Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của viện kiểm sát nhân dân thực tiễn tại tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 120 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN PHNG NHUNG

áP DụNG PHáP LUậT TRONG THựC HàNH QUYềN CÔNG Tố
ở GIAI đOạN đIềU TRA CủA VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN THựC TIễN TạI TỉNH YÊN BáI

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN PHNG NHUNG

áP DụNG PHáP LUậT TRONG THựC HàNH QUYềN CÔNG Tố
ở GIAI đOạN đIềU TRA CủA VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN THựC TIễN TạI TỉNH YÊN BáI
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: GS.TSKH. O TR C

H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Phƣơng Nhung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN .........................................................7
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm

sát nhân dân ..................................................................................................7

1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân......................................................7
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ............................28
1.1.3. Vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân .....................................34
1.2.

Quy trình áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân .......................................36

1.2.1. Nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ, điều kiện, hoàn
cảnh có liên quan đến sự kiện pháp lý, đối tƣợng và quyết định xử lý
do Cơ quan điều tra cung cấp .......................................................................37
1.2.2. Lựa chọn quy phạm pháp luật, làm sáng tỏ nội dung tƣ tƣởng của các
quy phạm pháp luật đƣợc áp dụng trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ............................................38
1.2.3. Ban hành văn bản áp dụng pháp luật ...........................................................39
1.2.4. Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật .............................................39


1.3.

Các yếu tố bảo đảm hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ...............39

1.3.1. Các yếu tố khách quan .................................................................................39
1.3.2. Các yếu tố chủ quan .....................................................................................43

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1............................................................................................46
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI NHỮNG NĂM
GẦN ĐÂY (TỪ NĂM 2011 - 2015) ...........................................................47
2.1.

Kết quả áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái từ 2011 2015 và nguyên nhân đạt đƣợc .................................................................47

2.2.

Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng pháp luật về thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Yên Bái (2011 - 2015) và nguyên nhân .............................................65

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2............................................................................................80
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN ...........................................................................81
3.1.

Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiếm sát nhân dân .....81

3.2.

Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lƣợng áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm

sát nhân dân ................................................................................................85

3.2.1. Nhóm các giải pháp về hoàn thiện pháp luật ...............................................85
3.2.2. Nhóm các giải pháp đối với ngành Kiểm sát ...............................................94
3.2.3. Nhóm các giải pháp khác ...........................................................................101
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3..........................................................................................106
KẾT LUẬN ............................................................................................................107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................109


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1.

ADPL:

Áp dụng pháp luật

2.

BLHS:

Bộ luật hình sự

3.

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

4.


CQĐT:

Cơ quan điều tra

5.

ĐTV:

Điều tra viên

6.

KSV:

Kiểm sát viên

7.

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

8.

TTHS:

Tố tụng hình sự

9.


VAHS:

Vụ án hình sự

10.

VKS:

Viện kiểm sát

11.

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

12.

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng


Bảng 2.1: Số vụ án, bị can khởi tố mới (vụ/bị can)

Trang
47

Bảng 2.2: Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn
khởi tố vụ án, khởi tố bị can

55

Bảng 2.3: Số bắt hình sự - xử lý

58

Bảng 2.4: Viện kiểm sát thụ lý kiểm sát điều tra (vụ/bị can)

60

Bảng 2.5: Viện kiểm sát thụ lý giải quyết (vụ/bị can)

61


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, đời sống kinh tế - xã hội của đất
nƣớc đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng. Song những ảnh hƣởng từ mặt trái
của kinh tế thị trƣờng dẫn đến tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm diễn biến phức
tạp, có chiều hƣớng gia tăng với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Kết
quả hoạt động của các cơ quan tƣ pháp trong những năm gần đây đã góp phần quan

trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của
nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tuy nhiên, hoạt động
của các cơ quan tƣ pháp vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của tình hình mới. Trƣớc
thực trạng đó, Đảng và Nhà nƣớc đang tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách tƣ pháp,
nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cơ quan tƣ pháp trong công tác đấu tranh
phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm.
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là cơ quan đƣợc Nhà nƣớc trao thực hiện
chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. Hoạt động áp dụng pháp luật
(ADPL) của VKSND trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tƣ pháp có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
trong đó công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra giúp cho CQĐT hoạt
động đúng hƣớng, việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đƣợc đúng ngƣời đúng tội, hoạt
động điều tra đƣợc đầy đủ, chính xác và kịp thời. Do vậy, hoạt động ADPL của
VKSND trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong bối
cảnh hiện nay đòi hỏi phải đƣợc chú trọng và nâng cao chất lƣợng mới đáp ứng yêu
cầu thực tiễn đặt ra.
Yên Bái là một tỉnh miền núi có địa hình đồi núi phức tạp, giao thông đi lại
còn khó khăn, có nhiều dân tộc cùng chung sống với nhiều phong tục tập quán, văn
hóa truyền thống khác nhau. Cùng với công cuộc đổi mới của Đảng, trong những
năm gần đây, kinh tế - xã hội của Yên Bái đã có nhiều khởi sắc, tuy nhiên Yên Bái
vẫn là một tỉnh nghèo, trình độ dân trí nói chung và trình độ hiểu biết pháp luật nói

1


riêng còn thấp so với cả nƣớc, tình hình vi phạm, tội phạm trên địa bàn có những
diễn biến phức tạp, tính chất nghiêm trọng ngày càng tăng.
Qua tổng kết, đánh giá thực tế tại VKNSD tỉnh Yên Bái những năm vừa qua
cho thấy, công tác thực hành quyền công tố vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, hạn chế
so với yêu cầu cải cách tƣ pháp nhƣ: có những Kiểm sát viên (KSV), có những đơn

vị không thực hiện đƣợc công tác thực hành quyền công tố ngay từ giai đoạn đầu,
còn thụ động chờ đợi kết quả điều tra của cơ quan điều tra (CQĐT); hoặc là vì sợ
trách nhiệm nên làm thay một số thao tác của Điều tra viên (ĐTV), không theo dõi
đề ra yêu cầu điều tra; hoặc là bỏ mặc cho Điều tra viên tự tiến hành điều tra, dẫn
tới nhiều vụ án bị kéo dài, phải gia hạn thời hạn điều tra, còn để lọt tội phạm...
Những vi phạm trên cho thấy chất lƣợng và hiệu quả của công tác ADPL trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND vẫn còn bộc lộ yếu kém, dẫn
đến tình trạng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có lúc, có nơi chƣa đƣợc tôn
trọng và bảo vệ, tác dụng giáo dục, phòng ngừa tội phạm bị hạn chế. Những hạn
chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu là do ý
thức pháp luật và năng lực ADPL trong hoạt động thực tiễn của CQĐT, VKSND.
Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ nhận thức việc ADPL trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là một trong những vấn đề
quan trọng, cần có sự quan tâm hơn nữa cả về phƣơng diện lý luận lẫn thực tiễn để
việc ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND tỉnh Yên Bái đạt kết quả
cao hơn, đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp. Vì những lý do này, học viên chọn đề
tài: "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân – Thực tiễn tại tỉnh Yên Bái" làm luận văn tốt nghiệp cao
học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu vấn đề liên quan đến ADPL trong thực hành quyền công tố
những năm qua đã đƣợc một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến
hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Có một số luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo
đã nghiên cứu về vấn đề này, đáng chú ý là các công trình sau:

2


- Đề tài nghiên cứu cấp bộ:

+ Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công
tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong công tác kiểm sát hình sự, đề tài
nghiên cứu cấp bộ, do Ngô Văn Đọn làm chủ nhiệm đề tài, năm 2004;
+ Sổ tay kiểm sát viên hình sự, của VKSND tối cao, tập I năm 2006;
+ Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2006;
+ Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
của TS. Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Tƣ pháp, năm 2008;
- Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập đến ADPL trong thực hành
quyền công tố của VKSND:
+ Luận án tiến sĩ: Quyền công tố ở Việt Nam, của nghiên cứu sinh Lê Thị
Tuyết Hoa thực hiện năm 2002;
+ Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, của Trịnh Duy
Tám, năm 2005;
+ Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án ma túy
theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, của Bùi Mạnh Cƣờng, năm 2007;
+ Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố ở giai đoạn
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với vụ án người chưa thành niên phạm tội
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, của Vũ Xuân Thoan, năm 2008;
- Một số bài viết nhƣ: “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp” của Hà Mạnh
Trí, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2003; “Đặc trưng của áp dụng
pháp luật hình sự” của Chu Thị Trang Vân đăng trên Tạp chí nhà nƣớc và pháp
luật, số 3/2006; “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước
ta hiện nay” của Đỗ Văn Đƣơng, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7/2006;
“Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện của nhà nước pháp quyền” của Nguyễn
Đăng Dung, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10/2008…

3



Các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu về mặt lý luận, thực tiễn, đề
xuất những giải pháp khoa học ở các cấp độ khác nhau, ở các địa phƣơng khác nhau
nhằm bảo đảm việc ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các
VAHS. Tuy nhiên, mỗi địa phƣơng có những đặc thù khác nhau nên việc áp dụng ở
tỉnh Yên Bái không tránh khỏi những bất cập. Kế thừa các kết quả nghiên cứu nêu
trên, tác giả tiếp cận vấn đề ADPL dƣới góc độ lý luận về nhà nƣớc và pháp luật để
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn ADPL trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái. Tác giả mong muốn tìm ra giải pháp
nâng cao chất lƣợng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra nói
chung và tại VKSND tỉnh Yên Bái nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về hoạt động ADPL trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, thực tiễn hoạt động thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái từ năm 2011 đến 2015.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Giới hạn về không gian và thời gian: Trên cơ sở lý luận về ADPL trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu
thực tiễn ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình
sự của VKSND tỉnh Yên Bái từ năm 2011 đến năm 2015.
+ Giới hạn về giai đoạn tố tụng: Theo quy định của BLTTHS (2003), Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân (2014), VKS là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố. Đây là lĩnh vực rất rộng lớn, bởi vậy luận văn chỉ nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về ADPL trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề về lý luận, cơ sở pháp lý, thực trạng

APDL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra và đƣa ra những giải pháp
nhằm đảm bảo việc ADPL đƣợc đúng đắn, nâng cao hơn nữa chất lƣợng thực hành

4


quyền công tố của VKSND tỉnh Yên Bái, đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp, góp
phần cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong tỉnh đấu tranh phòng, chống tội
phạm và bảo vệ tốt hơn lợi ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
và công dân.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích cơ sở lý luận về ADPL và ADPL trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra của VKSND theo quy định của pháp luật. Tập trung làm rõ khái
niệm, nội dung, đặc điểm, vai trò, quy trình và các yếu tố bảo đảm việc ADPL trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND;
+ Phân tích thực trạng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn
điều tra vụ án hình sự của VKSND tỉnh Yên Bái. Phân tích làm rõ những kết quả
đạt đƣợc cũng nhƣ những hạn chế tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế
trong hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của
VKSND tỉnh Yên Bái;
+ Đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp để nâng cao chất lƣợng ADPL trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái, đề xuất các
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa chất lƣợng, hiệu quả ADPL trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKS, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải
cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà
nƣớc và pháp luật, các quan điểm và tƣ tƣởng chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN, phát huy dân chủ, công khai minh bạch
đối với hoạt động của các cơ quan công quyền trong đó có hoạt động của các cơ

quan tƣ pháp, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tƣ pháp đƣợc thể
hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị, chính sách pháp luật Đảng và Nhà nƣớc ta trong tố
tụng hình sự, luận văn sử dụng các phƣơng pháp: phân tích và tổng hợp, thống kê
và so sánh, kết hợp lý luận và khảo sát thực tiễn…

5


6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách tƣơng đối toàn
diện và có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ về hoạt động ADPL trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của VKSND tỉnh Yên Bái.
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc dùng làm tƣ
liệu tham khảo phục vụ cho cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành Kiểm sát, nhất là những
Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố. Bên cạnh đó, luận văn
cũng có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên luật, cán bộ
nghiên cứu giảng dạy và nghiên cứu một số chuyên đề khác có liên quan đến hoạt động
ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng, 7 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái.
Chương 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao chất lƣợng áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Yên Bái.


6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, các giai đoạn của hoạt động áp dụng pháp luật
* Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật là các quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân, do nhà
nƣớc ban hành hoặc thừa nhận, có tính bắt buộc chung, đƣợc nhà nƣớc bảo đảm
thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục thuyết phục và cƣỡng chế nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy hiệu quả khi các quy định
do Nhà nƣớc đặt ra đƣợc chính các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và công dân
thực hiện một cách nghiêm minh và tự giác. Căn cứ vào tính chất của việc thực hiện
pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia thành 4 hình thức thực hiện pháp luật
gồm: Tuân thủ pháp luật (còn gọi là tuân theo pháp luật), thi hành pháp luật (còn
gọi là chấp hành pháp luật), sử dụng pháp luật và ADPL. Trong đó, ADPL là hình
thức thực hiện pháp luật đặc biệt quan trọng vì nó là bảo đảm pháp lý cho toàn bộ
các hình thức thực hiện pháp luật khác, tức là cho hoạt động thực hiện pháp luật nói
chung. Bởi trong nhiều trƣờng hợp, chủ thể thực hiện pháp luật không muốn hoặc
không đủ khả năng thực hiện pháp luật nếu thiếu sự tham gia của các cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền thì khi đó cần thiết phải ADPL.
ADPL là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nƣớc thông qua các
cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật
thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định

của pháp luật, ra các quyết định ADPL vào trong những trƣờng hợp cụ thể của
đời sống xã hội [17, tr. 500].

7


Trên thực tế, ADPL đƣợc tiến hành vô cùng linh hoạt bởi sự đa dạng của hệ
thống quy phạm pháp luật cũng nhƣ phƣơng thức thực thi pháp luật của các chủ thể.
Xét về nội dung và khả năng hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ pháp lý, có thể khái
quát một số trƣờng hợp cơ bản cần ADPL nhƣ sau:
- Khi có vi phạm pháp luật xảy ra, và cần áp dụng các biện pháp cƣỡng chế
nhà nƣớc, hoặc áp dụng các chế tài pháp luật đối với những chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật. Chẳng hạn nhƣ khi Tòa án xét xử vụ án hình sự hoặc hành chính…
- Khi quan có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ pháp lý mà các chủ thể không
tự giải quyết đƣợc. Ví dụ khi có tranh chấp về bất động sản liều kề giữa các hộ gia
đình ở gần nhau, tranh chấp về thừa kế…
- Khi quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nƣớc. Chẳng hạn, khi một cá
nhân đã đủ điều kiện đƣợc nâng bậc lƣơng theo quy định của pháp luật nhƣng họ
không thể tự mình ra quyết định hoặc mặc nhiên đƣợc hƣởng bậc lƣơng đó mà cần
phải có quyết định của chủ thể có thẩm quyền.
- Khi Nhà nƣớc xác định một hành vi, một kết quả hoạt động hoặc một mối
quan hệ xã hội nào đó là hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Ví dụ, khi công chứng, chứng
thực các loại giấy tờ, hoặc khi xác nhận đăng ký kết hôn…
- Trong một số trƣờng hợp nhà nƣớc thấy cần thiết phải tham gia vào một số
quan hệ pháp luật cụ thể để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào
quan hệ đó, bảo đảm tính đúng đắn của các hành vi.
Mặc dù hiện nay còn có những quan niệm khác nhau về ADPL nhƣng tác giả
đồng tình với quan điểm của đa số các nhà khoa học pháp lý khi cho rằng: ADPL là
hoạt động mang tính tổ chức, quyền lực của Nhà nước, được thực hiện thông qua

những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội khi
được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật vào các
trường hợp cụ thể đối với các cá nhân cụ thể và tổ chức cụ thể.
* Đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật
- ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước:

8


Pháp luật do nhà nƣớc ban hành và bảo đảm thực hiện nên dĩ nhiên nó mang
tính quyền lực nhà nƣớc. Nhờ có sự bảo đảm của nhà nƣớc nên pháp luật mới có sức
mạnh bắt buộc đối với mọi chủ thể có liên quan. Nhƣ vậy, ADPL thực chất là quá
trình sử dụng quyền lực nhà nƣớc, nhân danh nhà nƣớc, bảo đảm cho quyền lực nhà
nƣớc có hiệu lực trên thực tế.
- ADPL là hoạt động tuân theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định:
ADPL là quy trình đặc biệt của việc thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo cho
pháp luật có giá trị điều chỉnh trên thực tế. Mặt khác, chủ thể bị ADPL có thể
đƣợc hƣởng những lợi ích rất lớn nhƣng cũng có thể phải chịu những hậu quả
nghiêm trọng từ hoạt động ADPL. Do vậy, pháp luật phải quy định rõ ràng cơ sở,
điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình ADPL.
Tùy thuộc vào từng lĩnh vực ADPL mà trình tự, thủ tục đƣợc xác lập cho phù hợp.
Các quy trình, thủ tục ADPL có thể đầy đủ hoặc đƣợc rút gọn theo quy định của
pháp luật. Nhƣ vậy, không thể có một quy trình, thủ tục chung cho các lĩnh vực
ADPL trên thực tế.
- ADPL là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội
nhất định:
Đối tƣợng của hoạt động ADPL là những quan hệ xã hội cần đến sự điều
chỉnh cá biệt trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng
hoạt động ADPL, những quy phạm pháp luật nhất định đƣợc cá biệt hóa vào những
trƣờng hợp cụ thể của đời sống. Chính nhờ có quá trình ADPL mà nhiều quy phạm

pháp luật mới có điều kiện đƣợc thực thi hay có hiệu lực trên thực tế. Hơn nữa, về
phía chủ thể, nhờ có ADPL mới xác định đƣợc những giới hạn pháp lý cần thiết cả
về quyền, nghĩa vụ cũng nhƣ trách nhiệm pháp lý có liên quan khi tham gia quan hệ
pháp luật. ADPL cũng làm rõ cả khía cạnh đòi hỏi cụ thể về mặt hình thức, thủ tục
đối với việc thực hiện những nội dung cơ bản đó.
- ADPL đòi hỏi tính sáng tạo cao của các chủ thể có thẩm quyền:
ADPL là quá trình thực hiện pháp luật đƣợc hình thành trên cơ sở nhận thức.
Khi ADPL, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lƣỡng vụ việc,

9


làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản ADPL
và tổ chức thi hành. Điều này đòi hỏi các chủ thể có liên quan không đƣợc thụ động,
máy móc để có thể đảm bảo thời hiệu, thời hạn xử lý các vụ việc theo quy định
pháp luật đặt ra. Đƣơng nhiên, sáng tạo trong ADPL chủ yếu là ở góc độ kỹ thuật,
tổ chức chứ không thể là sáng tạo về mặt nội dung. Trong trƣờng hợp pháp luật
chƣa quy định hoặc quy định chƣa rõ thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng
cách ADPL tƣơng tự.
Từ sự phân tích trên cho thấy, ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể
hiện quyền lực nhà nƣớc, đƣợc thực hiện thông qua những cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi đƣợc Nhà nƣớc trao quyền,
nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trƣờng hợp cụ thể đối với các
cá nhân, tổ chức cụ thể.
* Các giai đoạn áp dụng pháp luật
Dựa vào nội dung công việc thực hiện cụ thể, khoa học và thực tiễn pháp lý
chia quá trình ADPL thành bốn giai đoạn sau:
- Phân tích, đánh giá nội dung, điều kiện, hoàn cảnh sự kiện thực tế cần ADPL:
Trƣớc hết cần xác định đúng nội dung, đối tƣợng, bản chất pháp lý của sự
kiện thực tế, nếu cần ADPL thì phải làm rõ chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết,

chuẩn bị về mặt tổ chức, nhân sự, kỹ thuật cũng nhƣ xác định thời điểm tiến hành
ADPL. Nếu thấy chƣa đủ điều kiện hoặc không cần thiết phải tiếp tục ADPL thì các
chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoặc chấm dứt việc ADPL.
Giai đoạn đầu của quá trình ADPL đặt ra những yêu cầu sau:
+ Nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ tình tiết của vụ việc;
+ Xác định đƣợc đặc trƣng pháp lý của nó;
+ Tuân thủ các quy định mang tính thủ tục gắn với mỗi loại vụ việc.
- Lựa chọn quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc đưa ra các quyết
định áp dụng pháp luật:
Đây là giai đoạn quan trọng trong quy trình ADPL vì nếu không đƣa ra cơ sở
pháp lý phù hợp và có sức thuyết phục thì sẽ ảnh hƣởng trực tiếp tới các giai đoạn

10


sau. Về nguyên tắc, cần phải chọn quy phạm pháp luật còn hiệu lực và sát thực với
nội dung sự kiện, quan hệ pháp luật cần điều chỉnh, làm rõ quy phạm pháp luật đó
thuộc ngành luật nào, phân tích, làm sáng tỏ nội dung của quy phạm đã lựa chọn.
Trên thực tế, việc lựa chọn quy phạm pháp luật có thể xảy ra nhiều khả năng.
Nếu có một quy phạm pháp luật đáp ứng đủ yêu cầu thì chủ thể có thẩm quyền có
thể xác định đƣợc ngay cơ sở pháp lý cho việc ADPL. Nếu có hai hay nhiều quy
phạm pháp luật cùng điều chỉnh quan hệ đó nhƣng ra cách giải quyết khác nhau
(trƣờng hợp xung đột quy phạm pháp luật trong ADPL) thì chủ thể có thẩm quyền
lựa chọn quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn và đƣợc ban hành sau.
Trƣờng hợp không có quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc ADPL thì chủ
thể có thẩm quyền xem xét ADPL tƣơng tự.
- Đưa ra quyết định ADPL:
Đây là giai đoạn quan trọng nhất, phản ánh kết quả thực tế quá trình ADPL
của các chủ thể có thẩm quyền. Ở giai đoạn này, những quyền và nghĩa vụ pháp lý
cụ thể của các chủ thể hoặc những biện pháp đối với ngƣời vi phạm đƣợc ấn định.

Về bản chất, đây là giai đoạn chuyển hóa những quy định chung đƣợc nêu ra trong
các quy phạm pháp luật thành những quyết định cụ thể, cá biệt. Các quyết định
ADPL đƣợc đƣa ra phải đảm bảo tính khách quan, hợp pháp cũng nhƣ sự phù hợp ở
cả khía cạnh pháp lý và thực tế. Đối với các quyết định đƣợc thể hiện bằng văn bản
ADPL thì việc lựa chọn ngôn ngữ, văn phạm phải dễ hiểu, phổ thông, đơn nghĩa.
- Tổ chức thực hiện quyết định ADPL trên thực tế:
Đây đƣợc coi là giai đoạn cuối cùng của hoạt động ADPL. Việc bảo đảm cho
các văn bản có hiệu lực thực thi trên thực tế có ý nghĩa quan trọng vì khi đó mục
đích điều chỉnh của pháp luật mới đạt đƣợc. Trách nhiệm thi hành trƣớc hết là của
những đối tƣợng có liên quan đƣợc chỉ rõ trong quyết định ADPL, nhƣng cơ quan
ban hành cũng nhƣ những cơ quan có liên quan khác có trách nhiệm bảo đảm việc
thực hiện quyết định ADPL.
Cần chuẩn bị tốt các điều kiện thiết yếu để các chủ thể liên quan có khả năng
thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý cũng nhƣ trách nhiệm pháp lý của họ nhƣ các

11


điều kiện về kỹ thuật, pháp lý, tổ chức, xã hội và tƣ tƣởng… Đồng thời cần tiến
hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực thi các quyết định ADPL đối với
các chủ thể có liên quan để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của nó trên thực tế.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân
* Quyền công tố và thực hành quyền công tố
- Khái niệm quyền công tố:
“Công tố” là một từ ghép Hán – Việt có nghĩa là “truy tố, buộc tội bị cáo và
phát biểu ý kiến trước Tòa án, nhân danh Nhà nước” [26, tr. 206].
Quyền công tố là quyền lực công luôn gắn liền với quyền tài phán của Tòa
án. Đây cũng là tƣ tƣởng gặp nhau cơ bản giữa các nhóm quan điểm khác nhau về
quyền công tố - quyền đƣa vụ án ra Tòa và “buộc tội” ngƣời phạm pháp tại Tòa án.

Trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa (gỡ tội)
và xét xử. Buộc tội thực chất chính là hoạt động truy cứu TNHS đối với ngƣời
phạm tội. Ngƣời buộc tội hay cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có quyền và
trách nhiệm đƣa ra lời cáo buộc cụ thể đối với những cá nhân cụ thể và có nghĩa
vụ phải chứng minh tội phạm. Quyền công tố là quyền của cơ quan công tố nhân
danh nhà nƣớc tiến hành buộc tội đối với ngƣời phạm tội, còn khi tham gia vào
các quan hệ khác (dân sự, kinh tế lao động, hành chính), cơ quan công tố chỉ (có
thể) đứng ra thay cho ai đó để đề nghị, yêu cầu Tòa án phán xét, chứ không thể
thực hiện việc buộc tội.
Do chức năng buộc tội và gỡ tội là đối trọng nhau, và cơ quan tài phán thì
không thể “vừa đá bóng vừa thổi còi”, nghĩa là không thể vừa thực hành quyền công
tố vừa xét xử, nên để bảo đảm tính khách quan và sự công bằng thì quyền công tố
phải độc lập với quyền tài phán của Tòa án. Về mặt nguyên tắc, quyền công tố chỉ
có thể do một cơ quan thực hiện và đƣợc gọi là cơ quan công tố (ở Việt Nam cơ
quan này là VKSND). Đồng thời, cũng nhƣ bất cứ loại quyền lực nào, quyền công
tố phải đƣợc thể hiện ở nội dung cụ thể của nó trong các giai đoạn tố tụng. Đây là
một trong những yếu tố quan trọng và cần thiết để phân biệt quyền công tố với các

12


thẩm quyền tố tụng khác của cơ quan công tố và với thẩm quyền của các cơ quan
tiến hành tố tụng khác nhƣ Cơ quan điều tra, Tòa án...
Từ những phân tích trên đây, tác giả đƣa ra quan điểm tƣơng đồng với đa số
các nhà nghiên cứu về khái niệm quyền công tố: Quyền công tố là quyền nhân danh
nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, bảo
đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội và
bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa (ở Việt Nam cơ quan nhà nƣớc đƣợc giao
quyền công tố là hệ thống VKSND từ Trung ƣơng đến địa phƣơng).
- Khái niệm, đối tượng, nội dung, phạm vi thực hành quyền công tố:

Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của nhà nƣớc ta đƣa ra cụm
thuật ngữ “thực hành quyền công tố” khi đề cập đến chức năng của VKSND. Thuật
ngữ này đã đƣợc nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981. Kể
từ đó, đã có nhiều tài liệu, bài viết bàn về quyền công tố và thực hành quyền công
tố. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta tích cực triển khai thực hiện các nghị
quyết của Đảng về cải cách bộ máy nhà nƣớc và cải cách tƣ pháp thì việc nhận thức
rõ về quyền công tố và thực hành quyền công tố có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về
mặt lý luận và thực tiễn.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật (Hiến pháp 1959, 1981, 1992, 2013 và
các Luật tổ chức VKSND 1960, 1981, 1992, 2002, 2014) thì VKSND là cơ quan duy
nhất đƣợc giao chức năng thực hành quyền công tố. Điều 107 Hiến pháp 2013 quy
định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Nhƣ vậy, ở nƣớc ta, chủ thể thực hành quyền công tố là hệ thống cơ quan VKSND.
Xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực nhà
nƣớc thực hiện việc truy cứu TNHS đối với ngƣời phạm tội, thực hành quyền công
tố chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật
TTHS để truy cứu TNHS đối với ngƣời phạm tội, đƣa ngƣời phạm tội ra xét xử
trƣớc Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Mặt khác, để quyền công tố đƣợc bảo đảm
trong thực tế, Nhà nƣớc đã ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định các
quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền đƣợc áp dụng để phát hiện, truy cứu

13


TNHS đối với ngƣời phạm tội, đƣa vụ án ra xét xử trƣớc Tòa án. Và việc sử dụng
những quyền năng này để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với kẻ phạm tội chính
là thực hành quyền công tố.
Từ những phân tích trên đây, tác giả cho rằng: Thực hành quyền công tố là
việc cơ quan nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ giữ quyền công tố (ở Việt
Nam là hệ thống cơ quan VKSND) sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý do

luật định thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu TNHS đối với người phạm tội và
bảo vệ việc truy cứu TNHS đó trong các giai đoạn tố tụng.
Hiến pháp năm 2013 đƣợc Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 đã
có những nội dung mới quan trọng về chế định VKSND, bổ sung, làm rõ hơn những
nguyên tắc mới, tiến bộ của tố tụng tƣ pháp liên quan trực tiếp đến hoạt động của
VKSND. Những nội dung này đƣợc cụ thể hóa trong Luật tổ chức VKSND sửa đổi
năm 2014, tại Điều 3 lần đầu tiên đã quy định rõ đối tƣợng, nội dung, phạm vi thực
hành quyền công tố: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong
TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực
hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
Nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố là tất cả những quyền năng
tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời không có tội.
Những hoạt động trên đây của VKS hoàn toàn mang tính độc lập, không lệ thuộc
vào bất cứ cơ quan nào.
* Giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự
Quá trình TTHS đƣợc chia thành các giai đoạn khác nhau với những hoạt
động khác nhau của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Ở nƣớc ta hiện nay có
nhiều quan điểm về việc phân chia các giai đoạn TTHS. Có quan điểm cho rằng quá
trình TTHS gồm 5 giai đoạn: Khởi tố VAHS, điều tra VAHS, truy tố ngƣời phạm
tội, xét xử và thi hành án. Bên cạnh đó cũng tồn tại quan điểm cho rằng quá trình
TTHS gồm 7 giai đoạn: Khởi tố VAHS, điều tra VAHS, truy tố, xét xử sơ thẩm
VAHS, xét xử phúc thẩm VAHS, thi hành án và giai đoạn đặc biệt (giám đốc thẩm,

14


tái thẩm). Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia các giai đoạn
TTHS nhƣng điều tra VAHS vẫn là giai đoạn không thể thiếu và có vai trò, nhiệm

vụ quan trọng, bởi kết quả của hoạt động điều tra quyết định việc truy tố của VKS
và xét xử của Tòa án, các quyết định của Tòa án về tội phạm và ngƣời phạm tội chủ
yếu dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập đƣợc ở giai đoạn điều tra.
Giai đoạn điều tra có nhiệm vụ:
+ Thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm và ngƣời phạm tội, làm cơ sở
cho việc truy tố và xét xử đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật;
+ Xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, tạo điều kiện cần thiết cho việc giải
quyết vụ án;
+ Tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức
hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa;
+ Góp phần phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân.
Giai đoạn điều tra có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Giai đoạn điều tra VAHS bắt đầu từ khi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền ra quyết định khởi tố VAHS đến khi cơ quan điều tra chuyển toàn bộ hồ sơ
vụ án và bản kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc ra quyết định đình chỉ
điều tra vụ án.
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do
BLTTHS quy định để chứng minh tội phạm và ngƣời phạm tội, làm rõ các tình tiết
liên quan đến vụ án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng
nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội
để kiến nghị với các cấp, các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.
+ Chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra là cơ quan
điều tra, VKS hoặc các cơ quan khác đƣợc giao thực hiện một số hoạt động điều tra.
Các tài liệu phải do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập mới
đƣợc coi là những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu TNHS. Còn các tài liệu có
liên quan đến vụ án do các hoạt động khác cung cấp (ví dụ hoạt động trinh sát) thì
phải đƣợc cơ quan điều tra kiểm tra, thẩm định và đƣợc chuyển hóa theo trình tự tố

15



tụng. Đối với tài liệu do ngƣời bào chữa thu thập đƣợc trong giai đoạn điều tra thì
phải giao nộp cho CQĐT hoặc VKS, việc giao nhận tài liệu, đồ vật giữa ngƣời bào
chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải đƣợc lập biên bản theo Điều 95 BLTTHS.
+ Trong giai đoạn điều tra, các chủ thể áp dụng các biện pháp tùy thuộc vào
tính chất, mức độ, hậu quả của từng vụ án. Các biện pháp đó là: Khám xét; thu giữ;
kê biên tài sản; khám nghiệm hiện trƣờng; khám nghiệm tử thi; thực nghiệm điều
tra; hỏi cung bị can; lấy lời khai ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên, ngƣời bị tạm giữ, tạm giam; đối
chất; nhận dạng... Việc áp dụng các biện pháp trên phải theo đúng trình tự, thủ tục
do BLTTHS quy định.
* Thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra
Do giai đoạn điều tra có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng nên việc xác định
đúng phạm vi thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn này là rất cần thiết.
Điều 112 BLTTHS (2003) quy định khi tiến hành các hoạt động thực hành quyền
công tố, cùng với việc thực hiện những hoạt động của giai đoạn điều tra thì VKS
còn thực hiện những hoạt động của giai đoạn khởi tố (quyết định khởi tố vụ án) và
giai đoạn truy tố (quyết định truy tố bị can, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án). Nhƣ vậy
phạm vi thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra bao trùm cả hoạt
động khởi tố, điều tra và truy tố.
Điều 2 Quy chế công tác Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra các VAHS của VKSND tối cao (gọi tắt là Quy
chế) xác định: “Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội
phạm xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc
đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật”. Tức là phạm vi thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố, và kết thúc khi VKS quyết định truy tố bị can ra trƣớc toà để xét xử
hoặc khi vụ án đƣợc đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.
Từ những vấn đề đã phân tích ở trên, có thể đƣa ra khái niệm thực hành


16


quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND nhƣ sau: Thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra của VKSND là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung quyền công tố do pháp luật quy định để truy cứu TNHS đối
với người phạm tội, được thực hiện từ khi giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến
nghị khởi tố và kết thúc khi VKS quyết định truy tố bị can ra trước toà để xét xử
hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
1.1.1.3. Nội dung thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân
Điều 112 BLTTHS (2003) quy định khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra
khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
theo quy định của Bộ luật này;
2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành
điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều
tra theo quy định của Bộ luật này;
3. Yêu cầu Thủ trƣởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên
theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu
tội phạm thì khởi tố về hình sự;
4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm
giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn,
quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo
quy định của Bộ luật này. Trong trƣờng hợp không phê chuẩn thì trong
quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;
5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của
Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;

6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án [29, Điều 112].
Trong giai đoạn điều tra, tuy rằng CQĐT là chủ thể chính trực tiếp tiến hành

17


các hoạt động điều tra, nhƣng VKS là cơ quan giữ vai trò chủ đạo, quyết định và
chịu trách nhiệm đến cùng trong toàn bộ quá trình điều tra vụ án. Vì vậy, Kiểm sát
viên cần nắm vững các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật TTHS cùng các
văn bản pháp luật khác có liên quan để ADPL chính xác khi thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. Cụ thể:
* Những hoạt động khởi động công tố trong giai đoạn điều tra
- Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố:
Để phù hợp với Hiến pháp (2013) và thực hiện chủ trƣơng cải cách tƣ pháp
của Đảng và Nhà nƣớc nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
phạm, chống oan sai, bỏ lọt tội phạm, Luật tổ chức VKSND (2014) đã mở rộng
thẩm quyền của VKSND, quy định thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là một trong những công tác thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Điều 12 Luật tổ chức VKSND (2014) quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhƣ sau:
1. Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt ngƣời trong trƣờng
hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con
ngƣời, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố.
2. Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái
pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

3. Khi cần thiết đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố thực hiện.
4. Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố trong trƣờng hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu
nhƣng không đƣợc khắc phục.

18


×