VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Bun Phết Vàng
THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH
(Nghiên cứu trường hợp tại huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng Chăn,
nước CHDCND Lào hiện nay)
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60.31.30
LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
PGS.TS NGUYỄN HỮU MINH
Hà Nội, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của bản thân, được xuất phát
từ yêu cầu phát sinh thực tiễn trong đời sống xã hội. Từ đố, hình dung thành hướng
nghiên cứu dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Hữu Minh.
Các số liệu và những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tác giả luận văn
Bun Phết Vàng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Nguyễn Hữu Minh đã
tận tình động viên và hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi, để tôi có thể hoàn thành công
trình nghiên cứu của mình.
Xin cảm ơn Ban giám đốc Học viện Khoa học Xã hội (HVKHXH), Ban đào
tạo HVKHXH, Ban chủ nhiệm khoa xã hội học HVKHXH đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi hoàn thành học phần thuộc trình độ thạc sĩ xã hội học.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô, các cán bộ nhân viên tại HVKHXH,
gia đình, người thân, các bạn học viên đồng nghiệp và những người luôn động viên,
khuyến khích, giúp dỡ tôi về học hành cũng như sinh hoạt khác để tôi có thể hoàn
thành các môn thuộc trình độ thạc sĩ.
Tác giả luận văn
Bun Phết vàng
MỤC LỤC
Trang
THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG 1
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHDCND : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
CNH-ĐTH : Công nghiệp hóa-đô thị hóa
PVS : Phỏng vấn sâu
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TCCN : Trung cấp chuyên nghiệp
TNTH : Tốt nghiệp tiểu học
TV : Tivi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG 1
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH 1
DANH MỤC BIỂU, ẢNH
THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG 1
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH 1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chia sẻ việc làm giữa vợ và chồng trong gia đình là một trong những chủ đề
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm vì nó thể hiện một phần mối quan hệ quyền
lực giới. Nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giới trong gia đình thường chỉ ra khuôn
mẫu phổ biến là nữ làm việc nhà và nam giới kiếm tiền bên ngoài gia đình và đều
có nhận định tương đối nhất quán về sự bất bình đẳng theo hướng nam giới thống
trị nữ giới trong gia đình ở hầu hết các xã hội.
Xã hội Lào với rất nhiều đặc điểm lịch sử, kinh tế và xã hội hậu thuẫn cho
giá trị trọng nam, rõ ràng đã tạo nên những nền tảng quan trọng của quyền lực nam
giới thống trị nữ giới vẫn còn tồn tại dai dẳng và phổ biến trong đời sống xã hội và
gia đình. Trong môi trường xã hội chuyển đổi từ truyền thống sang hiện đại, cấu
trúc quyền lực trong các gia đình Lào đã có những thay đổi không nhỏ. Đặc biệt,
quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa (CNH-ĐTH) mạnh mẽ như hiện nay đã dẫn
đến những thay đổi căn bản về các điều kiện kinh tế, văn hóa và sự phân công lao
động giữa vợ và chồng trong gia đình, v.v.
Trong vài chục năm vừa qua đã có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm
hiểu về những vấn đề này, và các nghiên cứu đó đã phản ánh được những khía cạnh
nhất định về mối quan hệ giữa vợ và chồng trong các gia đình cũng như trong xã
hội. Các nghiên cứu đó đã cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy mối quan hệ giới đã
có những thay đổi đáng kể. Chẳng hạn, theo thời gian, người vợ đã có những cải
thiện quyền lực nhất định trong tương quan với người chồng. Nghiên cứu thống kê
cũng cho thấy kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước, phụ nữ tham gia tích
cực hơn nhiều vào các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội. Điều đó cũng đã tạo
nền tảng quan trọng cho việc cải thiện vị thế của người phụ nữ trong gia đình.
Mặc dù đã có những tiến bộ trong tương quan quyền lực giới như vậy, nhưng
vấn đề bất bình đẳng giới vẫn còn đáng lo ngại. Một số nghiên cứu cho thấy trong
khi tốc độ đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng thì các chuẩn mực giá trị văn hóa
liên quan đến vai trò giới dường như vẫn thay đổi rất chậm chạp. Nhiều công trình
nghiên cứu đưa ra bằng chứng rằng mặc dù phụ nữ tham gia tích cực vào lực lượng
lao động nhưng vẫn còn tồn tại những bất bình đẳng đáng kể về sự tiếp cận các cơ
hội kinh tế, thu nhập, loại hình nghề nghiệp, giáo dục và đào tạo, việc tiếp cận các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, quyền ra quyết định, v.v… [26; 8]. Điều đó có nghĩa là
các thành quả của sự phát triển không được phân chia bình đẳng giữa nam và nữ.
8
Các nghiên cứu chuyên sâu cũng cung cấp bằng chứng cho thấy trong rất nhiều gia
đình ở các khu vực khác nhau có sự bất bình đẳng về phân công lao động, chia sẻ
việc nhà, chăm sóc con cái và các thành viên trong gia đình, cũng như sự bất bình
đẳng trong cơ hội tiếp cận giáo dục giữa con trai và con gái, bao lực gia đình… vẫn
còn tồn tại khá phổ biến.
Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng việc nhận diện sự phân công lao động
trong gia đình nói chung, phân biệt việc làm giữa người vợ và người chồng trong
gia đình của người dân ở Lào nói riêng trong thời kỳ chuyển đổi vẫn còn là một
lĩnh vực chưa được nghiên cứu đầy đủ. Các kết quả nghiên cứu vẫn chưa phản
ánh được rõ ràng về bức tranh phân công hoặc phân quyền giới trong gia đình,
với những chỉ báo đo lường cụ thể về tác động của quá trình CNH-ĐTH, ảnh
hưởng của các yếu tố văn hóa và chuẩn mực xã hội tới sự phân công lao động
giữa vợ và chồng trong gia đình.
Vấn đề phân biệt việc làm giữa vợ và chồng là một trong những vấn đề quan
trọng được các nhà nghiên cứu lẫn những nhà làm chính sách quan tâm trong giai
đoạn hiện nay. Lý do cơ bản là vì vấn đề quyền lực giữa vợ và chồng có ảnh hưởng
trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày, nhất là tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực
trong gia đình, thụ hưởng các phúc lợi gia đình và các hạnh phúc (hay bất hạnh) của
các thành viên trong gia đình. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh đất nước
đang chuyển đổi sang vận hành theo quy chế thị trường và đã có một số nhận xét rất
đáng quan tâm rằng sự bất bình đẳng giới đã không giảm mà thậm chí còn có nhiều
hướng gia tăng kể từ sau Đổi mới. Các chính sách của Đảng và Nhà nước Lào thời
gian gần đây cũng chú ý nhiều hơn đến khía cạnh này. Luật hôn nhân và gia đình
nước CHDCND Lào năm 1990 đặt vấn đề quan hệ và trách nhiệm giữa vợ và chồng
chi tiết và rõ ràng hơn nhiều so với những bộ luật trước đó. Đây là những điều thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề tương quan giới giữa vợ và
chồng trong gia đình [1].
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào là một nước đã và đang tiến
hành công cuộc CNH-ĐTH trên cả nước. Từ năm 1999 đến nay, huyện Văng Viêng
tỉnh Viêng Chăn cũng đã và đang chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ nền kinh tế tư nhân
tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần và hiện đại, tăng trưởng
công cuộc CNH-ĐTH theo chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước. Sự tăng
trưởng nhanh chóng như vậy có tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống kinh
tế-xã hội nói chung và những hoạt đông trong gia đình nói riêng, đặc biệt là công
việc của người vợ và người chồng trong gia đình. Do vậy, hiểu rõ về công việc
9
trong gia đình cũng như sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình là
một trong những điều kiện để phát triển đời sống, tăng trưởng nền kinh tế, xây dựng
xã hội văn minh rực rỡ và giúp Đảng và Chính quyền có thể đưa ra những biện
pháp, chính sách can thiệp giúp cải thiện tình hình bất bình đẳng giới nói chung, và
nâng cao chất lượng cuộc sống của các gia đình nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay
vẫn chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào được tiến hành trên cả nước về vấn đề này.
Chính vì thế, tôi đã lựa chọn đề tài “Thực trạng phân công lao động giữa vợ và
chồng trong gia đình của người dân Lào hiện nay”, (Nghiên cứu trường hợp tại
huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng Chăn, nước CHDCND Lào) làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ xã hội học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tăng cường công nghiệp hóa-đô thị hóa (CNH-ĐTH) là xu hướng phát triển
của một xã hội, và việc thực hiện quá trình đó đòi hỏi mọi thành viên trong xã hội
phải quán triệt và tập trung hết mình vào những hoạt động của xã hội để tạo ra
những của cải vật chất theo nhu cầu của nó. Muốn hoàn thành nền kinh tế thị trường
công nghiệp hóa và hiện đại hóa phải có sự trung thành từ các thành viên của gia
đình nói chung và người vợ-người chồng nói riêng. Sự trung thành đó bao gồm cả
hoạt động bên trong và bên ngoài, tức là bình đẳng giới trong gia đình và xã hội [3],
điều đó có nghĩa là phải tạo mọi điều kiện cho các thành viên trong gia đình phát
triển nhân cách của mình theo hướng tự do và có mục đích, tránh mọi ép buộc hay
ngăn cản mỗi hoạt động của các thành viên.
Tìm hiểu những vấn đề phân công lao động theo giới của gia đình trong bối
cảnh CNH-ĐTH, Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 [5] cho thấy, nhiều người
dân vẫn coi sự phân công lao động giữa hai giới là cần thiết, nhất là ở các công việc
như sản xuất, kinh doanh; nội trợ; chăm sóc trẻ em; chăm sóc người già. Trong đó
phụ nữ phù hợp hơn với các công việc nội trợ, giữ tiền, chăm sóc trẻ em, chăm sóc
người già, người ốm đau. Còn nam giới thì phù hợp hơn với các công việc sản xuất,
kinh doanh, tiếp khách lạ, thay mặt gia đình giao tiếp với chính quyền.
Quan tâm đến biến đổi mô hình phân công lao động nội trợ trong gia đình,
tác giả Phùng Thị Kim Anh [28], cho rằng lao động nội trợ có tính đặc thù giới bởi
phụ nữ là người hầu như làm chủ yếu các công việc này và theo quan niệm truyền
thống, người phụ nữ gắn liền với vị trí-vai trò người vợ, người mẹ và người nội trợ
trong gia đình.
10
Quan tâm đến công việc sản xuất của phụ nữ trong bối cảnh phát triển công
nghiệp hóa-đô thị hóa nông nghiệp nông thôn, tác giả Hoàng Bá Thịnh [30], cho
thấy, phụ nữ nông thôn có vai trò hết sức to lớn, không chỉ đối với nền sản xuất
nông nghiệp mà còn cả với đời sống của nhân loại. Phụ nữ là nguồn lao động quan
trọng và to lớn làm ra những sản phẩm nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực,
ước tính rằng phụ nữ nông thôn làm ra hơn một nửa lương thực trên toàn thế giới.
Cùng với vấn đề này, tác giả Nguyễn Linh Khiếu [19], trong nghiên cứu vị thế của
người phụ nữ đã nhận định rằng: Trong các gia đình, mặc dù người vợ đóng vai trò
là người làm chính các công việc sản xuất kinh doanh, nhưng người chồng vẫn là
người quyết định các công việc này. Quyền quyết định các khoản chi tiêu, số con
trong gia đình thì cả hai vợ chồng cùng quyết định, chiếm tỷ lệ cao nhất. Vai trò, vị
thế của người phụ nữ mặc dù đã có rất nhiều cải thiện so với trước đây nhưng về cơ
bản vẫn chưa tương xứng với vai trò thực sự của họ.
Về khía cạnh giới trong phân công lao động, nghiên cứu của tác giả Vũ Tuấn
Huy [31], cho thấy rằng trong hầu hết những công việc của nhà nông, phụ nữ tham
gia chủ yếu trong hầu hết mọi công việc. Bên cạnh đó, bất bình đẳng giới còn thể
hiện ở thái độ đánh giá vai trò của phụ nữ trong việc nâng cao thu nhập gia đình.
Thực tế tham gia lao động của phụ nữ trong lao động tạo thu nhập là một trong
những điều kiện đảm bảo cho sự ổn định tương đối của gia đình. Tuy nhiên vấn đề
đặt ra đối với CNH-HĐH là có thể và cần phải thay đổi khía cạnh bất bình đẳng giới
trong phân công lao động như thế nào cho phù hợp. Cũng theo hướng nghiên cứu
này, tác giả Nguyễn Hữu Minh [18], đưa ra số liệu cụ thể hơn về phân công lao
động gia đình: Đại bộ phận người vợ làm chính công việc nội trợ, giữ tiền hay chăm
sóc trẻ em. Tỷ lệ người vợ tham gia các công việc vừa nêu cao hơn đáng kể so với
người chồng: nội trợ (82,5% so với 3,5%), giữ tiền (73,9% so với 9,3%), và chăm
sóc trẻ em (68,3% so với 2,4%). Trong khi đó người chồng chiếm tỷ lệ cao hơn vợ
trong các loại công việc khác như: thay mặt gia đình giao tiếp với chính quyền
(62,7% so với 18,1%), tiếp khách (46,1% so với 17,5%), sản xuất kinh doanh
(36,7% so với 27,6%). Toàn bộ các công trình nghiên cứu vừa nêu trên dù là nghiên
cứu sự phân biệt giới trong gia đình ở Việt Nam, nhưng gợi ra những vấn đề tương
tự với lối sống thực tế của người dân Lào.
Có thể nói, cho đến nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về sự biến đổi của gia
đình. Các chủ đề nghiên cứu này khá đa dạng, bao gồm các vấn đề từ biến đổi cấu
trúc, chức năng, vai trò, các mối quan hệ gia đình cho tới các khía cạnh cụ thể về
phân công lao động theo giới, vai trò của người chồng, người cha, vị thế người phụ
11
nữ, vấn đề giáo dục, mức sống… của gia đình. Tuy nhiên, ở nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào hiện nay, các vấn đề nghiên cứu này vẫn còn đang là rất ít, mới
chỉ được đề cập đến như là một khía cạnh khi bàn về các vấn đề khác của gia đình.
Do vậy, nghiên cứu vấn đề phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình của
người dân trên địa bàn huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng Chăn, nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào cũng là một hướng nghiên cứu khá mới về gia đình nói chung và
sự phân công lao động giữa người vợ-người chồng trong gia đình nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ và câu hỏi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nhận diện sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình của
người dân Lào trên địa bàn huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng Chăn.
- Tìm hiểu các yếu tố tác động đến sự phân công lao động giữa người vợ và
người chồng trong gia đình.
- Cung cấp những lý giải cần thiết về sự tồn tại của các vấn đề phân công lao
động giữa vợ và chồng trong gia đình nhằm góp phần lấp đầy khoảng cách giới
trong gia đình của người dân Lào.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập, phân tích các thông tin có sẵn về sự phân biệt việc làm giữa
người vợ và người chồng trong gia đình.
- Điều tra xã hội học về thực trạng và các yếu tố tác động đến sự phân biệt
việc làm giữa người vợ và người chồng trong bối cảnh CNH-ĐTH.
- Phân tích để làm rõ sự phân công lao động giữa người vợ và người chồng
trong các gia đình của người dân trên địa bàn huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng Chăn,
nước CHDCND Lào trong các mặt: sản xuất kinh doanh chung của hộ gia đình và
các công việc khác trong gia đình.
- Đưa ra những dự báo có thể về xu hướng biến đổi của cấu trúc phân công
lao động giữa vợ và chồng trong gia đình của người dân Lào trong thời gian tới.
12
3.3. Câu hỏi nghiên cứu
1). Thực trạng phân công lao động giữa người vợ và người chồng trong gia
đình của người dân trên địa bàn huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng Chăn, nước
CHDCND Lào hiện nay là như thế nào?
2). Những yếu tố nào tác động đến sự phân công lao động giữa người vợ và
người chồng trong gia đình?
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình của người dân Lào.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Người vợ hoặc người chồng trong các hộ gia đình tại địa bàn huyện Văng
Viêng, tỉnh Viêng Chăn, nước CHDCND Lào.
4.3. Phạm vi và địa bàn nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Sự phân công lao động giữa người vợ và người chồng
trên các mặt sản xuất kinh doanh và các công việc khác trong gia đình.
- Không gian nghiên cứu: 10 làng thuộc huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng
Chăn, nước CHDCND Lào.
- Thời gian nghiên cứu: Tháng 06 năm 2013 đến tháng 2 năm 2014.
5. Giả thuyết, các biến số và khung lý thuyết nghiên cứu
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
- Trong bối cảnh CNH-ĐTH hiện nay, vợ chồng có sự chia sẻ công việc
trong gia đình hơn so với trước.
- Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình của các dân tộc,
nhóm và nơi cư trú không đồng nhất.
- Những yếu tố tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, mức sống, quy
mô, thu nhập và quan điểm truyền thống về phân biệt việc làm có ảnh hưởng rất lớn
13
đến sự phân công lao động giữa người vợ và người chồng trong gia đình.
5.2. Các biến số
Biến phụ thuộc
- Thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình.
Biến can thiệp
- Các chính sách của Đảng và nhà nước.
- Môi trường kinh tế, xã hội và văn hóa
Biến độc lập
* Đặc điểm nhân khẩu học:
- Tuổi.
- Giới tính.
- Trình độ học vấn.
- Nghề nghiệp.
- Thu nhập.
* Đặc điểm gia đình:
- Quy mô hộ gia đình.
- Mức sống gia đình.
* Đặc điểm dân cư:
- Thành thị.
- Vùng ven.
- Các dân tộc.
14
5.3. Khung lý thuyết
Môi trường kinh tế-xã hội
Đặc điểm gia đình:
- Quy mô gia đình
- Mức sống gia đình
Việc sản
xuất-kinh
doanh
Đặc điểm nhân khẩu học:
- Tuổi
- Giới tính
- Trình độ học vấn
- Nghề nghiệp
- Thu nhập
Thực
trạng phân
công lao
động giữa
vợ và
chồng
trong gia
đình
Việc
tham gia
xã hội
Việc nội
trợ
Đặc điểm dân cư:
- Thành thị
- Vùng ven
- Các dân tộc
Các chính sách của
Đảng và Nhà nước
15
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp định tính và định lượng, cụ thể là phương
pháp phân tích tài liệu có sẵn, phương pháp điều tra, phỏng vấn, quan sát.
6.1. Phương pháp định tính
- Phân tích những chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước mà có liên
quan đến gia đình và giới.
- Phân tích các công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên các báo, tạp chí,
các sách giáo khoa, kỷ yếu khoa học đã được công bố để hình dung khái quát vấn
đề nghiên cứu và triển khai đề tài nghiên cứu.
- Phân tích các báo cáo thống kê tổng hợp về kinh tế xã hội trong các năm, từ
năm 2010 đến nay của huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng Chăn, nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào.
6.2. Phương pháp định lượng
6.2.1. Điều tra bằng bảng hỏi
- Điều tra bằng bảng hỏi với đối tượng là những người vợ hoặc chồng trong
các gia đình hiện đang sinh sống tại 10 làng thuộc huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng
Chăn, nước CHDCND Lao.
- Mẫu nghiên cứu là 201 hộ gia đình và lấy theo phương pháp ngẫu nhiên hệ
thống. Cụ thể dựa trên điều kiện các hộ gia đình của địa phương, do đó lấy ngẫu
nhiên theo mẫu được xác định là K=3.
6.2.2. Phỏng vấn sâu
Luận văn tiến hành phỏng vấn 16 cuộc phỏng vấn sâu với hộ gia đình thuộc
10 làng của huyện Văng Viêng nhằm thu thập các thong tin cụ thể về các vấn đề
nghiên cứu, đồng thời đề cùng cố độ tin cậy của các thông tin định lượng. Các đối
tượng được chọn phỏng vấn theo cách lấy mẫu chủ đích, dựa trên yêu cầu giải thích
hoặc làm rõ những thông tin thu được từ bảng hỏi định lượng.
6.2.3. Quan sát
Luận văn áp dụng phương pháp quan sát không tham dự trong suốt quá trình
nghiên cứu, ghi chép chi tiết và toàn diện về các vấn đề nghiên cứu.
16
Xử lý và phân tích dữ liệu.
Thông tin định lượng thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi sẽ được
kiểm tra, mã hóa và xử lý bằng phân mềm thống kê SPSS 14.0. Để có cái nhìn đa
chiều về kết quả nghiên cứu và phù hợp với việc kiểm định các giả thuyết nghiên
cứu, các dữ liệu được phân tích theo các tương quan như giới tính, học vấn, tuổi,
nghề nghiệp… của người trả lời. Bên cạnh đó, những thông tin định tính sẽ được
lựa chọn, khái quát, trích dẫn theo từng vấn đề thích hợp.
7. Lý thuyết nghiên cứu
* Về lý luận
Luận văn vận dụng các cách tiếp cận lý thuyết tương đối cổ điển trong xã hội
học như lý thuyết cấu trúc-chức năng, lý thuyết tương tác-biểu trưng, và lý thuyết
xung đột (bao gồm cả lý thuyết vị nữ) để nghiên cứu vấn đề phân công lao động
trên cơ sở giới trong gia đình nhằm làm rõ những vấn đề cụ thể của xã hội Lào. Đây
là một trong những nỗ lực gắn kết lý luận với thực tiễn trong nghiên cứu. Đóng góp
về mặt lý thuyết của luận văn là sự vận dụng lý thuyết trong thực tiễn cụ thể một
cách linh hoạt và phù hợp. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng góp phần bổ sung những
ý tưởng mới cho việc nghiên cứu sự phân công lao động theo giới trong gia đình nói
chung và sự phân biệt việc làm giữa người vợ và người chồng nói riêng ở nước
CHDCND Lào hiện nay.
* Về thực tiễn
Huyện Văng Viêng, tỉnh Viêng Chăn là một nơi được tiến hành cuộc công
nghiệp hóa và đô thị hóa theo chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước Lào, nên
có thể đại diện cho nhiều nơi khác trong cả nước, các dữ liệu thu được từ nghiên
cứu tại huyện Văng Viêng có thể được khái quát và áp dụng lý giải về vấn đề này ở
những địa phương có điều kiện kinh tế-xã hội tương tự. Do vậy, nghiên cứu này sẽ
cung cấp thêm những bằng chứng khoa học góp phần giúp nhìn nhận và đánh giá
một cách khách quan hơn về các vấn đề xã hội, vấn đề gia đình nói chung, đặc biệt
là vấn đề phân biệt việc làm giữa người vợ và người chồng trong gia đình của người
dân Lào trên bối cảnh phát triển nền kinh tế xã hội CNH-ĐTH.
* Đóng góp của luận văn
Thông qua kết quả nghiên cứu trong thực tế, luận văn hình thành nên cơ sở
thực tiễn giúp cho các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách có một cái
17
nhìn thực tế hơn về mối quan hệ giới hay sự phân biệt việc làm của người vợ-người
chồng trong các gia đình người dân Lào. Từ đó, các kết quả nghiên cứu có thể được
sử dụng để điều chỉnh và xây dựng các chính sách, biện pháp can thiệp phát triển đô
thị bền vẫn nói chung và đời sống kinh tế xã hội trong gia đình nói riêng ở địa
phương, nhằm định hướng và thúc đẩy đời sống người dân vươn lên theo hướng
công nghiệp hóa-hiện đại hóa trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm có 3 chương 7 tiết.
18
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG GIỮA VỢ
VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH
Việc phân công lao động giữa nam và nữ nói chung và giữa vợ và chồng nói
riêng đã được phát hiện từ rất sớm trong xã hội loài người. Con người khi hình
thành gia đình đã có ngay sự phân công lao động giữa nam và nữ. Khuôn mẫu phân
công lao động đó đã được lưu truyển từ thế hệ này sang thế hệ khác và luôn luôn
biến đổi theo không gian và thời gian nhất định. Từ góc độ xã hội học, vấn đề phân
công lao động giữa nam và nữ trong gia đình cũng được nhiều nghiên cứu quan
tâm. Dưới đây trình bày một số cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề này.
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm gia đình
Để đưa ra một định nghĩa đầy đủ về gia đình thực không dễ dàng. Từ xa xưa
các nhà triết học, nhà tư tưởng đã hướng đến nghiên cứu về gia đình và đều đã cố
gắng đưa ra cách xác định gia đình khác nhau.
Theo Lê Ngọc Văn (2012) , thì thuật ngữ gia đình được xác định theo một
trong hai cách tiếp cận vĩ mô hoặc vi mô. Vĩ mô thì gia đình là một thiết chế xã hội,
một đơn vị cơ sở của xã hội, thực hiện những chức năng xã hội nhất định, trước hết
là chức năng tái sinh sản ra con người, định nghĩa này dựa trên tiêu chí cấu trúc và
chức năng. Còn vi mô thì gia đình là một nhóm xã hội nhỏ đặc thù, có đặc trưng cơ
bản là được thiết lập trên cơ sở của hôn nhân mà từ đó hình thành các quan hệ huyết
thống ruột thịt giữa các thành viên, định nghĩa này dựa trên tiêu chí số lượng người
[15, tr. 27-28].
Theo giáo trình “Chủ nghĩa xã hội khoa học”, thì gia đình là một hình thức
cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu trên cơ sở
hôn nhân và huyết thống. Đúng như C.Mác đã nói “…hàng ngày tái tạo ra đời sống
của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở,
đó là quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [9, Tr. 415].
19
Theo Phạm Tất Dong-Lê Ngọc Hùng, gia đình là một thiết chế xã hội đặc
thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi mối quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về
sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của các
thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người,
trong đó có gia đình lớn và gia đình nhỏ.
Gia đình lớn thường được coi là gia đình truyền thống liên quan đến dạng gia
đình trong quá khứ. Đó là một nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống chung
với nhau dưới một mái nhà.
Gia đình nhỏ là nhóm người thể hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các
con. Ở đây có kiểu gia đình nhỏ đầy đủ và gia đình nhỏ không đầy đủ, trong đó gia
đình nhỏ đầy đủ là gia đình có vợ, có chồng và các con. Còn gia đình nhỏ không
đầy đủ là gia đình chỉ có vợ và chồng hoặc vợ và con, chồng và con [20, Tr. 310-
312].
Theo tác giả Chung Á và Nguyễn Đình Tấn (1996), gia đình là một nhóm xã
hội được hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân (quan hệ tính giao và quan hệ
tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái,
ông bà, họ hàng bên nội, bên ngoài) cùng chung sống; đồng thời có thể có một số
người được gia đình nuôi dưỡng tuy không có quan hệ máu mủ. Các thành viên gia
đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm…).
Giữa họ có những ràng buộc về tính pháp lý và được nhà nước thừa nhận, bảo vệ;
đồng thời có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong
quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình. Trông đó có cả gia đình đầy đủ (gia
đình có vợ có chồng) và gia đình không đầy đủ (gia đình chỉ có vợ sống cùng con
hoặc chồng sống cùng con) [22, Tr. 190].
Trong luận văn này, gia đình được hiểu là một cộng đồng được thiết chế hóa
và hình thành trên cơ sở hôn nhân, trách nhiệm pháp luật và đạo đức giữa vợ chồng,
con cái và các thành viên ruột thịt cùng chung sống với nhau trong khoảng thời gian
không hạn định. Có hình thức gia đình mở rộng (ba thế hệ trở lên) hoặc gia đình hạt
nhân với chủ yếu là hai vợ chồng và con cái.
1.1.1.2. Khái niệm phân công lao động
Trong thực tê, muốn tìm hiểu khái niệm phân công lao động, trước hết phải
hiểu khái niệm phân công và khái niệm lao động.
20
Khái niệm phân công
Theo từ điển tiếng Việt 2005, phân công là sự giao cho một phần việc nhất
định nào đó. Phân công mỗi người một việc. Ví dụ: Được phân công làm giáo viên
chủ nhiệm, được phân công làm trưởng khoa xã hội học, v.v. [29].
Vậy, theo cách hiểu đơn giản thì khái niệm phân công là sự chia sẻ công việc
giao cho các thành viên trong gia đình nói chung và là sự chia sẻ gánh nặng trong
các công việc gia đình của hai vợ chồng nói riêng.
Khái niệm lao động
Theo từ điển tiếng Việt (2005), lao động là hoạt động có mục đích của con
người nhằm tạo ra các loại sản phẩm về vật chất và tinh thần cho xã hội, bao gồm
lao động chân tay, lao động nghệ thuật và sức lao động [29].
Lao động có hai loại đó là Lao động sống và lao động vật hóa. Lao động
sống là lao động của con người, lao động vật hóa là lao động bằng máy móc. Mọi
hoạt động đều phải dùng người hoặc máy móc để thực hiện. Nên phân công lao
động là một quá trình tách riêng biệt các loại lao động khác nhau theo một tiêu thức
nhất định trong điều kiện xác định của gia đình. Thực chất là chia các công việc
thành các bộ phận và giao cho mỗi cá nhân phụ trách để thực hiện tốt và phù hợp
với năng lực sáng tạo của họ. Sự phân công lao động tất yếu dẫn đến sự hiệp tác lao
động trong một gia đình. Hiệp tác lao động là một quá trình mà ở đó nhiều người
cùng làm việc trong một quá trình sản xuất, hay ở nhiều quá trình sản xuất khác
nhau nhưng có liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau để nhằm một mục đích chung.
Sự phân công lao động giữa vợ và chồng (có tác giả dùng thuật ngữ phân
công lao động theo giới tính) là một chủ đề bắt đầu được quan tâm từ thế kỷ XIX.
Những quan tâm về sự phân công lao động theo giới thay đổi theo thời gian cùng
với quá trình tiến hóa và phát triển của con người, cũng như ảnh hưởng của sự phân
công lao động theo giới đến mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới.
Theo Mác và Ăngghen trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, thì sự phân công
lao động theo giới khởi nguồn từ lĩnh vực tình cảm, sau đó mở rộng phạm vi đến
lĩnh vực sản xuất:
Sự phân công lao động cũng phát triển, lúc đầu chỉ là phân công lao động
theo hành vi tình dục và về sau là sự phân công lao động tự hình thành “một
21
cách tự nhiên” do những thiên tính bẩm sinh (như thể lực chẳng hạn), do
những nhu cầu, do sự ngẫu nhiên, v.v. [16, tr. 291].
Trong “tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, hai ông cũng chỉ ra khía cạnh giới
về phân công lao động trong xã hội công nghiệp kiểu tư bản chủ nghĩa như sau:
Lao động càng ít cần đến sự khéo léo và sức lực chừng nào, nghĩa là công
nghiệp hiện đại càng tiến triển, thì lao động của đàn ông càng được thay thế
bằng lao đọng của đàn bà và trẻ em. Những sự phân biệt về lứa tuổi và giới
tính không còn có ý nghĩa xã hội gì nữa đối với giai cấp công nhân. Tất cả
đều là công cụ lao động mà chi phí thì thay đổi tùy theo lứa tuổi và giới tính
[16, tr. 550].
Phân công lao động giữa nam và nữ trong gia đình có thể khác nhau theo
thời gian và không gian, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế-xã hội cụ thể.
1.1.1.3. Khái niệm phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình
Trong thực tế, khái niệm pan công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình
là một khái niệm rất rộng, trong đó bao hàm toàn bộ các công việc sinh hoạt của gia
đình, nhưng ở đây luận văn chỉ giới hạn trong khuôn khổ phân công lao động sản
xuất-kinh doanh, tham gia xã hội và nội trợ trong gia đình mà thôi.
Trên cơ sở của những khái niệm gia đình và khái niệm phân công lao động ở
trên thì “Khái niệm phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình” là sự
chia sẻ và đảm nhiệm các công việc gia đình của vợ và chồng nhằm thực hiện
những chức năng về vị trí, vai trò và nhiệm vụ chăm sóc sức, giáo dục và nuôi
dưỡng… cho gia đình để dảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình.
Phân công lao động nam-nữ là yếu tố hình thành vai trò giới trong gia đình và xã
hội. Phụ nữ có vai trò biểu đạt tình cảm, nam giới có vai trò làm nhiệm vụ (còn gọi
là vai trò công cụ) tạo ra thu nhập. Theo thuyết chức năng, lao động của phụ nữ có
chức năng tình cảm và lao động của nam giới có chức năng tư duy và hành động
giải quyết nhiệm vụ. Điều đáng chú ý là sự phân công lao động theo giới không đơn
thuần dựa vào sự khác biệt về các đặc điểm sinh học giữa nam và nữ mà luôn gắn
liền với thói quên, suy nghĩ và quan điểm về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong
xã hội. Nhằm biện hộ cho sự bất bình đẳng nam nữ và bào chữa cho tư tưởng
“trọng nam khinh nữ”, một số người gán cho phụ nữ những “thiên chức” mà nam
giới hoàn toàn có thể làm tốt, không kém gì họ, chẳng hạn công việc nội trợ, chăm
sóc, nuôi dưỡng con cái trong gia đình.
22
1.1.2. Một số lý thuyết và cách tiếp cận nghiên cứu
1.1.2.1. Quan điểm của C.Mác về phân công lao động theo giới
Mác quan niệm lao động như là một quá trình phát triển lịch sử trong đó con
người tự biến đổi mình và biến đổi xã hội. Trong đó C.Mác chia các giai đoạn phát
triển của lao động thành hai hình thức như: “Hình thức sở hữu ruộng đất tập thể,
nền tảng của nó là săn bắn, đánh cá, chăn nuôi; đỉnh cao là nông nghiệp và hình
thức sở hữu sản xuất, nền tảng của nó là tiểu nông; đỉnh cao là công nghiệp”, phát
triển từ mối quan hệ gia đình mẫu hệ sang mối quan hệ gia đình phụ hệ, từ một gia
đình mở rộng sang gia đình nhỏ (gia đình hạt nhân) một vợ một chồng mang tính cá
nhân riêng biệt [6, tr. 42-45].
Như vậy, sự phân công lao động giữa nam và nữ trong một xã hội nhất định nói
chung và sự phân biệt việc làm giữa nam và nữ trong gia đình nói riêng là một quy
luật phát triển và biến đổi tất yếu mang tính khách quan của xã hội loài người. Nam
nữ có sự khác biệt về mặt sinh học nên cần phải chú ý đến đặc điểm sinh học của nó
để phân công công việc hợp lý cho các thành viên trong gia đình, bởi gia đình là
một tế bào của xã hội, là một đơn vị xã hội nhỏ. Vậy thì gia đình là nền tảng của xã
hội, gia đình phát triển xã hội mới phát triển đước và ngược lại nếu gia đình xuống
cấp thì cũng kéo xã hội lùi xuống theo. Nên sự phân công lao động trong gia đình là
việc tất yếu cần có, nhưng không phải là phân chia hẳn mà chỉ là giao công việc cho
các thành viên phụ trách, thực tế phải giúp đỡ lẫn nhau trong tất cả các công việc
của gia đình, dù công việc sản xuất, kinh doanh và nội trợ…v.v.
1.1.2.2. Lý thuyết cấu trúc-chức năng
Lý thuyết cấu trúc-chức năng trong xã hội học giải thích các thiết chế xã hội,
bao gồm cả thiết chế gia đình, theo nghĩa các chức năng mà những thiết chế này thể
hiện [39]. Lý thuyết chức năng bắt đầu với việc quan sát rằng các hành vi trong xã
hội mang tính cấu trúc, và rằng các mối quan hệ giữa các cá nhân được tổ chức theo
luật lệ và do vậy chúng được khuôn mẫu hóa và diễn ra theo quy luật. Từ đó các
nhà chức năng luận xem xét mối quan hệ giữa các bộ phận khác nhau của cấu trúc
và mối quan hệ của chúng với tổng thể xã hội. Nói theo cách đơn giản nhất, lý
thuyết chức năng tập trung vào các tác động như tác động của gia đình tới các bộ
phận khác của cấu trúc xã hội và tới toàn bộ xã hội. Tuy nhiên, nhìn chung thì việc
phân tích với cách tiếp cận chức năng luận bao hàm việc xem xét những đóng góp
của một thiết chế đối với việc duy trì và tồn tại toàn bộ hệ thống xã hội. Ví dụ, theo
nghĩa đơn giản, chức năng chính của gia đình là xã hội hóa các thành viên mới cho
23
xã hội.
Quan điểm cấu trúc-chức năng về gia đình, vốn gắn bó chặt chẽ với những
lập luận của Talcott Parsons (1902-1979), là tập trung vào gia đình và mối quan hệ
của nó với xã hội [41]. Parsons, T.(1952) cho rằng gia đình thực hiện một số chức
năng trong xã hội, nhưng có hai chức năng được coi là quan trọng nhất. Chức năng
thứ nhất là xã hội hóa trẻ em cho phù hợp với các giá trị và chuẩn mực phổ biến của
xã hội. Đặc biệt nhấn mạnh vào các nền văn hóa Bắc Mỹ, Parsons đưa ra lý thuyết
rằng vai trò của gia đình là đảm bảo rằng trẻ em được truyền dạy những phẩm chất
về sự độc lập và động cơ thành đạt. Chức năng thứ hai của gia đình là làm ổn định
các phẩm chất cá nhân của người lớn thông qua hôn nhân, với tư cách là nơi giải tỏa
những căng thẳng về tinh thần trong cuộc sống hàng ngày. Lý thuyết của Parsons
cũng bàn đến việc phân tách các vai trò giới trong gia đình, theo đó mỗi cá nhân của
cặp đôi (vợ-chồng) thực hiện một loại chức năng vừa đối ngược nhau, vừa bổ trợ
lẫn nhau. Nam giới thường được xác định là thực hiện các vai trò mang tính chủ
đạo, còn nữ giới được xác định với các vai trò mang bản chất biểu cảm hơn và có
tính bổ trợ. Parsons cho rằng vai trò mang tính biểu cảm được gắn cho phụ nữ vì lý
do gắn bó tình cảm giữa người mẹ và con cái của họ [42].
Mặc dù lý thuyết cấu trúc-chức năng là quan điểm lý thuyết chủ đạo trong
những năm 1950s-1960s, nhất là ở Bắc Mỹ, nhưng các lý thuyết chức năng về gia
đình hồi đó đã bị chỉ trích mạnh mẽ, đặc biệt là bởi vì chúng ít được quan tâm đến
biến thể khác của gia đình hay đến các vấn đề của gia đình. Hơn nữa, các nhà lý
thuyết chức năng thường biện hộ cho sự phân công lao động theo giới, và bỏ qua
những bất bình đẳng giới vốn gắn liền với cấu trúc “vai trò bổ trợ” của Parsons.
Trong đề tài nghiên cứu của luận văn này, cách tiếp cận của lý thuyết cấu
trúc-chức năng góp phần giúp nhìn nhận sự phân công lao động theo giới trong gia
đình phản ánh mối quan hệ giữa vợ và chồng như thế nào. Hơn nữa, việc sử dụng
tiếp cận cấu trúc-chức năng một cách có phê phán cũng là hữu ích khi xem xét các
vai trò giới dưới góc độ nhìn nhận thực tế của người dân địa phương nói riêng, và
của người Lào nói chung.
1.1.2.3. Lý thuyết tương tác-biểu trưng
Lý thuyết tương tác-biểu trưng, gắn với các công trình nghiên cứu của Mead,
Goffman và Becker, tập trung vào những sự kiện vi mô tạo nên các tương tác nhằm
mục đích tìm hiểu về các trải nghiệm cá nhân và hiểu về thế giới xã hội của họ,
cũng như tìm hiểu về cách thức mà những con người khác nhau cùng chia sẻ một
24
định nghĩa chung về thực tại như thế nào. Lý thuyết tương tác biểu trưng có nền
tảng là tiền đề cho rằng chỉ thông qua hành vi xã hội của các cá nhân mà xã hội mới
có thể tồn tại, và như vậy, xã hội suy cho cùng là cái được tạo dựng, duy trì và biến
đổi nhờ các tương tác xã hội của những thành viên trong nó.
Thuyết tương tác biểu trưng nhấn mạnh vào khả năng của các cá nhân trong
việc truyền tải các biểu trưng vào hành động của mình một cách tích cực và khéo
léo. Ngược lại thuyết chức năng lại hàm ý rằng cấu trúc xã hội là cái quyết định
hành động của con người. Do con người giao tiếp với nhau thông qua các biểu
tượng, nên tương tác giữa người với người là dựa trên những ý nghĩa mà các cá
nhân truyền tải vào các biểu tượng đó.
Các lý thuyết theo trường phái tương tác biểu trưng khi nghiên cứu gia đình
thường xem xét gia đình ở cấp độ nhỏ hơn so với các lý thuyết theo chức năng luận.
Lý thuyết tương tác biểu trưng tập trung vào cách thức mà các gia đình tạo ra và tái
tạo bản thân chúng ở cấp độ thường ngày. Không coi các vai trò gia đình là có sẵn
và các cấu trúc có sẵn được tuân thủ một cách chắc chắn, trường phái lý thuyết này
nhấn mạnh vào ý nghĩa và những trải nghiệm sống động gắn chặt với các vai trò đó
và vào cách thức mà chúng được tạo dựng thông qua tương tác [41].
Cái mà thuyết tương tác biểu trưng thiếu trong các lý thuyết vĩ mô về gia
đình là nó chỉ nhấn mạnh vào những hiểu biết chi tiết về các mối quan hệ gia đình,
trong khi có một số lượng lớn nghiên cứu nhấn mạnh vào hầu hết các khía cạnh có
thể nhận thức của đời sống gia đình. Sự đa dạng của các nghiên cứu về chủ đề này
chính là bằng chứng về các hướng nghiên cứu và chủ đề nghiên cứu mà chúng bao
quát. Các hướng và các chủ đề đó có thể bao gồm từ việc trẻ em lĩnh hội các giá trị
mang tính biểu trưng từ các nội dung của bữa ăn trưa ở trường như thế nào [40].
Vận dụng lý thuyết tương tác biểu trưng trong nghiên cứu quan hệ giới trong
gia đình, có thể thấy quan hệ đó là sản phẩm của quá trình tương tác giữa các cá
nhân nam và nữ. Quá trình tương tác này lại chịu sự chi phối của các nguyên tắc,
biểu tượng, các ký hiệu và bộc lộ thông qua ngôn ngữ, hành vi, cử chỉ, điệu bộ và
suy nghĩ… trong quá trình giao tiếp. Quá trình giao tiếp hàng ngày đã làm hình
thành nên một phức hợp các biểu trưng mang ý nghĩa chung có tác dụng phân định
địa vị, vai trò và hành vi của mỗi giới. Cụ thể trong quá trình tương tác với nhau
trong cuộc sống hàng ngày, xã hội đã hình thành “các khuôn mẫu gán cho” hoặc
“điều cần phải và có thể thực hiện” đối với nam và nữ, đã quy định hành vi và vai
trò nào là thích hợp với mỗi giới. Dần dần, ý nghĩa quy gán này được đông đảo các
25