu về tác phẩm này còn ít, ở đây chúng
tôi chỉ điểm qua một vài ý kiến liên quan đến đề tài nghiên cứu:
3


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



Trong Từ điển văn học (bộ mới), tác giả Nguyễn Huệ Chi cho rằng hiện
tượng phá vỡ khuôn phép của những con người thời đại là chủ đề nổi rõ nhất
của Lan Trì kiến văn lục. Sự phá vỡ này có mặt tiêu cực và tích cực của nó.
Còn Ngô Thị Hoàng khi viết đề tựa Lan Trì kiến văn lục đã khẳng định: “…lớn
thì nhân vật quỷ thần, nhỏ thì cầm thú ngư trùng, những việc gì lạ mà mắt thấy
tai nghe đều ghi lại… có nói đến việc quái dị nhưng không thoát ly đạo thường,
có kể về diễn biến hóa nhưng không mất đi lẽ chính, đại để là ngụ ý khuyên răn
cảnh cáo sâu xa, để người xem thấy điều hay thì bắt chước, thấy điều dở thì
phòng ngừa, thực có ích cho thế gian” [59, tr.11-12].
Bên cạnh đó, trong hai bài viết: “Vũ Trinh và Lan trì kiến văn lục trong
dòng truyện truyền kì Việt Nam”, trích trong “Những suy nghĩ từ văn học trung
đại”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999 của Trần Thị Băng Thanh và “Vũ
Trinh và Kiến văn lục” của Nguyễn Cẩm Thúy, Tạp chí văn học, số 3/1983, hai
tác giả chủ yếu đi sâu về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm chứ chưa nói
nhiều về tuyến nhân vật trong truyện.

Như vậy qua sự trình bày trên, chúng tôi nhận thấy rằng đã có khá nhiều
công trình nghiên cứu, bài viết về truyện truyền kì (bao gồm 3 tác phẩm), chủ
yếu về niên đại, tên tuổi của tác giả, xoay quanh nội dung và nghệ thuật của
truyện, đồng thời cũng có một số công trình có đề cập đến nhân vật nhưng chưa
có một công trình, bài viết nào đi chuyên sâu nghiên cứu về nhân vật của thể
loại này từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, với sự tiếp nối và vận động trong cách
xây dựng loại hình nhân vật. Do vậy trên tinh thần tiếp thu học hỏi, người viết
tiến hành nghiên cứu nhân vật của thể loại truyện truyền kì trong giai đoạn này
để thấy được các tuyến nhân vật, biểu hiện cụ thể của các tuyến nhân vật đó,
qua đó làm rõ những tiếp nối và cách tân trong cách xây dựng nhân vật của thể
loại truyền kì.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật mang yếu tố kì ảo trong một số truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII
đến thế kỉ XIX.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, người viết xác định phạm vi nghiên cứu ở những tác phẩm
- Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm (Gồm 06 truyện).
- Tân truyền kì lục của Phạm Qúy Thích (Gồm 03 truyện).
- Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh (Gồm 45 truyện).
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về khái niệm, bản chất, nguồn gốc, quá trình hình thành và phát
triển của thể loại truyền kì.

Làm rõ khái niệm: nhân vật văn học và nhân vật truyền kì.
Thống kê nhân vật, phân tích đặc điểm cụ thể của loại hình vật mang yếu
tố kì ảo trong một số truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX. Qua đó
chỉ rõ tư tưởng của tác giả trong việc xây dựng loại hình nhân vật này.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử cụ thể: Luận văn tìm hiểu các nhân vật mang yếu
tố kì ảo trong, Truyền kì tân phả, tân truyền kì lục, Lan trì kiến văn lục, tức là
đề cập đến tác phẩm của từng tác giả cụ thể. Người viết vận dụng phương pháp
này để tìm hiểu sự tương tác giữa môi trường văn hóa, thời đại với tác giả để có
cái nhìn thấu đáo cặn kẽ và lý giải được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Phương pháp phân tích: Công trình nghiên cứu sử dụng phương pháp
này để phân tích tình hình lịch sử, các số liệu thống kê có liên quan trong đề tài,
để người đọc hiểu rõ hơn mục đích mà người nghiên cứu đưa ra.
- Phương pháp thống kê phân loại: Sử dụng để chỉ ra tần suất xuất hiện
những vấn đề khảo sát, đặc biệt là khi tìm hiểu các loại hình nhân vật mang yếu
tố kì ảo trong tác phẩm, kết quả của việc thống kê số liệu góp phần tăng thêm
tính chính xác và tính thuyết phục cho luận văn.
5


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sử dụng phương pháp so sánh lịch đại
và đồng đại, thời gian sáng tác, lịch sử xã hội ảnh hưởng đến quá trình sáng tác
để đối chiếu so sánh ba tác phẩm với nhau, để từ đó thấy được những đóng góp
của tác phẩm và quá trình phát triển của thể loại truyền kì.
- Phương pháp tổng hợp, khái quát vấn đề
Những phương pháp trên không phải được sử dụng độc lập, mà trong quá

trình nghiên cứu và thực hiện công trình, người viết đã phối kết hợp sử dụng
các phương pháp để đạt kết quả cao nhất.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, phần Nội dung chính
của đề tài gồm:
Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài.
Chương 2: Đặc điểm nhân vật mang yếu tố kì ảo trong Truyền kì tân
phả; Tân truyền kì lục; Lan Trì kiến văn lục.
Chương 3: Nội dung tư tưởng của tác phẩm qua hệ thống nhân vật mang
yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX.

6


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề về truyện truyền kì
1.1.1. Khái niệm
Thể loại truyền kỳ có nhiều định nghĩa
Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1992 thì “kỳ” có nghĩa là lạ lùng.
Theo tác giả Đoàn Lê Giang trong bài viết “Vũ nguyệt vật ngữ của Ueda
Akinari và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ” thì “kỳ là cái khác thường, cái
hiếm có thậm chí là không hề có trong hiện thực” [25, tr. 51].
Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi: Tiểu thuyết truyền kì còn gọi là truyện truyền kì và được xác định như sau:

“Thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở đời
Đường… Kì nghĩa là không có thực nhấn mạnh tính chất hư cấu. Thoạt đầu
tiểu thuyết truyền kì mô phỏng truyện chí quái thời Lục triều, sau phát triển độc
lập. Có loại miêu tả cuộc đời biến ảo như mộng.. có loại ca ngợi tình yêu nam
nữ… có loại miêu tả hào sĩ hiệp khách…” [28, tr. 342].
Các tác giả Từ điển văn học (bộ mới) giới thuyết về khái niệm này đầy
đủ, chi tiết hơn: “Một hình thức văn xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ
truyện kể dân gian, sau các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử
dụng các môtip kì quái, hoang đường lồng vào trong cốt truyện có ý nghĩa trần
thế (…) Tuy nhiên trong truyện bao giờ cũng có nhân vật là người thật và
chính nhân vật mang hình thức phi nhân thì cũng chỉ là sự cách điệu, phóng
đại của tâm lí, tính cách một loại người nào đấy, và vì thế truyện truyền kì
mang đậm yếu tố nhân bản, có giá trị nhân bản sâu sắc” [29, tr. 447].
7


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



Như vậy, định nghĩa về thể loại này khá thống nhất. Nhìn chung, các nhà
nghiên cứu đều thống nhất truyền kì là một thể loại văn xuôi tự sự thời trung
đại được đặc trưng bởi tính chất hư cấu, kì lạ trong nhân vật, cốt truyện, nhằm
phản ánh hiện thực cuộc sống.
1.1.2. Quá trình phát triển
Truyện truyền kì hay còn gọi là tiểu thuyết truyền kì là một hình thức
văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc xuất hiện vào đời Đường. Xuất hiện trong
văn học với tư cách là một thể loại truyện văn xuôi tự sự, tiểu thuyết truyền kì
bắt đầu có từ thời Ngụy - Tấn, Nam Bắc Triều (Trung Hoa) (khoảng từ thế kỉ
thứ III đến đầu thế kỉ VI) với tên gọi đầu tiên là chí nhân, chí quái. Chúng bắt

nguồn từ những chuyện trong dân gian. Tuy khoác áo hoang đường kì ảo,
nhưng phần lớn chí nhân, chí quái thời này vẫn phản ánh được ở một mức độ
nhất định hiện thực cuộc sống đương thời. Đó là lối sống hủ bại của giai cấp
phong kiến, nỗi khổ của người dân lao động, niềm mơ ước của họ về một xã
hội công bằng tốt đẹp và tinh thần đấu tranh bất khuất của họ chống cường
quyền. Truyện truyền kì thời Đường ra đời trên cơ sở truyện chí quái thời Lục
triều (Thế kỉ III - Thế kỉ VI), tiêu biểu là các truyện: U minh lục; Bạch Vân
truyện; Du tiên quật… Truyện chí quái là một thể loại văn xuôi tự sự trong văn
học Trung Quốc, thường ghi chép lại những điều li kì, quái đản, xuất hiện dưới
thời Lục triều. Nội dung rất phức tạp, có loại ghi những câu chuyện kì lạ về địa
lý, động thực vật, có truyện mang tính chất dã sử, có chuyện kể về những
truyện thần quái… Đằng sau yếu tố hoang đường kì ảo là hiện thực mà tác giả
muốn đề cập đến, rồi chuyển sang tình yêu tài tử giai nhân, tiêu biểu là các
truyện Lý Oa truyện, Oanh Oanh truyện. Đây cũng là thời kì phát triển cao của
tiểu thuyết truyền kì với nhiều tác giả và tác phẩm nổi tiếng. Yếu tố thần kì
trong giai đoan này không phải do lực lượng siêu nhiên được nhân hóa như
truyện thần thoại hay như trong truyện cổ tích mà phần lớn ở ngay hình thức
8


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



“phi nhân tính” của nhân vậy như hồn ma, hồ ly… tuy nhiên trong truyện bao
giờ cũng có nhân vật là người. Đến thời kì cuối, truyện truyền kì nổi bật với
truyện về hào khí hiệp khách.
Đến thời Minh - Thanh thì tên gọi truyền kì không chỉ dùng để chỉ một
thể loại tự sự mà nó còn dùng để chỉ loại văn học diễn xướng. Thời kì Minh Thanh cũng là một trong những giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm của truyền
kì, chí dị, trong đó nổi bật hai tên tuổi lớn là Cù Hựu - tác giả Tiễn đăng tân

thoại và Bồ Tùng Linh - tác giả Liêu trai chí dị.
Theo các nhà nghiên cứu thì hơn mười thế kỉ hình thành và phát triển,
truyện truyền kì Trung Quốc đã để lại những thành tựu rực rỡ và có sức ảnh
hưởng lớn đến nền văn học của các nước đồng văn trong khu vực. Trong đó,
tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu có sức lan tỏa mạnh nhất, rõ rệt nhất,
thúc đẩy sự ra đời các tập truyện truyền kì ở ba nước Đông Á còn lại như Kim
Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (1435 - 1493, Triều Tiên), Truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ (đầu thế kỉ XVI, Việt Nam), Già tỳ tử của Asai Ryohi
(1612 - 1691, Nhật Bản). Kim Ngao tân thoại hoàn thành vào khoảng giữa thế
kỉ XV, là tiểu thuyết Hán văn đầu tiên của Hàn Quốc, có giá trị cao trong văn
học cổ điển nước này. Già tỳ tử cũng có một vị trí quan trọng trong văn học
Nhật Bản, dù không phải là truyện thần quái đầu tiên, nhưng là tác phẩm điển
hình theo kiểu truyện truyền kì của Nhật.
Truyện truyền kì Việt Nam có nguồn gốc từ truyện truyền kì Trung Quốc
nhưng có quá trình hình thành và phát triển gắn với nền văn hóa và văn học dân
tộc đặc biệt là với văn hóa dân gian và văn xuôi lịch sử. Cũng giống như các
thể loại Hịch, Chiếu, Cáo, thể truyện truyền kì Trung Hoa được ông cha ta tiếp
nhận trên tinh thần sáng tạo với những sắc thái tâm lý, phong tục, ngôn ngữ, địa
danh riêng biệt của Việt Nam. Truyện truyền kì Việt Nam đã lấy con người với
cuộc sống đời thường của họ làm đối tượng chủ yếu để phản ánh. Nội dung cơ
9


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



bản của truyền kì Việt Nam là viết về tình yêu tự do nam nữ, về kiếp sống khổ
đau của những người bất hạnh, về xã hội đầy rẫy bất công đáng lên án…
Truyện truyền kì Việt Nam ra đời ngay từ thế kỉ đầu X và chúng tồn tại

suốt thời trung đại. Số lượng tác phẩm truyền kì Việt Nam tuy không nhiều
nhưng cũng đủ để tạo nên một khuôn mặt có đường nét riêng mang bản sắc dân
tộc. Theo PGS Nguyễn Đăng Na, truyện truyền kì Việt Nam tồn tại và phát
triển từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, thể truyền kì phát triển qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
Đây là giai đoạn hình thành truyền kì Việt Nam, các tác phẩm chỉ mới
chứa đựng yếu tố truyền kì. Chúng có đặc điểm là, chưa tách khỏi văn học dân
gian cũng như văn học chức năng hành chính và lễ nghi
Tác phẩm gồm hai loại chính: Một là, truyện dân gian do sưu tầm, ghi
chép, chỉnh lí; hai là, truyện lịch sử dân tộc và truyện lịch sử tôn giáo (bao gồm
cả các truyện về lễ nghi, tín ngưỡng, phong tục tập quán…). Tiêu biểu cho loại
thứ nhất có Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế Pháp. Loại thứ hai lại chia
làm hai nhóm. Nhóm một là những tác phẩm phản ánh trực tiếp lịch sử dân tộc
như Ngoại sử kí của Đỗ Thiện, phần Ngoại kỉ trong sách Đại Việt sử kí của Lê
Văn Hưu…; nhóm hai là các tác phẩm gắn với lịch sử tôn giáo (lễ nghi, tập tục,
tín ngưỡng…) gồm: Báo cực truyện (khuyết danh), Việt điện u linh tập của Lí
Tế Xuyên, Thiền uyển tập anh ngữ lục (khuyết danh), Tổ gia thực lục (khuyết
danh),… Nếu xếp tác phẩm mang yếu tố truyền kì ở thế kỉ X-XIV theo thời
gian, ta sẽ có: Báo cực truyện thế kỉ XI, Ngoại sử kí thế kỉ XII, Ngoại kỉ thế kỉ
XIII, Việt điện u linh tập nửa đầu thế kỉ XIV, Ngữ lục giữa thế kỉ XIV, Tổ gia
thực lục nửa sau thế kỉ XIV, Lĩnh Nam chích quái lục cuối thế kỉ XIV… Mặc
dù chưa thoát khỏi văn học dân gian và văn học chức năng, truyền kì thế kỉ XXIV giữ vị trí quan trọng: đặt nền móng về nội dung cũng như phương thức tư
duy nghệ thuật cho dòng truyền kì sau này.
10


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Do truyền thống truyện dân gian và yêu cầu của lịch sử, truyền kì thế kỉ
X-XIV chủ yếu tập trung vào việc khẳng định nước Việt là một quốc gia độc
lập, có lịch sử lâu đời từ thời các vua Hùng, An Dương Vương,…; có lãnh
thổ, có quyền và có tương lai trường tồn. Đất nước Việt đâu đâu cũng có anh
tài. Nhân kiệt, địa linh, hạo khí núi sông là những nhân tố đảm bảo cho tương
lai dân tộc, là điểm tựa tinh thần cho người Việt vượt qua những cơn hiểm
nghèo. Một đất nước như vậy sẽ không thế lực nào có thể xâm phạm được. Với
nội dung ấy, nhân vật trong truyện phần lớn là những anh hùng Việt Nam thời
xa xưa được truyền thuyết hoá, thần thánh hoá, mang tầm vóc sử thi.
Về nghệ thuật, các môtíp dân gian như, “thụ thai thần kì”: có thai do
ướm vết chân (Đổng Thiên vương), bước qua người (Man nương), mặt trời rơi
vào bụng (Huyền Quang), hoa sen mọc từ bụng (Lê Hoàn), do thần quan hệ
(Hà Ô Lôi)…; “ra đời thần kì”: đẻ ra trứng, đẻ ra bọc (họ Hồng Bàng, Hà Ô
Lôi…), lúc ra đời có ánh sáng lạ, có hương thơm ngào ngạt (các thiền sư
trong Tổ gia thực lục, Ngữ lục…); “xuống thuỷ phủ” (họ Hồng Bàng, Ngư
tinh…); “lên trời” (Đổng Thiên vương); “diệt yêu quái” (Ngư tinh, Hồ tinh,
Mộc tinh…); “người xấu có giọng hát ngọt ngào làm mê đắm các cô nàng xinh
đẹp” (Hà Ô Lôi), “duyên kì ngộ” (Đầm Nhất Dạ…); “chết kì lạ” (hoá đá, hoá
cây, thành thần, hoặc ngồi kiết già…),… là cơ sở cho sự ra đời loại hình truyền
kì đích thực ở giai đoạn tiếp theo.
- Giai đoạn 2: Từ thế kỉ XV kỉXVII
Đây là giai đoạn phát triển và đạt đỉnh cao của truyền kì Việt Nam. Ở
giai đoạn này, truyền kì đã thoát khỏi mối ràng buộc của văn học dân gian và
văn học chức năng, tự sáng tạo ra loại hình truyện ngắn đích thực. Thành tựu
nổi bật là hai tác phẩm Thánh tông di thảo tương truyền của Lê Thánh Tông
(1442 - 1497) và Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Bằng tác phẩm của mình,
Nguyễn Dữ và Lê Thánh Tông đã phóng thành công con tàu truyền kì vào quỹ
11



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



đạo nghệ thuật: lấy con người làm đối tượng và trung tâm phản ánh. Ngoài ra
còn có Thiên Nam vân lục liệt truyện của Nguyễn Hãng, Nam Xương tứ quái
truyện (khuyết danh), Ngọc Thanh u minh thần lục (khuyết danh), Nam Ông
mộng lục của Hồ Nguyên Trừng…
Nếu như truyền kì từ thế kỉ XIV trở về trước đều là những tác phẩm ghi
chép lại những con người và sự việc có sẵn trong đời sống hiện thực bằng cách
thần thánh hóa nhằm nêu gương tốt trong thiên hạ với số lượng không nhiều và
tình tiết khá đơn giản, thì truyện truyền kì từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII có một
bước phát triển lớn.
Tác phẩm đầu tiên Thánh Tông di thảo là một tác phẩm vừa có phóng
tác, vừa có tái tạo và hư cấu. Song được coi là cột mốc đánh dấu sự phát triển
của văn tự sự từ chỗ ghi chép đơn thuần đến tự sáng tạo ra một tác phẩm mới.
Đến Truyền kì mạn lục thì thể truyền kì mới thực sự đạt đến đỉnh cao.
Nguyễn Dữ chính là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ truyền kì đặt tên cho tác
phẩm. Nếu như ở Thánh tông di thảo, vấn đề người phụ nữ đã được đề cập đến
nhưng thường kết thúc có hậu thì đến Truyền kì mạn lục người phụ nữ mới hiện
lên với đầy đủ mọi góc cạnh đặc biệt là bi kịch của họ.
Tuy nhiên truyện truyền kì giai đoạn này không chỉ có bi thương, Lê
Thánh Tông và Nguyễn Dữ còn đưa người đọc vào thế giới diệu huyền của tình
yêu - một thứ tình cảm rất trần thế của con người với tất cả các cung bậc cảm
xúc của nó: ngọt ngào, nồng nàn, hạnh phúc, đắng cay… Có thể nói đúng như
Nguyễn Đăng Na nói “hai tác giả đã phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự
vào quỹ đạo nghệ thuật: Văn học lấy con người làm đối tượng và trung tâm
phản ánh” [50, tr. 47].
- Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX
Thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX là thế kỉ đầy bão táp và biến động. Lúc này

chế độ phong kiến đã ở vào cảnh chợ chiều nên càng bộc lộ rõ hơn bản chất
12


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



bảo thủ và phản động. Cùng với sự rệu rã của chính quyền phong kiến là các
cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn
do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lãnh đạo. Nghĩa quân
Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài ba của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã lật
đổ chính quyền phong kiến trong nước và đuổi sạch giặc phương Bắc, tạm thời
ổn định đất nước sau bao cuộc “thay vua, đổi chúa”. Nhưng cái chết đột ngột
của nhà vua trẻ Quang Trung đã sớm kết thúc sự nghiệp của Tây Sơn và
Nguyễn Ánh lên nắm quyền lập ra triều đại nhà Nguyễn. Song những cuộc
chiến tranh tranh tàn khốc chưa lùi vào dĩ vãng bao xa thì tiếng súng thực dân
đã nổ và nước ta lại rơi vào cuộc chiến mới, có thể nói là tàn khốc nhất trong
lịch sử và nó kéo dài gần hết thế kỉ XX. Đất nước thực sự có những thay đổi
lớn lao, “những cái cũ bụi bặm của thời đại đang bị đập phá từ cơ sở hạ tầng
đến kiến trúc thượng tầng”. Văn học trung đại nói chung và truyện truyền kì
nói riêng cũng nằm trong guồng quay ấy của thời đại. Quan điểm văn chương
thay đổi thể hiện trong cách viết, cách phản ánh hiện thực: đó là viết về những
“sở văn”, “sở kiến” và phản ánh trực tiếp, tức thời những điều mắt thấy tai
nghe, những điều xảy ra quanh ta. Truyện truyền kì giai đoạn này đã có sự
chuyển mình: Các tác giả truyền kì muốn “canh tân” thể loại này để nó mang
một màu sắc mới và để báo cho người đọc biết việc làm ấy, họ đã thêm chữ
“tân” vào nhan đề của mình như Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm) hay Tân
truyền kì lục (Phạm Qúy Thích). Và sự thật các tác giả ấy đã cố gắng viết về
“người thật việc thật”, cố gắng “bám sát” các sự kiện đương thời.

Có thể nói sự “canh tân” này của tác giả truyền kì thế kỉ XVIII đến thế kì
XIX đã đưa truyền kì dần xa với đặc trưng thể loại và ở một mức độ nào đó nó
đã bước đầu kịp thời phản ánh hiện thực, một hiện thực có thể nhìn ngắm, nghe
ngóng xung quanh ta. Nói một cách khác, sự canh tân này trên quan điểm hiện
thực là một tiến bộ, nhưng dưới góc nghệ thuật truyền kì thì đó lại là một bước
13


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



thụt lùi. Bởi lẽ càng trung thành với nguyên mẫu ngoài đời bao nhiêu, đôi cánh
của truyền kì càng bị vặt trụi bấy nhiêu. Do đó, ở giai đoạn này thể truyền kì đã
không còn sự phát triển như trước cả về nội dung, hình thức, yếu tố kì ảo đã
không đậm nét như trước.
Cũng trên quan điểm ấy, Vũ Trinh đã tiến thêm một bước nữa. Ông
không gọi tác phẩm của mình là tục, tân (truyền kì) như các tác giả Đặng Trần
Côn, Phạm Quý Thích hay Đoàn Thị Điểm mà gọi thẳng nó là Kiến văn lục
(Lan Trì kiến văn lục): Nghĩa là truyện về những điều mắt thấy tai nghe của
Lan Trì và đồng thời Vũ Trinh cũng giảm bỏ tối đa các bài thơ, ca trong tác
phẩm của mình. Với việc làm này, tác giả Lan Trì kiến văn lục đã đưa truyện
truyền kì tiến đến gần hơn một bước tới hình thức truyện cận - hiện đại.
Trong giai đoạn này, chỉ có Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm (gồm
bốn truyện) theo Ngô Lập Chi và Trần Văn Giáp tuyển dịch, là còn mang khá
đậm nét đặc trưng thể loại. Nhìn chung khuynh hướng tư tưởng của nó cũng
tương tự khuynh hướng tư tưởng của Truyền kì mạn lục. Đó là sự nhất trí trong
cách nhìn nhận và đánh giá các hiện tượng của đời sống, là thái độ nghi ngờ
các giá trị cũ và có ý hướng tới các giá trị mới. Theo GS Trần Đình Sử, Truyền
kì tân phả so với Truyền kì mạn lục thì “rườm lời hơn, thơ ca thù tạc lại quá

nhiều” [13, tr. 356], còn tác giả Phan Huy Chú thì cho rằng “văn từ đẹp đẽ
nhưng khí cách hơi yếu, không được bằng sách trước (tức Truyền kì mạn lục)
[13, tr 358]. Tuy nhiên Truyền kì tân phả đã mang dấu ấn riêng của cá nhân và
tinh thần dân tộc. Tác phẩm là tiếng nói đề cao nữ quyền và nối liền sự đứt
đoạn của văn học dân gian, tác phẩm có liên quan đến văn học và lễ hội dân
gian. Truyện Cuộc gặp gỡ kì lạ ở Bích Câu (Bích Câu kì ngộ) có liên quan đến
câu chuyện cổ tích về chàng Tú Uyên lấy vợ tiên tuy nhiên trong chiều sâu thì
truyện liên quan đến đạo tu tiên ở Việt Nam. Ba truyện còn lại là Truyện người
liệt nữ ở An Ấp (An Ấp liệt nữ lục), truyện nữ thần ở Vân Cát (Vân Cát thần nữ
14


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



lục), Truyện đền thiêng ở cửa bể (Hải khẩu linh từ lục) đều liên quan đến việc
thờ cúng trong dân gian. Như vậy những tác phẩm này có khả năng phản ánh
nhiều vấn đề của đời sống xã hội và có ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa dân
tộc. Ở những tác phẩm sau truyện ít có sự gia công, cốt truyện đơn giản, yếu tố
kì ảo không bằng Truyền kì mạn lục. Truyền kì tân phả là điểm sáng cuối cùng
của thể loại truyện truyền kì, đồng thời cũng là cái mốc đánh dấu sự xuống dốc
của thể loại này trước khi nó kết thúc ở cuối thế kỉ XIX.
Tóm lại, truyền kì Việt Nam có nguồn gốc từ truyền kì Trung Quốc,
được viết bằng chữ Hán. Truyện truyền kì Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn
hóa dân gian, của truyện sử… Thể loại này phát triển mạnh vào khoảng thế kỉ
XVI đến đầu thế kỉ XVIII, đến cuối thế kỉ XVIII thì suy thoái dần. Sang thế kỉ
XIX, thể truyền kì hòa vào thể loại sử với tạp ký, ngẫu lục và hình thức cũng sơ
lược hơn.
1.1.3. Nhân vật văn học và nhân vật truyện truyền kì

1.1.3.1. Nhân vật văn học
Ðối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn
giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh
thiên nhiên, những lời bình luận... đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng
cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc
xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn
người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người
được nhà văn thể hiện.
Văn học tái hiện đời sống qua những chủ thể nhất định, có vai trò như
những tấm gương phản chiếu cuộc đời. Văn chương phản ánh đời sống bằng
hình tượng. Chính vì lẽ đó, trong những sáng tác văn học không thể thiếu
nhân vật. Nhân vật là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực cuộc
sống. Nhân vật là “Hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu
15


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh
con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh
thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống như con người” [4, tr.
241]. “Hệ thống nhân vật bộc lộ nội dung của tác phẩm, nhưng tự nó lại là
một trong các phương diện của kết cấu tác phẩm” [43, tr. 212]. Nhân vật
đứng ở vị trí trung tâm của tác phẩm văn học. Nhân vật khái quát những quy
luật của cuộc sống, là phương tiện khái quát tính cách, số phận con người và
các quan niệm về chúng. Nó còn là hình chiếu của những dồn nén tâm lý hoặc
sự phản chiếu thế giới tư tưởng của tác giả hoặc được coi như là hình chiếu
của đời sống xã hội.

Nhân vật văn học in dấu những xu hướng tiến hóa của tư duy nghệ thuật,
là nơi tập trung thể hiện ý đồ nghệ thuật, quan niệm về con người và cuộc sống
của nhà văn. Nhân vật là nơi mà nhà văn gửi gắm thông điệp của mình và cũng
là nơi tiếp nhận, giải mã hiện thực hay phi hiện thực cốt yếu được đặt ra trong
tác phẩm. Bởi thế nhân vật luôn gắn bó chặt chẽ với chủ đề tư tưởng tác phẩm.
Nhà văn sáng tạo ra nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân,
một loài người, một vấn đề nào đó của hiện thực đời sống. Nhân vật như chiếc
chìa khóa mở ra thế giới riêng của đời sống con người trong một thời kì lịch sử
nhất định. Nghiên cứu nhân vật sẽ thấy được tư tưởng, tình cảm, tài năng sáng
tạo của người cầm bút.
Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ
thuật khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn
từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng,
liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ
của nó.

16


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



Nhân vật luôn gắn với cốt truyện bởi nó được miêu tả qua các biến cố,
xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Khác với hình tượng hội họa,
điêu khắc, nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động, có tính cách được
bộc lộ dần trong không gian, thời gian, mang tính chất quá trình, nhân vật
văn học vừa có đặc điểm phổ quát, vừa có đặc điểm cá biệt của thể loại.
Từ những góc độ khác nhau, nhân vật được chia thành nhiều kiểu loại
khác nhau. Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác

phẩm có nhân vật chính và nhân vật phụ. Dựa vào đặc điểm của tính cách,
việc truyền đạt lý tưởng của nhà văn, có nhân vật chính diện và phản diện.
Dựa vào cấu trúc hình tượng có nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân
vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Dựa vào thể loại văn học có nhân vật tự sự,
nhân vật trữ tình, nhân vật kịch.
Vì tính chất thể loại khác nhau nên nhân vật trong tác phẩm tự sự sẽ
khác nhân vật trong tác phẩm trữ tình và cũng không giống nhân vật kịch.
Nó mang đặc điểm riêng đặc trưng thể loại. Trong tác phẩm tự sự nhân vật
phản ánh đời sống trong tính khách quan. Thông qua những hành vi, biến cố,
sự kiện xẩy ra với các nhân vật, đời sống con người được tái hiện rõ nét với
những bản chất nhất định.
Nhân vật tự sự tái hiện toàn bộ thế giới thể hiện mọi biểu hiện bên
trong và bên ngoài của con người. Chúng được xem là những sự kiện khác
nhau về cuộc sống con người. Sự kiện đó chính là sản phẩm của mối quan
hệ của con người và hoàn cảnh, môi trường. Bởi thế tác phẩm tự sự có khả
năng phản ánh cuộc sống một cách bao quát, rộng lớn. Đó là lý do mà nhân
vật tự sự được miêu tả trong vô vàn mối quan hệ phức tạp giữa nó và môi
trường xung quanh. Trong mối quan hệ đó, nhân vật dường như hoạt động tự
do theo ý muốn của nó, nhưng thực ra mọi hoạt động của nó đều do tác động
của hoàn cảnh và môi trường xung quanh. Mặt khác sự kiện là những mối
17


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



liên hệ của thế giới, cho thấy các phương diện khác nhau của nó. Theo mối
liên hệ của sự kiện thì nhân vật trong tác phẩm tự sự có thể dẫn dắt người
đọc theo nhiều miền khác nhau, có thể đắm mình trong hiện tại, lại có thể lùi

về với dĩ vãng xa xôi. Nhân vật trong tác phẩm tự sự khác với nhân vật trong
tác phẩm trữ tình và kịch là ở chỗ không bị không gian và thời gian hạn chế.
Do vậy nhân vật tự sự được khắc họa đầy đủ nhiều mặt nhất, hơn hẳn các
nhân vật trữ tình và kịch.
Nhân vật trong tác phẩm tự sự được miêu tả bằng các chi tiết chân
dung, ngoại hình, tâm trạng. Nhân vật còn được thể hiện qua mâu thuẫn,
xung đột, sự kiện. Các mâu thuẫn xung đột luôn làm cho nhân vật bộc lộ
phẩm chất sâu kín. Song nhân vật thường bộc lộ mình nhiều nhất qua việc
làm, hành động, ý nghĩ. Nhân vật trong tác phẩm tự sự có thể được miêu tả một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp qua sự cảm nhận của mọi người xung quanh đối
với nhân vật, qua đồ vật, môi trường và nhân vật sống.
Sự thể hiện nhân vật văn học nói chung, nhân vật trong tác phẩm tự sự
nói riêng bao giờ cũng nhằm khái quát nội dung đời sống xã hội và một quan
niệm sâu sắc, cảm hứng tha thiết của tác giả đối với cuộc đời. Nhân vật là một
hình thức văn học để phản ánh hiện thực. Hình thức ấy rất đa dạng để thể hiện
được các khía cạnh vô cùng phong phú của cuộc sống.
1.1.3.2. Nhân vật truyện truyền kì và nhân vật mang yếu tố kì ảo
* Nhân vật truyện truyền kì
Trong một công trình nghiên cứu về truyện truyền kỳ Trung Quốc,
Lâm Ngữ Đường khẳng định: “Đoản thiên tiểu thuyết chỉ thực sự trở thành
một hình thức nghệ thuật kể từ đời Đường (thế kỷ VIII và thế kỷ IX). Trong
đó những đoản thiên tiểu thuyết dồi dào tính nghệ thuật nhất lại là loại
truyền kỳ. Loại truyện truyền kỳ này đều ngắn gọn, thường vào khoảng nghìn
chữ trở lại, viết theo lối văn cổ, đặc biệt sống động, lạ kỳ, vô cùng kích thích
18


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




trí tưởng tượng” [23, tr.6]. Truyện truyền kỳ còn gọi là đoản thiên tiểu
thuyết truyền kỳ hay tiểu thuyết truyền kỳ. Nó chính là “một hình thức văn
xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, vốn bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau được
các nhà văn nâng lên thành bác học, sử dụng những môtíp kỳ quái, hoang
đường, lồng trong một cốt truyện có ý nghĩa trần thế, nhằm gợi hứng thú cho
người đọc” [29, tr.1730]. Tiểu thuyết truyền kỳ có nhiều đặc điểm nổi bật,
trong đó có những đặc điểm mà chúng ta cần lưu ý là dung lượng nhỏ, kết cấu
không phải theo truyện dài thu ngắn, phần nào đã có dáng dấp của thể loại
truyện ngắn cận hiện đại. Truyện truyền kỳ có sự tham gia của các yếu tố
thần kỳ vào câu chuyện. Song đó không phải là do những lực lượng tự nhiên
được nhân hóa như kiểu thần thoại, hoặc những nhân vật có phép lạ như thần
tiên, trời, bụt… trong truyện cổ tích thần kỳ mà phần lớn ở ngay hình thức
phi nhân tính của nhân vật (hồ ly, ma quỷ, vật hóa người). Điều dĩ nhiên là
trong truyện bao giờ cũng có những nhân vật là người thật, và chính những
nhân vật mang hình thức phi nhân đó thì cũng chỉ là cách điệu, phóng đại của
tâm lý, tính cách của một loại người nào đấy. Đó là nguyên do tạo nên giá trị
nhân bản sâu sắc của truyện truyền kỳ.
Truyện truyền kỳ đời Đường kế thừa truyền thống chí quái thời Lục
triều, tuy nhiên hai loại tác phẩm này cũng có sự khác biệt. Chí quái chủ yếu
viết về thiên linh quái đản, còn nhân vật chủ yếu trong truyện truyền kỳ là
con người. Ở thời Vãn Đường tiểu thuyết truyền kỳ dưới hình thức từng
chương riêng rẽ, có giá trị kiệt xuất không còn bao nhiêu, chỉ thấy một vài
thiên lưu lại như: Vô Song truyện, Linh ứng truyện,… đều không rõ tác giả.
Tuy các tập truyện truyền kỳ xuất hiện với số lượng rất lớn như Huyền quái
lục, Tục huyền quái lục… nhưng rất ít truyện còn giữ được cảnh miêu tả sinh
động, tinh tế như trước mà đa số các truyện đều vụn vặt, cốt truyện đều đã
được giản lược.
19



×