Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Đề tài: Sự phân công lao động giữa vợ và chồng với công việc nội trợ trong gia đình vùng ven đô. (Nghiên cứu trường hợp: xã Tả Thanh Oai – Huyện Thanh Trì Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.53 KB, 7 trang )

Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình với
công việc nội trợ
Công việc nội trợ là một khái niệm cho đến nay chưa có một định
nghĩa nào thật rõ ràng. Theo sự tính toán của các chuyên gia thì người nội
trợ phải thực hiện 216 dạng hoạt động khác nhau từ đính khuy áo, chăm
sóc nguời ốm đến dạy con học. Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài quan
tâm nghiên cứu công việc nội trợ ở các khía cạnh sau: nấu nướng, đi chợ,
giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa.
Công việc nội trợ gia đình hay còn được coi là hoạt động tái sản xuất
liên quan đến việc duy trì gia đình. Mặc dù được coi là hoạt động htiết
yếu để duy trì sự tồn tại của con người song lại không thường hoặc khó
qui đổi thành giá trị kinh tế, vì vậy những công việc nội trợ gia đình (còn
gọi là lao động gia đình) cho đến nay vẫn được xem là loại hình lao động
không được trả công. Ở nước ta và nhiếu quốc gia trên thế giới vẫn xếp
các công việc nội trợ vào lĩnh vực "phi kinh tế" và coi là công việc dành
riêng cho phụ nữ. trong điều kiện hiện này liệu quan niệm về sự phân
công này đã thay đổi?
Trong gia đình, các hoạt động tái sản xuất sứ lao động cho các thành
viên hay còn gọi là công việc nội trợ gia đình được xem như là một hình
thức hoạt động diễn ra hàng ngày, là công việc cần thiết để duy trì cuộc
sống cho mỗi thành viên và sự tồn tại của gia đình. Gia đình sẽ không còn
là gia đình nguyên nghĩa nếu như hoạt động này không diễn ra mà thay
vào đó là sự
chen lấn của các loại hình dịch vụ.
Ngày nay, việc chăm lo cho các thành viên trong gia đình được coi là
một công việc quan trọng theo đúng nghĩa của nó, trong đó vai trò của
nguời phụ nữ được đặc biệt đề cao. Nhưng điều đó không có nghĩa phụ
nữ là người phải chịu trách nhiệm chính trong mọi công việc của gia
đình.
Phụ nữ Việt Nam ngày nay đang có mặt trên khắp các lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế mang lại động lực và cơ hội để


phá vỡ vai trò đã ăn sâu của các giới – cho phép phụ nữ tham gia vào nền
kinh tế thị trường giống như nam giới và khiến nam giới phải chia sẻ các
trách nhiệm chăm sóc gia đình. Phát triển kinh tế có thể giảm nhẹ gánh
nặng việc nhà của phụ nữ, tạo cho họ nhiều thời gian rỗi hơn để tham gia
vào các hoạt động thị trường. Cùng với quá trình học tập và làm việc,
trình độ của lao động nữ cũng ngày càng được tăng lên rõ rệt. Nhưng
người phụ nữ không chỉ mong muốn được bình đẳng trong các hoạt động
nghề nghiệp mà cả trong công việc gia đình. Do vậy cần có sự phân công
lao động một cách hợp lý hơn giữa vợ và chồng trong các công việc của
gia đình trên cơ sở cùng hợp tác cùng gánh vác trách nhiệm, như vậy
công việc gia đình sẽ mang ý nghĩa sâu xa của tình cảm cố kết giữa các
thành viên. Sự chia sẻ không còn đơn thuần chỉ là trách nhiệm mà còn
1.1.


đánh giá một đời sống hôn nhân tích cực. Nói cách khác, sự bình đẳng
trong công việc gia đình giữa vợ và chồng sẽ tạo ra cơ hội thuận lợi
không chỉ riêng nữ giới mà cả nam giới trong việc hoàn thành tốt hơn vai
trò của mình trong gia đình và xã hội.
Nhằm tìm hiểu mức độ tham gia của các thành viên trong các hoạt
động thiết yếu của gia đình, chúng tôi đã sử dụng câu hỏi " trong gia đình
ông (bà) ai là người đảm nhiệm chính các công việc sau: lao động sản
xuất, đi chợ, nấu nướng, gịăt giũ, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc trẻ em...”
Kết quả thu được như sau:
Bảng 1: Sự tham gia các công việc nội trợ trong gia đình.
(Đơn vị:%)
Công việc
Đi chợ
Nấu nướng
Giặt giũ

Dọn dẹp nhà cửa

Vợ
90,5
85,9
85,8
78,0

Chồng
3,2
4,4
3,2
4,6

Cả hai
6,3
9,7
11,0
17,4

*Sự phân công lao động theo giới trong gia đình đối với việc đi chợ.
Trong số các công việc trong gia đình thì việc đi chợ có tỉ lệ nam giới
tham gia ít nhất: chỉ có 3,2% nam giới đảm nhiệm chính công việc này
trong khi tỉ lệ tương ứng ở nữ giới là 90,5%.
Điều đó cho thấy một thực tế là việc đi chợ được quan niệm như công
việc
chỉ dành riêng cho phụ nữ nên nam giới ít tham gia vào.
Khi được hỏi về vấn đề này thì có ý kiến cho rằng:
PVS: Nam- 27 tuổi- kinh doanh- PTTH
“Anh thỉnh thoảng cũng giúp chị làm việc nhà, nấu nướng, giặt giũ,

nhưng riêng khoản đi chợ thì anh chịu, có lẽ là đàn ông nên rất hay bị
mua đắt. Vợ anh cũng không để anh đi chợ một mình bao giờ cả.”
PVS: Nam- 32 tuổi- Giáo viên- Đại học
”Đi chợ anh ít đi lắm, chỉ khi nào nhà có việc, khách khứa thì đi nhưng
cũng là đi cùng chị, lai chị vào chợ, anh theo xách đồ thôi. Con trai bọn
anh không biết mặc cả đâu.”
Như vậy, có thể hiểu sự phân công lao động theo giới trong
gia đình đối với việc đi chợ bị ảnh hưởng khá nhiều bởi đặc tính giới.
Theo đó, quan niệm chung về đặc điểm tính cách của nữ giới nhấn mạnh
đến sự dịu dàng, khéo léo, phụ thuộc; vai trò của người phụ nữ được quan
niệm là gắn liền với vai trò người vợ, người mẹ, người nội trợ, là người
phụ thuộc vào chồng trong gia đình, dù bản thân người phụ nữ vẫn đi làm


để kiếm thu nhập ;Về đặc tính của nam giới được quan niệm có những
đặc điểm như mạnh mẽ, quyết đoán; vai trò của người chồng trong gia
đình là trụ cột về kinh tế, là tấm gương về đạo đức, là chỗ dựa cho vợ con
về tình cảmvà trên hết là người chủ gia đình, đại diện cho gia đình trong
các quan hệ xã hội và cộng đồng.
Qua nội dung phỏng vấn sâu, có thể thấy rằng không chỉ
riêng nam giới mà chính những người phụ nữ cũng mang quan điểm việc
đi chợ là dành cho giới mình.
Tỉ lệ cả hai người- vợ và chồng- cùng đảm nhiệm chính vai
trò này cũng chỉ chiếm 6,3%, người chồng chưa tham gia, chia sẻ nhiều
với vợ trong công việc này.
Mặc dù ngày nay trên tất cả các phương tiện truyền thông,
trong các chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc tạo ra sự bình đẳng giữa nam và nữ. Song trên thực tế đó là
một vấn đề hết sức phức tạp, là quá trình vận hành của cả một hệ thống
quan hệ tinh tế và không đơn giản. Nó chịu sự điều tiết của cả phấp luật

lẫn đạo đức, cả nhận thức ý thức lẫn tập quán thói quen.
Các thể chế xã hội- các chuẩn mực, tập quán xã hội, quyền
hạn, luật lệ- cũng như các thể chế kinh tế như thị trường, chẳng hạn như
các thị trường đang định hình cho vai trò và mối quan hệ giữa nam và nữ,
tác động đến loại nguồn lực nào mà họ được tiếp cận đến, hoạt động nào
mà họ được phép hay không được phép tham gia, và họ có thể tham gia
vào nền kinh tế và xã hội dưới hình thức nào. Chúng quy định động cơ
khuyến khích hoặc không khuyến khích các thành kiến. Ngay cả khi
chúng không công khai phân biệt nam nữ thì những thể chế chính thức
hoặc không chính thức vẫn thường chịu tác động bởi các chuẩn mực xã
hội (hoặc công khai hoặc ngấm ngầm) về những vai trò thích hợp theo
giới. Và công việc đi chợ được xem như là một vai trò thích hợp đối với
nữ giới.
*Sự phân công lao động trong gia đình với công việc nấu nướng.
Cũng giống như công việc đi chợ thì việc nấu nướng trong gia đình
hầu hết vẫn là do phụ nữ đảm nhiệm chính. Nam giới chỉ tham gia với
một tỉ lệ nhỏ, không đáng kể.Theo kết quả nghiên cứu thu được thì tỉ lệ
tương ứng ở nữ giới là 85,9% đảm nhiệm chính việc nấu nướng, trong khi
tỉ lệ này ở nam giới 4,4%. Ta có thể thấy ”Vai trò truyền thống về giới
vẫn chưa thay đổi được bao nhiêu” (Desai,1995), theo quan niệm truyền
thống thì con gái thường làm việc nhà nhiều hơn con trai và nam giới là
trụ cột kinh tế , là người kiếm cơm chính nuôi các thành viên trong gia
đình và trong ý thức của cộng đồng vẫn còn quan niệm có những việc
dành riêng cho phụ nữ và nam giới. Điều này chứng tỏ người đàn ông
cũng như phụ nữ chưa có sự chuyển biến quan niệm truyền thống về nghề
nghiệp. Vai trò giới không chỉ bị chi phối bởi đặc điểm tính chất của công


việc mà cái chính còn bị chi phối mạnh mẽ bởi những định kiến nghề
nghiệp.

Trong các gia đình vẫn thường quan niệm rằng, phụ nữ là người chăm
lo quán xuyến mọi công việc trong gia đình, từ việc giữ tay hòm chìa
khoá cho đến việc lo liệu chợ búa, cơm nước, đồng thời lo việc phân bổ
chất dinh dưỡng trong từng bữa ăn của gia đình nhằm chăm sóc sức khoẻ
cho các thành viên gia đình mình. Nó xuất phát từ những quan niệm, tập
quán dân tộc cho rằng bếp núc là ”thiên chức” riêng của phụ nữ. Bởi vậy
từ xa xưa ông cha ta đã có câu:
Vắng đàn ông quạnh nhà
Vắng đàn bà quạnh bếp
Cho đến tận bây giờ thì vấn đề đó vẫn tồn tại như một tất yếu xã hội.
Cho dù là phụ nữ nông thôn hay đô thị, có học vấn cao hay thấp thì vẫn là
người đảm nhiệm chính vai trò này.
PVS: Nữ- 44tuổi- kinh doanh- PTTH
” Cô bán hàng lúc nào thì bán còn vẫn phải lo chuyện cơm nước, đi
chợ, giặt giũ. Ngoài ra, cô cũng phải lo cả chuyện cám bã lợn gà nữa.
Con gái cô cũng giúp được mẹ làm việc nhà rồi, cô nghĩ con gái thì phải
biết nấu nướng không thì khó mà lấy chồng”
PVS: Nam- 24 tuổi- nông dân-THCS
“Tình yêu của người con trai bắt đầu từ cái dạ dày mà, nếu vợ không
biết nấu nướng thì làm sao chăm sóc được cho gia đình và nuôi dạy
được con cái, lúc đó bản thân người chồng cũng cảm thấy không hài
lòng, huống chi còn gia đình bên chồng nữa”
Có lẽ chính vì những suy nghĩ như vậy, mà cho đến nay khi nền kinh
tế đã phát triển, đời sống được nâng cao, phụ nữ đã có những cơ hội để
phát triển, để thăng tiến vươn lên những vị trí cao trong xã hội thì cũng
vẫn nhất thiết phải gắn liền với “thiên chức riêng của mình”. Đôi khi, có
những trường hợp chỉ vì người phụ nữ bận bịu với các công việc ngoài xã
hội hay có thể vì lí do này hay lí do khác mà không hoàn thành vai trò
bếp núc trong gia đình nên đã gây ra những xung đột và mâu thuẫn với
các thành viên khác trong gia đình.

Như vậy, công việc bếp núc được quan niệm như chìa khoá của sự
hạnh phúc, của sự êm ấm mà người phụ nữ có trong tay. Nó trở thành
một thứ vũ khí ngầm bảo vệ sự ổn định và hạnh phúc trong gia đình.
Có rất ít gia đình cho rằng việc nấu nướng là công việc cần sự chia sẻ
của cả nam và nữ. Tỉ lệ gia đình mà cả hai vợ chồng cùng tham gia vào
công việc nấu nướng chiếm 9,7%.
PVS: Nữ- 32 tuổi- nông dân- PTTH
“Anh nhà chỉ nấu nướng khi nào nhà có khách khứa hoặc cỗ bàn thôi,


mà thực ra anh ấy nấu còn khéo hơn cả chị. Bình thường thì chị làm
hết.”
PVS: Nam- 27tuổi- kinh doanh- PTTH
“Anh thấy công việc nội trợ rất vất vả nên anh cũng muốn chia sẻ với
vợ những lúc rảnh rỗi.”
Qua đó, có thể nhận thấy mức độ tham gia của người chồng trong
công việc nấu nướng nói riêng và công việc nội trợ nói chung không phải
là thường xuyên, nhưng dù saođó cũng là những dấu hiệu đáng mừng
trong việc nhận thức của chính bản thân mỗi giới. Bởi vậy, việc phụ nữ
và nam giới bình đẳng trong quá trình phân công lao động không chỉ là
họ cùng thực hiện những công việc như nhau, mà quan trọng hơn việc
nam giới cùng với phụ nữ tham gia vào các công việc gia đình là cả một
sự thay đổi lớn cái nếp nghĩ đã tồn tại rất lâu đời trong tâm tưởng mỗi
người dân.
*Sự phân công lao động theo giới trong gia đình với việc giặt giũ
Trong xã hội học truyền thống, theo cách tiếp cận chức năng, sự bất
bình đẳng về phân công lao động theo giới trong gia đình thường bị bỏ
qua vì người ta cho rằng việc phụ nữ sinh đẻ, làm việc nhà, nuôi con,
chăm sóc các thành viên trong gia đình; nam giới làm việc bên ngoài ,
kiếm tiìen nuôi sống gia đình là điều “hợp lý”, không cần phải bàn cãi,

hay theo cách diễn đạt của T.Parson, đàn ông có vai trò công cụ, đàn bà
có vai trò biểu cảm. Điều cần thiết là làm sao để hai giới thực hiện vai trò
của mình một cách hoàn hảo nhất.
AnnOakley- nhà xã hội học người Anh khi nghiên cứu về lao động nội
trợ của phụ nữ có ý kiến “ Một số mặt của công việc nội trợ,rửa ráy, là
quần áo và lau chùi , chẳng khác một công nhân dây chuyền lắp ráp. Trên
thực tế thì họ phải chịu đựng sự đơn điệu, sự vụn vặt và nhanh chóng quá
mức trong công việc của mình”.Công việc nội trợ tốn rất nhiều thời gian
và đòi hỏi nhiều công sức,bà cho rằng chứng bệnh tâm thần, buồn chán,
sự thất vọng và cô đơn là sự trải nghiệm của những người vợ nội trợ
trong gia đình. Như Gavron đã đưa ra khái niệm đó là những “người vợ
bị giam cầm”.
Đối với công việc giặt giũ, tỉ lệ nam giới đảm nhiệm chính vai trò này
cũng vô cung khiêm tốn chỉ có3,2%, trong khi tỉ lệ tương ứng ở nữ giới là
85,8%.
Do quá trình xã hội hoá vai trò giới trong gia đình, ngay từ nhỏ, các bé
gái đã được dạy bảo và tuân theo những giá trị, chuẩn mực truyền thống.
Do đó, người phụ nữ ngay từ khi còn nhỏ đã tỏ ra vượt trội hơn nam giới
về khoản bếp núc, thêu thùa, may vá, giặt giũ,...rồi nên họ làm công việc
nhà dễ dàng hơn là chuyện đương nhiên. Quan niệm cũ này đã ăn sâu vào
nếp nghĩ của đại đa số gia đình Việt Nam và dần dần nó như là một điều


tất yếu là phụ nữ thì lo việc nội trợ còn nam giới thì lo việc kiếm tiền.
Nếp nghĩ này không chỉ tồn tại ở nam giới mà chính những người phụ nữ
cũng đồng tình.
PVS: Nữ- 44 tuổi- nông dân- THCS
“ Chú đã lo kinh tế cho gia đình thì những việc kia cô làm hết cũng là
hợp lý thôi. Nhà cô chỉ có 5 sào ruộng, bộ lên mấy ngày mùa rồi lại
nhàn tênh ấy mà”

PVS: Nữ- 31 tuổi- công nhân- PTTH
“Mỗi buổi sáng trước khi đi làm chị đều dậy sớm dọn dẹp nhà cửa và
giặt giũ quần áo, chỉ khi nào thật bận hoặc ốm thì anh mới giặt”
Quả thực, suy nghĩ công việc nội trợ là thiên chức riêng của người phụ
nữ vẫn còn quá nặng nề. Để thoát khỏi ngưỡng đó thật khó khăn, ngay cả
trong gia đình mà cả vợ và chồng có cùng trình độ thì việc thực hiện
quyền bình đẳng trong phân công lao động còn khó huống chi với nhứng
gia đình mà cả vợ và chồng đều có trình độ kém, ở đó, người vợ thì cam
chịu, còn người chồng thì gia trưởng, việc thực hiện quyền bình đẳng
trong phân công lao động lại càng trở nên khó khăn gấp bội. Bởi vậy,
việc thực hiện quyền bình đẳng trong phân công lao động trong gia đình
phải được thực hiện dần dần từng bước một.
*Sự phân công lao động theo giới với việc dọn dẹp nhà cửa trong
gia đình
Cũng như tất cả các công việc nội trợ kể trên, tỉ lệ nữ giới đảm nhiệm
chính công việc này vẫn là chủ yếu chiếm 78%, trong khi tỉ lệ tương ứng

nam giới là 4,6%.
PVS: : Nữ- 31 tuổi- công nhân- PTTH
“Anh nhà chị tính luộm thuộm, nhờ anh ấy nấu đựơc một bữa cơm thì
anh ấy bày bừa khắp mọi chỗ, nguyên việc dọn lại cái bếp cũng đã mất
cả buổi rồi. Chị có bận đến đâu thì vẫn cố dọn dẹp nhà cửa cho nó tươm
tất , sạch sẽ chứ đợi anh ấy làm thì đến bao giờ, đàn ông họ nghĩ đó là
những chuyên vặt vãnh, chuyện đàn bà nên họ không làm. Mà có làm
thì lại bị người khác chế giễu là núp váy vợ”
Nhưng thực tế những công việc bếp núc hay dọn dẹp nhà cửa, giặt
giũ..... không phải là công việc đơn giản, nhẹ nhàng như quan niệm của
nhiều người, đó không chỉ là những công việc vặt vãnh, mà cũng đòi hỏi
rất nhiều thời gian và sức lực của người thực hiện. Ngưòi phụ nữ vừa coó
gắng hoàn thành tốt công việc trong khu vực lao động sản xuất như nam



giới, lại phải tiếp tục bỏ thêm một lượng thời gian như thế cho công việc
nội trợ, liệu điều đó có trở nên quá sức đối với họ?
Cùng với sự vận hành của phát triển kinh tế , sự biến đổi trên mọi mặt
của đời sống, nhận thức về giới của cả nam và nữ cũng đã có nhiều mặt
cải thiện. Mặc dù tỉ lệ người chồng đảm nhiệm chính các công việc nội
trợ trong gia đình còn thấp nhưng tỉ lệ chia sẻ những công việc này đang
có xu hướng tăng lên. Bằng chứng là tỉ lệ nam giới chia sẻ các công việc
giặt giũ cùng vợ là 11,0%; công việc dọn dẹp nhà cửa là 17,4%.
PVS: Nữ- 27 tuổi- giáo viên- đại học
“ Anh luôn chia sẻ công việc nhà với chị không nề hà gì cả, kể cả đi chợ
cùng chị, giặt quần áo, chị giặt anh múc nước, lấy mắc phơi cho chị, chị
lau nhà thì anh quét mạng nhện.....”
Đây là những biến đổi tích cựcvà nguyên nhân của những biến đổi này
một mặt là do những thay đổi về nhận thức, trình độ văn hoá của cặp vợ
chồng, thay đổi vai trò kinh tế của người phụ nữ trong gia đình.
Mặc dầu vậy, những trở lực phát ra ở cả hai phía xã hội và cá nhân,
nam và nữ vẫn là một rào cản để đạt được một sự bình đẳng nam nữ. Tuy
nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận sạch trơn rằng vị trí của người
phụ nữ xưa và nay không có gì thay đổi. Chúng ta thấy rằng đã có nhiều
thay đổi lớn: nếu như trước đây phụ nữ còn phải chịu đựng sự khống chế
từ mọi phía “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”; phụ nữ
phải chịu bao khổ sở cơ cực thì ngày nay họ đã có nhiều quyền lợi hơn,
độc lập hơn trong việc
quyết định cuộc sống của mình. Vị trí của họ đang dần được khẳng định.
Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là những bước đầu tiên trong quá trình tìm kiếm
sự bình đẳng giới và chúng ta sẽ còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để đạt
được điều đó.




×