Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Lập kế hoạch quảng cáo cho công ty bảo vệ Yuki Sepre 24

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.23 KB, 41 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING
KHOA MARKETING

QUẢN TRỊ CHIÊU THỊ
ĐỀ TÀI:

Lập kế hoạch quảng cáo cho công ty
bảo vệ liên doanh Việt Nhật Yuki
Sepre 24
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Hoàng Chi.
Nhóm thực hiện
Lớp

: Nhóm 5
: DB_14DMA3

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING


KHOA MARKETING

QUẢN TRỊ CHIÊU THỊ
ĐỀ TÀI:

Lập kế hoạch quảng cáo cho công ty
bảo vệ liên doanh Việt Nhật Yuki
Sepre 24
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Hoàng Chi.
Lớp


: DB_14DMA3
Nhóm thực hiện: Nhóm 5
Nguyễn Thị Hồng Thắm
Nguyễn Liễu Điền
Phan Như Hảo
Nguyễn Lê Xuân Trường


PHẦN LÝ THUYẾT
I.

Tổng quan về các đặc tính của của phương tiện

Các đặc tính
Tivi
Phát thanh
Phạm vi toàn bộ dân Rất tốt
Khá tốt
số cả nước
Đối tượng người lớn Trung
Khá tốt
có chọn lọc
bình
Phạm vi cả nước
Rất tốt
Yếu
Thị
trường
địa Khá tốt
Khá tốt

phương có chọn lọc
Chi phí phần ngàn Tb/tốt
Khá tốt
(CPM)
Khả năng thương Khá tốt
Trung bình
lượng chi phí
Giới thiệu tên nhãn Rất tốt
Khá tốt
hiệu
Chúng minh giải thích Rất tốt
Yếu
sản phẩm
Khả năng chuyển lái Trung
Trung bình
chi tiết sản phẩm
bình
So sánh các phương tiện quảng cáo chủ yếu
Các phương tiện quảng cáo chủ yếu khác nhau trên 3 mặt

Tạp chí
Trung
bình
Rất tốt

Báo
Tốt

Tốt
Yếu


Yếu
Rất tốt

Yếu

Rất tốt

Yếu

Yếu

Trung
bình
Trung
bình
Rất tốt

Trung
bình
Trung
bình
Rất tốt

Khá tốt

Chi phí cần thiết để phân phối thông tin quảng cáo
Các chi phí cơ bản rất khác nhau. Một đơn vị quảng cáo có thể phải trả 60 triệu
đồng cho một tờ báo, 50 triệu cho một lần phát sóng trên VTV và 6 triệu cho lần
phát thanh FM vào giờ phát ca nhạc

Chi phí phần ngàn giữa các phương tiện truyền thông cũng có sự khác biệt. Chi phí
cao nhất phải kể đến các tờ báo phát hành trong phạm vi cả nước.
Các phương tiện có giá khác nhau là do chi phí sản xuất (nhân sự, thiết bị , vật liệu )
khác nhau, đối tượng khác nhau và khả năng truyền đạt thông tin khác nhau.
a) Đối tượng thu hút
Các phương tiện khác nhau vươn đến các đối tượng khác nhau
Ví dụ, các tạp chí thường tập trung xuất bản cho độc giả ở lĩnh vực nhất điịnh, báo
chí hấp dẫn đối tượng độc giả nói chung


b) Các khả năng kỹ thuật

Các đặc tính của phương tiện có thể được coi là các ưu nhược điểm quan trọng
trong việc phát phương tiện truyền thông
Người ta thu nhận thông tin từ những phương tiện khác nhau được cho là có
khuynh hướng hành động như vậy. Một số phương tiện như báo và phát thanh là
nguồn thông tin tốt cho các hoạt động hằng ngày. Tạp chí và một số chương trình
truyền hình là nguồn thông tin tốt cho những chủ đề như thời trang và nấu ăn
 Sự quen thuộc với tập quán thông tin của các phương tiện là điểm cơ bản để xây
dựng chiến lược phương tiện
II.
Ưu và nhược điểm của các phương tiện truyền thông
1. Báo chí
Báo chí là phương tiện quảng cáo đứng đầu tại Mỹ với chỉ tiêu ngân sách dành cho
quảng cáo đứng đầu các phương tiện do giá rẻ hoặc thậm trí là miễn phí. Tuy nhiên
ở nước ta hiện nay quảng cáo trên truyền hình ở vị trí dẫn đầu còn báo và tạp trí ở
vị trí thứ hai. Nguyên nhân là do giá báo và tạp trí còn khá cao đối với một số người
trong khi truyền hình lại thật sự phổ biến hơn.
 Ưu điểm


a. Về phạm vi
Báo là phương tiện có khả năng bao phủ rộng. Trong hầu khắp các vùng địa lý và
trong các nhóm giới có cùng sự quan tâm thì thường cũng có tờ báo riêng. Quảng
cáo trên báo sẽ giúp các nhà quảng cáo có thể bao quát một đoạn thì trường hay
trên một đơn vị một địa phương. Mặc dù báo mang tính địa phương nhiều hơn tuy
nhiên nó vẫn hữu ích với các quảng cáo mong muốn phạm vi bao phủ trên toàn
quốc hay một khu vực. Ví dụ một công ty có phạm vi cả nước như Honda Việt Nam,
Samsung có thể quảng cáo trên phạm vi cả nước bằng cách đặt quảng cáo trên các
tờ báo trung tâm của các khu vực hay địa phương. Các nhà quảng cáo cũng có thể
hướng thông điệp của mình trên một điạ phương nhất định thông qua quảng cáo
trên báo.
b. Về lượng độc giả
Báo là một phương tiện tốt để tiếp cận với các độc giả của một địa phương hay một
giới hoặc một nhóm người trong xã hội. Nước ta hiện nay có khoảng 500 tờ báo
tiếng Việt, Anh ngữ hay Pháp ngữ ra hàng ngày, tuần 3 lần, tuần 2 lần hay hàng
tuần phục vụ hàng chục triệu bạn đọc. Và hiện nay hầu hết các báo đều có đăng
quảng cáo. Hầu hết các tờ báo đều có phạm vi phát hành trên cả nước tuy nhiên
vẫn có sự tập tung nhất định tại các thành phố lớn và nông thôn nơi có giao thông
thuận tiện và trình độ dân trí khá cao. Chẳng hạn báo Hà Nội Mới tập trung chủ yếu
phí Bắc Việt Nam (phía Nam chỉ 5.000 tờ/ tổng số 35.000 tờ phát hành). Báo Sài
Gòn Giải Phóng, chủ yếu tập trung ở phía Nam (phía Bắc chỉ có 3.000 tờ / tổng số


123.000 tờ phát hành). Các tờ báo lớn như báo Lao Động, Thanh Niên, Nhân Dân
đều có phạm vi phát hành trên toàn quốc tuy nhiên vẫn có sự tập trung nhất định
tại các khu vực trung tâm. Như vậy, có thể nói báo là một phương tiện có phạm vi
bao phủ chủ yếu là một số địa phương cụ thể. Giả sự một nhà quảng cáo có khách
hàng mục tiêu là khách hàng tại Hà Nội thì chọn báo Hà Nội Mới là điều tất nhiên.
Hay các doanh nghiệp có khách hàng mục là những người tại nông thôn thì việc
quảng cáo trên các tờ báo địa phương là tốt hơn cả, bởi với trình độ dân trí của

nông thôn nước ta chưa cao và phong trào mua báo đọc là rất ít.
Có nhiều tờ báo chỉ viết bài có các chuyên đề riêng dành cho những nhóm người
nhất định. Chẳng hạn, báo hoa học trò là thời báo dành cho các bạn trẻ, tập tung
vào độ tuổi từ 15 đến 22 là các bạn đang tuổi đến trường phổ thông hay các bạn
sinh viên. Hiện nay, khách hàng mục tiêu của các doanh nghiệp thường được xác
định rất rõ thuộc giới nào vì vậy quảng cáo trên báo ngày càng hiệu quả hơn. Nếu
một doanh nghiệp may mặc muốn quảng cáo các mẫu thời trang dành cho các bạn
trẻ tuổi teen thì việc đặt mẫu quảng cáo trên các báo như Hoa Học Trò, Thời Trang
Trẻ, Làm Đẹp sẽ là lựa chọn hàng đầu…
c. Báo còn có tính đúng lúc
Người đọc báo quan tâm rất nhiều tới các thông tin quan trọng hiện nay đang diễn
ra. Báo có tính chất trực tiếp tức thì và nội dung có căn cứ xác đáng.Người đọc báo
quan tâm rất nhiều tới các thông tin quan trọng hiện nay đang diễn ra.Vì tính chất
chính xác của các thông tin nên báo gây được cảm giác tin cậy. Nhiều tờ báo còn có
thể viết bài PR quảng cáo cho các sản phẩm. Chẳng hạn trên báo Thế Giới Văn Hóa
đăng tin về giải nhất cuộc thi trang điểm tổ chức cho các chuyên gia trang điểm
Việt Nam, trong đó một chia sẻ của chuyên gia trang điểm đọat giải nhất về cách
trang điểm là sử dụng kem bảo vệ da trước khi trang điểm và kem lót bảo vệ mà
người chuyên gia ấy sử dụng là của hãng mỹ phẩm Acnes của Rohto.
d. Báo có hạn kết thúc ngắn
Đó là thời gian chót mà các nhà quảng cáo phải mang mẫu quảng cáo đến nhà xuất
bản để có thể xuất hiện tại một số báo cụ thể, thường thì hạn này rất ngắn. Đơn vị
quảng cáo có thể đặt một quảng cáo vào một ngày rất gần với ngày phát hành số
báo đó. Thuận lợi của hạn này là các nhà quảng cáo có thể tranh thủ được các sự
kiện gần nhất để làm tăng sức hấp dẫn và tin cậy của mẫu quảng cáo, hay viết các
bài PR cho các sự kiện với mục tiêu quảng bá cho doanh nghiệp mình. Ví dụ một
doanh nghiệp lợi dụng tin tức về một đợt mưa dầm kéo dài để quảng cáo một loại
máy giặt có khẳ năng sấy khô đến 80%.
 Nhược điểm


a.

Đời sống ngắn


Độc giả đọc báo để nắm bắt các thông tin tổng hợp trong một thời gian nhất định,
có khi chỉ là một ngày vì thế sau đó tờ báo sẽ không được chú ý đến nữa và cũng
không còn mấy giá trị. Như câu ngạn ngữ của phương Tây “ít có vật nào lại có ít giá
trị như tờ báo của ngày hôm qua”. Chính điều này làm cho nhà quảng cáo không thể
tính được tác động của mẫu quảng cáo vào những ngày sau ngày phát hành. Và
thậm chí nếu mẫu quảng cáo không được chú ý khi người đọc tiếp cận tờ báo thì
giá trị của quảng cáo này cũng gần như là không có bởi khă năng tiếp cận lại và
gây chú ý là rất thấp, sau một ngày báo cũ sẽ bị vứt bỏ hoặc bị lẫn trong các thứ
báo cũ khác.
Chính vì điều này nên các nhà quảng cáo hết sức chú ý đến hình thức của mẫu
quảng cáo nhưng hình ảnh, màu sắc, câu chữ để tăng khả năng chú ý của độc giả.
Đôi khi các mẫu quảng cáo có gắn kèm phiếu bốc thăm trúng thưởng hay phiếu
giảm giá sẽ gây được tác động lớn hơn rất nhiều.
b. Chi phí quảng cáo trên báo cao.
Chi phí quảng cáo trên báo cho việc bao phủ thị trường là rất cao nhất là với các
doanh nghiệp có khách hàng mục tiêu bao phủ rộng, chi phí quảng cáo trên nhiều
tờ báo sẽ là rất lớn. Khi đặt quảng cáo trên các tờ báo lớn và uy tín thì mức giá
cũng bị tăng lên rất cao.
c. Sự tắc nghẽn các mẫu quảng cáo cạnh tranh
Số lượng quảng cáo trên báo quá lớn gây “loãng” sự tập trung của độc giả. Các đơn
vị quảng cáo thường có thời gian biểu để đặt các mẫu quảng cáo tương tự nhau
vào những ngày “đẹp” để hy vọng gây thêm được sự chú ý. Điều này dẫn đến sự bão
hòa của các quảng cáo. Số lượng các tờ báo nhiều đã làm cho người đọc bị loãng
thông tin, hơn nữa việc sai lệch khi cùng đăng một tin các tờ báo đã làm cho độc
giả mất đi sự tin tưởng. Cầm trên tay một tờ báo với một phần ba là các trang

quảng cáo đã làm người đọc trở nên chán ngán với các quảng cáo và thường bỏ
qua. Nhiều công ty quảng cáo để khắc phục điều này đã sáng tạo những mẫu quảng
cáo có mầu sắc, hình ảnh “bắt mắt” kích thước lớn hoặc giành các vị trí ưu tiên trên
tờ báo để làm cho các quảng cáo này nổi bật ra khỏi các “đám” quảng cáo lôn xộn.
Điều đã mang lại hiệu quả cho thấy với sự thu hút người đọc.
d. Việc in màu không trung thực
Đối với những mẫu quảng cáo mà tác động chủ yếu là dựa vào màu sắc thì báo
tiềm ẩn một vấn đề. Màu sắc gia tăng khả năng nắm bắt sự chú ý của người đọc và
có thể miêu tả tính chất trạng thái của mẫu quảng cáo, nhưng độ trung thực cả việc
in màu trên mẫu quảng cáo trên báo là không đáng tin cậy, chủ yếu là do chất
lượng của giấy kém và quy trình in ấn. Và mặc dù trong những năm gần đây đã có
những cải tiến rất lớn, nhưng độ trung thực của màu in vẫn chưa có độ tin cậy cao.


Các quảng cáo tác động bằng màu sắc thì thường xuất hiện như những trang kèm
theo tờ báo được in bằng giấy chất lượng tốt. Hoặc chúng có thể được in trong các
số báo hay tạp chí ra ngày chủ nhật, là ngày mà chất lượng in thường tốt hơn
nhiều
2. Tạp chí
 Ưu điểm

Tạp chí là phương tiện quảng cáo có khả năng chọn lọc khá tốt, nội dung của tạp
chí cũng có thể kết hợp với quảng cáo. Do tạp chí thường có tần số phát hành một
tháng, một quý, nửa năm hay cả năm một lần nên các thông tin trong tạp chí chỉ
mang tính tổng hợp chứ không mang tính thời sự. Chính vì thế nên tạp chí có đời
sống tồn tại khá lâu dài.
a.

Đối tượng có chọn lọc:


Tạp chí có khả năng chọn lọc đối tượng ở phạm vi cả nước hay một địa phương nào
đó. Các ấn bản của tạp chí thường chuyên sâu về một ngành hay một lĩnh vực nào
đó, ví dụ như điện tử, tin học. Các tạp chí cũng phục vụ những đối tượng riêng của
mình như tạp chí Bóng Đá, tạp chí Thời Trang Trẻ, tạp chí Nhà Đẹp…hay phục vụ
chung cho các đối tượng như tạp chí Đảng Cộng Sản, tạp chí Kiến Thức… Do rất
nhiều tạp chí chỉ chuyên về một số chủ đề nên tự nó đã hình thành phân khúc các
đối tượng bạn đọc.
Chính vì điều này các nhà quảng cáo sau khi đã xác định được thị trường mục tiêu
chính xác sẽ tìm đến các tạp chí có đối tượng bạn đọc thích hợp với thị trường mục
tiêu của mình. Chẳng hạn các hãng thời trang nổi tiếng có khách hàng mục tiêu là
các bạn trẻ như Foci, Blue, PT 2000 sẽ đặt quảng cáo của mình trên tạp chí thời
trang trẻ.
b.

Tính chất bổ sung nội dung tạp chí:

Một nhà tiếp thị màn sáo cửa sổ trang trí sẽ chiêu thị thành công hơn sản phẩm của
mình thông qua tạp trí chuyên đề về trang trí nhà cửa, nhưng những loại tạp chí
chuyên đề hẹp như vậy hiện nay vẫn còn hiếm ở Việt Nam. Nội dung của các tạp chí
này có tác dụng kích thích những ý tưởng và nhu cầu sản phẩm có liên quan
c.

Đời sống của quảng cáo trên tạp chí tương đối dài.

Vì tạp chí chỉ ra ít số trong năm và tin tức không mang tính thời sự nên nó vẫn
được đọc sau khi phát hành một thời gian tương đối dài. Ngoài ra, tạp chí còn được
trao tay từ người này sang người khác nên số người đọc tạp chí lớn hơn rất nhiều
so với số lượng phát hành.
d.


Quảng cáo chất lượng cao, không phô trương


Lựa chọn một phương tiện tốt có nghĩa là lựa chọn được một phương tiện có sự
tương thích giữa nội dung truyền thông của phương tiện và nội dung của quảng
cáo.Thêm vào đó người đọc chủ động được hojphair đọc gì và khi nào thì đọc, và
như vậy quảng cáo trên tạp chí can thiệp vào cuộc sống người đọc ít hơn nhiều so
với quảng cáo trên truyền hình, chen ngang vào chương trình đang phát mà không
quan tâm tác động của chúng đối với người xem. Quảng cáo trên tạp trí không ép
buộc người đọc như vậy.Đồng thời chất lượng cao của phương tiện, màu in trung
thực và lời thuyết minh sâu sắc, có thể chuyển tải thông điệp với những tác động
thích hợp.
 Nhược điểm

a.

Quảng cáo trên tạp chí có hạn gửi bài sớm.

Các tạp chí yêu cầu các nhà quảng cáo phải hoàn thành và gửi mẫu quảng cáo từ
rất sớm trước khi tạp chí phát hành, thông thường là trên một tuần. So với phương
tiện là báo thì đây là một hạn chế của tạp chí bưởi vì khi đó các nhà quảng cáo
không tranh thủ được những sự kiện sẽ diễn ra gần với ngày phát hành và cũng
không kịp thay đổi nội dung của mẫu quảng cáo trước những biến đổi của thị
trường mục tiêu. Ngoài ra nhà quảng cáo cần phải cam kết đặt chỗ trước khi mẫu
quảng cáo được hoàn thành, điều này cũng là một hạn chế lớn khi mà các nhà
quảng cáo chưa thể hình dung ra được mẫu quảng cáo có thực sự hấp dẫn và có
nên cho đăng hay không.
b.

Quảng cáo trên tạp chí có thể gây sự tắc nghẽn các thông tin


Hiện nay các đơn vị quảng cáo coi quảng cáo trên tạp chí là một phương tiện phổ
biến cho nên các quảng cáo xuất hiện trên các tạp chí chuyên đề ngày càng nhiều.
Số lượng các trang quảng cáo tăng lên trong một cuốn tạp chí sẽ dẫn đến sự không
chú ý của người đọc vào mẫu quảng cáo. Điều này khiến các nhà quảng cáo phải
sáng tạo ra những hình ảnh quảng cáo đặc sắc để thu hút và cũng đồng nghĩa với
việc đẩy chi phí lên quá cao.
c.

Phân phối thông điệp một chiều.

Cũng như báo và các phương tiện in ấn khác, tạp chí không có khả năng thể hiện
sản phẩm thông qua những hình ảnh động hay lời nói và âm thanh. Tạp chí chỉ thể
hiện thông qua hình ảnh tĩnh và hiệu ứng màu sắc là chủ yếu. Mặc dù gần đây một
số các nhà quảng cáo đã sang tạo bằng cách thêm vào quảng cáo trên tạp chí khả
năng thể hiện mùi vị, bằng cách cào vào một lớp phủ trên một phần của trang tạp
chí hoặc thêm vào bộ phận thể hiện âm thanh làm tăng kích thích chú ý của độc giả.
d.

Tạp chí bị giới hạn về không gian, diện tích quảng cáo.

Hiện nay các tạp chí thường chỉ cho phép một số lượng trang quảng cáo nhất định
vì số lượng phát hành rất hạn chế. Vì lý do này nên các vị trí hấp dẫn như trang bìa


2, bìa 3, bìa 4 đều bị các đơn vị ký hợp đồng dài hạn, các vị trí quan trọng khác cũng
bị giới hạn.
e.

Chi phí phần ngàn cao.


So với các phương tiện khác thì tạp chí có chi phí phần ngàn cao nhất xét trên
phương diện là phạm vi bao phủ toàn quốc. Điều này làm các đơn vị quảng cáo
muốn bao phủ thị trường với chi phí thấp nhất thường e ngại nhưng với các đơn vị
quảng cáo chỉ muốn tập trung vào một nhóm đối tượng đã xác định với một chi phí
hợp lý thì tạp chí lại là lựa chọn không mấy e ngại với họ. Chi phí phần ngàn cao
như vậy là do quy mô nhóm đối tượng của tạp chí là tương đối nhỏ và giá trị của
nhóm đối tượng ấy là do giá của nơi phát hành tạp trí quy định.
3. Truyền hình
 Ưu điểm

a.

Quảng cáo truyền hình có phạm vi rộng trên cả nước.

Với 80 đài phát thanh truyền hình, và hơn 15 triệu tivi khắp cả nước, tính trung
bình số hộ có tivi lên tới 80% tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng… và các thành phố lớn khác tỉ lệ hộ gia đình có ti vi cũng là rất cao. Như vậy,
về phạm vi bao phủ của phương tiện truyền hình là rất lớn. Không có một phương
tiện nào ngoài truyền hinh trong giờ phát sóng chính có thể tiếp cận tới 60% hộ gia
đình trong cả nước.
b.

Quảng cáo trên truyền hình có hình ảnh động.

Tính năng về âm thanh và hình ảnh cho phép truyền hình là phương tiện duy nhất
có khẳ năng phát thông điệp quảng cáo với hình ảnh động và âm thanh đặc sắc. Với
lợi thế của mình, quảng cáo trên truyền hình có khẳ năng lôi cuốn và thu hút người
xem hơn bất cứ phương tiện quảng cáo nào khác. Quảng cáo trên truyền hình còn
giúp các nhà tiếp thị thể hiện được hết các tính năng cũng như đặc điểm của các

sản phẩm một cách lôi cuốn đến với các khách hàng mục tiêu của mình. Sự lôi cuốn
của quảng cáo truyền hình rất rõ rệt, những câu nói, nhưng câu slogan của các
đoạn quảng cáo trở nên quen thuộc đến mức thành câu nói hàng ngày của một bộ
phận, nhất là giới trẻ. Câu nói của cậu bé trong quảng cáo hạt nêm KNORR đã một
thời gian được các em nhỏ “bắt trước” học theo và cả người lớn cũng rất thích thú
trước vẻ đáng yêu dễ thương của cậu bé, đoạn quảng cáo gợi lại một truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
c.

Quảng cáo truyền hình có phân khúc rõ ràng

Truyền hình có rất nhiều đối tượng, trong đó có đủ mọi đối tượng thuộc đủ mọi
thành phần trong xã hội.


Tuy vậy nói truyền hình không có khả năng phân khúc thì không hoàn toàn đúng.
Truyền hình có các chương trình dành riêng cho một giới hay một nhóm người, tất
nhiên sẽ không có chuyện chỉ có những người thuộc nhóm đó xem chương trình.
Chẳng hạn, chương trình Thể Thao 24/7, chương trình Sức Sống Mới có đối tượng
khán giả cụ thể, một dành cho các bạn yêu thích thể thao, một dành cho những
người phụ nữ. Trên chương trình Sức Sống Mới thường thấy các hãng quảng cáo
bột nêm KNORR, Magie… dành cho công việc nấu ăn.
Nhìn chung thì khả năng phân khúc thị trường của phương tiện truyền hình là
khác cao. Tuy nhiên nếu đối tượng quảng cáo của doanh nghiệp không phải tất cả
thì đơn vị quảng cáo cũng phải trả một số chi phí khá lớn cho các nhóm đối tượng ít
quan tâm đến sản phẩm của mình.
Vì khả năng bao phủ rộng của truyền hình nên đôi khi lại bất lợi với các đơn vị
quảng cáo chỉ muốn nhắm đến một đối tượng khách hàng nhất định.
d.


Quảng cáo trên truyền hình có chi phí phần ngàn thấp.

Nếu xét hiệu quả theo tỉ lệ phần ngàn ta có:
CMP = (chi phí phương tiện / Số phát hành) x 1.000
Lý do mà truyền hình có chi phí phần ngàn thấp là vì truyền hình là phương tiện
phát sóng độc nhất và trong giờ phát sóng chính có thể vươn tới một lượng lớn
người xem như vậy.
Chẳng hạn một doanh nghiệp muốn quảng cáo sản phẩm của mình trên hai
phương tiện là báo và truyền hình với khách hàng mục tiêu là người dân thành phố
Hà Nội với mức giá phù hợp với thu nhập bình quân của người dân thành phố.
Quảng cáo trên báo
Giá một trang màu : 30 triệu
Phạm vi : 800.000 người đọc
CPM = (30.000.000/800.000) x 1000 = 37.500 đồng
Quảng cáo trên truyền hình
Giá một lần quảng cáo trên 30s trong một chương trình giải trí của hình: 20 triệu.
Phạm vi: 1.2000.000
CPM = (12.000.000/1.2000.000) x 1000 = 10.000 đồng


Đây chỉ là một ví dụ đơn giản về chi phí phần ngàn giữa báo và truyền hình, tuy
nhiên để so sánh hiệu quả của các phương tiện ta không chỉ dựa vào chỉ tiêu này
mà còn phải tính đến rất nhiều yếu tố như : đối tượng tiếp nhận là ai, chi phí để
thực hiện mẫu quảng cáo.
 Nhược điểm
a. Chí phí tuyệt đối lớn

Khi so sánh về chi phí phần ngàn ta thấy quảng cáo truyền hình chi phí thấp hơn so
với báo tuy nhiên xét về chi phí tuyệt đối truyền hình lại chiếm một chi phí rất lớn.
Chỉ 30s trên truyền hình là mất vài chục triệu, quảng cáo truyền hình lại phải thực

hiện nhiều lần mới mong gây được sự chú ý của khán giả tới sản phẩm. Đặc biệt với
các quảng cáo trong các chương trình hấp dẫn người xem, quảng cáo trên các
khung giờ vàng thì chi phí bị đưa lên rất cao. Ngoài ra, để có một mẫu quảng cáo
trên truyền hình còn mất rất nhiều các chi phí khác như: ý tưởng, thiết kế, dàn
dựng, diễn viên, quay phim…các chi phí này có khi lên tới cả trăm triệu đồng, thậm
chí hàng tỷ đồng. (Năm 2004, sản phẩm Omo quảng cáo trên truyền hình mất
2.943.000 USD, của Tiger Beer là 2.880.000 USD, Sunsilk là 2.760.000 USD).
b. Hạn chế về thời gian phát quảng cáo

Thời gian phát quảng cáo trên truyền hình bị hạn chế ở một mức độ nhất định có
thể chấp nhận được trong khi đó thì nhu cầu quảng cáo của các doanh nghiệp vẫn
rất cao. Có sự hạn chế này là do chính phủ nước ta quy định tổng giờ phát sóng
trong một ngày và thời lượng phát sóng trong một chương trình. Cụ thể là thời
lượng quảng cáo không được vượt quá 5% thời lượng phát sóng của chương trình
đó. Tuy nhiên việc hạn chế thời lượng phát sóng cũng mang lại những lợi ích nhất
định. Nếu thời gian quảng cáo không bị hạn chế, số lượng quảng cáo quá nhiều sẽ
gây ra sự bão hòa trong tiếp nhận các thông tin, người xem sẽ vô cùng khó chịu khi
chương trình phát sóng mà quảng cáo quá nhiều gây tâm lý phản cảm với các
quảng cáo.
c. Tuổi thọ ngắn.

Quảng cáo trên truyền hình chỉ xuất hiện trong thời gian được đếm bằng giây,
chính vì điều này nên khi quảng cáo phát sóng xong nó cũng biến mất luôn. Không
giống các quảng cáo trên các phương tiện in ấn mẫu quảng cáo sẽ tồn tại trong
thời gian dài, người đọc có thể xem lại. Cơ hội tác động đến người xem của quảng
cáo truyền hình cũng chỉ có trong thời gian ngắn ngủi đó. Kết quả là muốn mẫu
quảng cáo chứa đựng nhiều thông tin các nhà quảng cáo đã thực hiện những
quảng cáo với tiết tấu quá nhanh đôi khi gây khó hiểu. Ngoài ra để thu hút sự quan
tâm của khán giả quảng cáo thường phải xuất hiện nhiều lần, xuất hiện dồn dập
trong một thời gian sau đó giãn mật độ. Vấn đề này yêu cầu các nhà quảng cáo phải

lên kế họach thật cụ thể và tính toán ngân sách cho quảng cáo, vì việc xuất hiện
nhiều lần đồng nghĩa với chi phí cho quảng cáo rất cao.


d. Thiếu những phân khúc rõ ràng

Khả năng ảnh hưởng của một lớp đối tượng rộng rãi của truyền hình lại là một bất
lợi đối với những đơn vị quảng cáo chỉ muốn tập trung vào một nhóm đối tượng
nào đó. Trái với tạp chí đối tượng của truyền hình không được phân khúc rõ rang.
Ngoại trừ các chương trình đặc biệt như thể thao cuối tuần, khéo tay hay làm,
truyền hình không có những phân khúc rõ ràng đáng tin cậy. Khả năng đặc trưng
của truyền hình là phạm vi ảnh hưởng rộng lớn đến đối tượng người xem nói
chung, thì đơn vị quảng cáo có thể trả một số chi phí khá lớn để tiếp cận một nhóm
đối tượng ít có giá trị đối với chiến dịch quảng cáo của mình.
4. Truyền thanh
 Ưu điểm

Truyền thanh là một phương tiện khá truyền thống, ra đời trước khi truyền hình
xuất hiện. Những ưu điểm của quảng cáo trên truyền thanh là phạm vi họat động
người nghe có chọn lọc và bao phủ được cả đối tượng không ở trong nhà, có chi phí
thấp và không đòi hỏi nhiều chi phí sản xuất một mẫu quảng cáo.
a. Phạm vi đối tượng, và chọn lọc đối tượng.

Về phạm vi đối tượng thì truyền thanh còn có phần cao hơn truyền hình, số hộ có
máy thu thanh khá cao, lên tới 70%. Thậm chí số hộ có nhiều máy thu thanh hoặc
các thiết bị có thể bắt được sóng phát thanh như radio, máy nghe nhạc, điện thoại
di động… Ngoài ra các thiết bị xe cộ như ôtô, taxi, xe bus công cộng… đều có radio
để hoạt động ngoài trời vì vậy đây là phương tiện có thể tiếp cận tới phạm vi đối
tượng rộng nhất là những lái xe hàng ngày phải ngồi trên xe để đi lại mỗi ngày tại
nhiều nước. Hầu như mỗi tỉnh đều có các đài phát thanh địa phương ngoài đài phát

thanh trung ương, thậm chí các huyện, xã đều có đài truyền thanh của mình phát
sóng qua vệ tinh hoặc phát trực tiếp qua loa phóng thanh. Ở nước ta hiện nay chủ
yếu là các đài phát sóng AM và FM. Như vậy truyền thanh có khả năng cung cấp
một phạm vi bao phủ tuuyệt vời ở hầu khắp các vùng của đất nước.
Một đặc trưng của truyền thanh là nội dung và hình thức các chương trình của nó.
Tại các nước phát triển nội dung của các đài truyền thanh rất phong phú, nhạc
rock, nhạc Pop.. các bài ca bài hát mới, các top bình chọn… các chương trình phát
những nghệ thuật truyền thống, chương trình tin tức, thể thao, giáo dục, thế giới
ngày nay, chuyện lạ…. Thậm chí có đài truyền thanh chỉ phát sóng một vài chương
trình nhất định. Ở nước ta hiện nay các đài truyền thanh cũng có nhiều nội dung
hấp dẫn và phong phú, như các ca khúc phát theo yêu cầu, giới thiệu bài hát mới…
kể chuyện cảnh giác, tin tức thời sự, tin thể thao, tường thuật thể thao, giáo dục…
các chương trình về giao thông.. Các nội dung chương trình là đối tượng để phân
khúc chọn lọc đối tượng nghe khác nhau, trợ giúp cho các đơn vị quảng cáo lựa
chọn phương tiện.


Truyền thanh cho phép xác định chính xác phân khúc theo phạm vi địa lý nhờ vào
phạm vi phát sóng. Đơn vị quảng cáo sẽ không cần tốn kém chi phí cho những ảnh
hưởng đến những đối tượng không phải khách hàng mục tiêu và có thể linh họat
trong xác định thông điệp quảng cáo của mình.
b. Đối tượng của truyền thanh không nhất thiết phải ở trong nhà.

Có nhiều phương tiện quảng cáo mà chỉ có thể tác động khi đối tượng ở nhà vì vậy
nhà quảng cáo phải đối mặt với sự cạnh tranh của các phương tiện khác. Truyền
thanh là phương tiện có thể tiếp cận đối tượng khi họ đang ở trên đường chủ yếu là
thông qua việc thu sóng của những người đang trên xe ôtô, xe buýt đi học đi làm và
những vật dung di động có khả năng thu sóng như di động và máy nghe nhạc. Điều
này tạo thêm cho đơn vị quảng cáo khả năng tiếp cận với nhiều đối tượng và gây sự
chú ý của họ.

c. Chi phí quảng cáo truyền thanh thấp.

Quảng cáo trên đài truyền thanh rẻ nhất trong các loại phương tiện. Bởi vì chi phí
để sản xuất một chương trình trên đài truyền thanh và chi phí để duy trì nó phát
sóng trên đài cũng thấp nên chi phí cho đơn vị quảng cáo cũng thấp.
Nếu như quảng cáo trên truyền hình có chi phí xây dựng một tiết mục quảng cáo
rất cao thì quảng cáo trên truyền thanh ngược lại. Đơn vị quảng cáo có thể thuê
một công ty nào đó để làm tiết mục quảng cáo và tạo ra một băng thu âm có chất
lượng, hoặc có thể tự thu bằng các thiết bị thu âm của chính đơn vị đó với các diễn
viên là chính các nhân viên của mình, ngoài ra có thể ghi âm tại ngay đài truyền
thanh. Bởi vì truyền thanh chỉ phát sóng âm thanh nên nhà quảng cáo không cần
chi trả cho các công việc đồ họa, quay phim, tuyển chọn diễn viên, người mẫu như
truyền hình và tạp chí…
 Nhược điểm

Truyền thanh có phạm vi bao phủ cao nhưng chưa hẳn là một phương tiện quảng
cáo được các nhà quảng cáo chú ý nhất. Có lẽ ngoài lý do là truyền thanh chỉ có thể
chuyển tải âm thanh thì truyền thanh còn có tính địa phương hóa cao và sự chú ý
của đối tượng nghe thấp.
a. Giới hạn về phạm vi địa lý.

Truyền thanh là một phương tiện mang tính địa phương cao nên không tạo cơ hội
cho những đơn vị quảng cáo muốn phát sóng trên phạm vi cả nước. Muốn quảng
cáo của đơn vị mình phát sóng trên nhiều địa phương các nhà quảng cáo thường
chọn một số đài truyền thanh và một số kênh nhất định có đối tượng nghe chủ yếu
cũng là những khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp. Chính vì điều này mà chi phí
quảng cáo trên truyền thanh chỉ chiếm 1% chi phí quảng cáo tại Việt Nam.


b. Quảng cáo trên truyền thanh có mức độ chú ý thấp.


Truyền thanh ít được sự chú ý của khán giả không giống như truyền hình đòi hỏi
người xem phải chú ý tích cực để hiểu hết được nội dung của chương trình hay như
tạp trí người đọc phải có ý thức để chú ý đọc. Một chiếc máy radio hay máy nghe
nhạc chỉ là dụng cụ để làm nền khi người ta suy nghĩ việc gì, hay đang làm việc như
đọc sách, chơi thể thao, lái xe, giặt quần áo, dọn nhà, nấu ăn… Do vậy mà ít có mục
quảng cáo nào lại gây được nhiều sự chú ý của người xem vào thời điểm phát sóng.
Chính vì điều này các nhà quảng cáo nỗ lực thể hiện các tiết mục quảng cáo của
mình một cách sáng tạo, dùng những hiệu ứng âm thanh và thu âm các diễn viên có
khả năng diễn đạt tốt. Ngoài ra các mục quảng cáo trên truyền thanh cũng có tần
số phát lớn để làm cho quảng cáo tiếp cận được đến với nhiều đối tượng hơn. Ví dụ
như quảng cáo bình nước nóng Thái Dương Năng của tập đoàn Sơn Hà phát trên
nhiều đài truyền thanh chính của cả nước, các đài địa phương kể cả các đài truyền
thanh của các quận huyện. Mục quảng cáo này thường được phát sóng từ một đến
hai lần vào các buổi chiều hàng ngày từ 17 giờ đến 19 giờ. Tần số thường xuyên này
đã gây được nhiều sự chú ý do thời gian phát sóng này đúng vào giờ cao điểm có
rất nhiều người đổ ra đường và cũng vào giờ nấu cơm tối của các gia đình vì thế
những câu nói của hai mẹ con trong đoạn quảng cáo đã trở nên rất quen thuộc.
5. Quảng cáo ngoài trời
 Ưu điểm
a. Phạm vi chọn lọc về địa lý.

Quảng cáo ngoài trời mang lại hiệu quả khá tốt trong các chiến dịch quảng cáo
trong phạm vi toàn quốc bởi vì nó kết hợp được phạm vi bao phủ tại các thị trường
chính. Phương tiện quảng cáo ngoài trời cho phép đơn vị quảng cáo có khả năng
chọn lọc thị trường mục tiêu. Đơn vị quảng cáo có thể đặt các biển tấm quảng cáo
ngoài trời tại một vùng nào đó hay một khu vực của vùng đó.
b. Đối tượng không ở trong nhà

Quảng cáo ngoài trời tiếp cận tới các đối tượng không ở trong nhà. Đối với đơn vị

quảng cáo thì điều này có nghĩa là cho họ thêm khả năng tiếp cận ngoài các khả
năng tiếp nhận trong nhà truyền thống như báo, tạp chí, truyền hình hay radio.Tiếp
cận ngoài nhà xảy ra khi người ta di chuyển trên xe máy hoặc đi bộ
c. Bộc lộ hay tác động lặp lại

Các quảng cáo ngoài trời xuất hiện dọc theo hoặc gần các nơi giao thông. Phô bày
tại các khu vực giao thông đông đúc như tại các giao lộ chính không những tiếp cận
được với nhiều đối tượng, mà sự tiếp cận này còn lặp đi lặp lại rất nhiều lần nữa
d. Chi phí thấp


Với mức giá thay đổi (tùy theo loại vật liệu là bảng quảng cáo bình thường, hộp đèn
hay đèn neon) từ 100-250 USD/m2 thì tính trên chi phí phần ngàn và với tác động
lặp đi lặp lại thì quảng cáo ngoài trời có chi phí khá thấp nếu so với quảng cáo trên
báo hay truyền hình
e. Tác động thị giác

Quảng cáo ngoài trời chiếm được sự chú ý của đối tượng thông qua các ấn tượng
thị giác rất mạnh.Các đặc trưng của các quảng cáo ngoài trời gây ấn tượng là kích
thước to, màu sắc sống động, sáng. Một số đơn vị quảng sử dụng các hiệu quả đặc
biệt như phát sáng kỳ lạ, hình ảnh chuyển động, và đôi khi các hình ảnh 3 chiều nổi
bật
 Nhược điểm
a. Hiệu quả thị giác thấp.

Quảng cáo ngoài trời có đặc trưng là lôi cuốn tầm nhìn của các đối tượng. Những
gì mà đơn vị quảng cáo muốn truyền đạt phải được đối tượng thấy và thu hút họ để
tạo hiệu quả. Quảng cáo ngoài trời chắn ngang tầm nhìn của đối tượng khi họ di
chuyển vì vậy mà nó phải gây được chú ý của đối tượng trước khi họ đi qua. Chính
điều này nên quảng cáo ngoài trời có hạn chế là bị giới hạn trong một số từ nhất

định, hình ảnh của quảng cáo ngoài trời cũng phải dễ nhìn, đơn giản và thể hiện
đúng nội dung thông điệp.
b. Mức độ chú ý thấp.

Quảng cáo ngoài trời không đạt được sự chú ý như quảng cáo trên báo, tạp chí hay
truyền hình, đó là những phương tiện mà khán giả họ muốn xem còn quảng cáo
ngoài trời thu được sự chú ý là do nó được đặt đúng chỗ và thể hiện có hiệu quả.
Người đi đường không bao giờ tìm để chú ý đến một tấm biển quảng cáo mà chủ
yếu họ tập chung lái xe và nhìn đường, nhìn biển báo giao thông.
c. Bối cảnh của quảng cáo ngoài trời rất lộn xộn.

Quảng cáo ngoài trời phải cạnh tranh với rất nhiều loại bảng khác treo trên đường
như các biển báo giao thông, bảng chỉ dẫn, bảng quảng cáo của các đối thủ cạnh
tranh và vô số các loại bảng khác trên đường. Sự lộn xộn của các loại bảng là rối sự
chú ý của các đối tượng. Để làm giảm tránh điều này các đơn vị quảng cáo tìm cách
đặt những biển quảng cáo ở những nơi mà không có sự cạnh tranh, những nơi
không vướng các loại biển khác như các nhà chờ, điểm chuyển xe bus công cộng hay
các trên các phố và cầu đi bộ, tại các khu mua sắm…
6. Quảng cáo trên các phương tiện vận chuyển
 Ưu điểm


a. Yếu tố chọn lọc địa lý.

Quảng cáo trên các phương tiện đi lại cho phép chọn lọc đối tượng theo địa lý vì các
phương tiện giao thông thường chỉ đi lại tập trung tại một khu vực nào đó. Ví dụ
như các taxi chỉ chạy trong thành phố Hà Nội, hay các xe buýt chỉ chạy theo một số
tuyến phố nhất định… Đối với các đơn vị quảng cáo có thị trường phân theo một
vùng địa lý cụ thể thì quảng cáo trên các phương tiện giao thông cho phép tiếp cận
được đúng thị trường mục tiêu.

b. Đối tượng rộng lớn.

Quảng cáo trên các phương tiện đi lại cho phép đơn vị quảng cáo vươn tới một số
lớn đối tượng. Có hàng trăm người sử dụng các phương tiện mỗi ngày, hơn nữa
hiện nay hệ thống xe buýt công cộng đã phát triển, số lượng người đi xe buýt đang
tăng lên mỗi ngày, xe buýt dần trở thành phương tiện phổ biến do tính tiện dụng và
thoải mái của nó; sự phát triển này đã làm cho quảng cáo trên các phương tiện
giao thông trở thành một trào lưu mới, hình thức quảng cáo này giống như một
biển quảng cáo ngoài trời di động cho nên nó tiếp cận được với số lượng đối tượng
rất lớn.
c. Chi phí phần ngàn thấp.

Đây thực sự là phương tiện quảng cáo có chi phí phần ngàn thấp nhất trong tất cả
các phương tiện. Giá cao nhất là quảng cáo trong phần nội thất của phương tiện,
trên thành xe, cửa kính hay lưng ghế ngồi. Khi đặt các quảng cáo ở các vị trí này sẽ
làm cho những người ngồi trên phương tiện chú ý, hiệu quả tác động là rất cao có
thể lên tới 90% đến 100%. Phần bên ngoài của phương tiện thì tuy có chi phí tuyệt
đối cao hơn nhưng do tiếp cận được với nhiều đối tượng hơn nên có chi phí phần
ngàn thấp hơn. Hiện nay hình thức đặt các màn hình LCD trên các phương tiện giao
thông công cộng như xe buýt ngày càng được phổ biến và nó tạo thêm cơ hội quảng
cáo cho các doanh nghiệp.
 Nhược điểm
a. Giới hạn về diện tích quảng cáo.

Diện tích của quảng cáo bị giới hạn do sự giới hạn của các phương tiện và các địa
điểm đầu mối giao thông. Mỗi địa điểm quảng cáo đều được ký hợp đồng dài hạn,
và các đơn vị quảng cáo có thể gặp rắc rối về thời gian quảng cáo.
b. Đặc trưng đối tượng không rõ ràng.

Nhược điểm chính của quảng cáo quá cảnh là đối tượng không được chọn lọc và

hoàn toàn bị phân khúc theo khu vực địa lý. Bởi vì các phương tiện thường chỉ lưu
thông trong một phạm vi nhất định hay theo một lộ trình quy định sẵn. Cho nên,
quảng cáo trên các phương tiện đi lại ít có khả năng lựa chọn đối tượng theo


những tiêu thức khác ngoài tiêu thức về địa lý. Hầu như chưa có cuộc nghiên cứu
nào về đối tượng của phương tiện quảng cáo này tuy nhiên hiện nay chúng ta có
thể thấy rằng những người sử dụng các loại phương tiện giao thông này chủ yếu là
cư dân của các thành phố có mức sống trung bình hoặc thấp nên không có điều kiện
có những phương tiện đi lại riêng.
7. Quảng cáo qua thư gửi trực tiếp
 Ưu điểm
a. Chọn lọc đối tượng.

Trong tất cả các loại phương tiện thì quảng cáo bằng thư trực tiếp là phương tiện
có thể tiếp cận được đối tượng một cách chính xác nhất. Khả năng chính xác này là
do các nhà tiếp thì đã nghiên cứu thị trường và lên danh sách những người cần gửi
thư tới. Danh sách gửi thư bao gồm tên tuổi, địa chỉ của các cá nhân được chọn lọc
theo một tiêu thức nào đó để đảm bảo đây là những khách hàng mục tiêu của công
ty. Danh sách này được lập nên từ rất nhiều nguồn, danh sách cán bộ công nhân
viên tại các cơ quan, danh sách các sinh viên, các cơ quan, hay danh sách khách
hàng mà công ty có từ trước… Để có được danh sách này nhà tiếp thị phải mất
nhiều thời gian, công sức tiền bạc để nghiên cứu.
b. Giao tiếp một cách trực tiếp.

Viết thư trình bày một cách trực tiếp với người nào đó bao giờ cũng làm tăng sự
quan tâm chú ý của người đó hơn. Hơn nữa, với kỹ thuật sử dụng ngôn từ và cách
xưng hô, thư trực tiếp là phương tiện diện rộng duy nhất để tiếp cận đối tượng một
cách trực tiếp như vậy.
c. Tính đúng lúc.


Thư trực tiếp do người làm tiếp thị tiến hành và điều khiển nên thời gian thực hiện
rất linh họat. Đơn vị quảng cáo có thể an tâm rằng thư trực tiếp của họ sẽ đến đúng
đối tượng vào đúng thời gian mà họ mong muốn. Tuy nhiên có những ràng buộc về
kỹ thuật về kích thước và vật liệu gửi thư. Những giới hạn chính này yêu cầu các
nhà quảng cáo phải có óc sáng tạo và cũng phụ thuộc vào ngân sách của đơn vị
quảng cáo.
 Nhược điểm
a. Chi phí cao.

Tùy theo mức độ phức tạp của công việc thực hiện và mức độ phức tạp của thiết kế
thư, chất liệu thư và chi phí dành cho quảng cáo loại này có thể lên tới từ 2triệu đến
5 triệu hoặc hơn khi tiếp cận với khoảng một ngàn người. Chi phí phần ngàn này so
với quảng cáo trên truyền hình hay trên tạp trí, báo, truyền thanh thì cao hơn rất


nhiều. Sở dĩ chi phí phần ngàn cao như vậy là do quy mô đối tượng tiếp nhận nhỏ
trong khi chi phí chuẩn bị, thực hiện, và gửi cao.
b. Khả năng chấp nhận thư của đối tượng thấp

Một vấn đề chính xảy ra của gửi thư trực tiếp là người nhận thư không coi trọng lá
thư và coi đó như một loại thư tạp nham dẫn đến vứt bỏ, hay thậm chí không thèm
mở ra xem. Nhà quảng cáo cần phải nhận thức được rằng cần phải có sự nỗ lực
thật sự trong nghiên cứu cũng như trong thiết kế để có thể gây được sự chú ý của
đối tượng, để đảm bảo là người nhận thư có mở ra xem, có thái độ quan tâm và tin
tưởng.
8. Quảng cáo qua internet
 Ưu điểm

-Mức độ truyền thông tin rộng trên toàn thế giới

-Thông tin quảng cáo có thể thay đổi, cập nhật dễ dàng nhanh chóng
-Có thể đo lường khách hàng lướt qua và đọc quảng cáo trên mạng
-Là phương tiện tốt nhất để tiếp cận thị trường thế giới và thích hợp để giới thiệu
sản phẩm: du lịch, thời trang, nhà ở, sách báo…
-Thông tin quảng cáo nhanh đến mức gần như tức thời, rộng, chi phí rẻ
 Nhược điểm

Thông tin chỉ đến được một nhóm khách hàng có máy tính và kết nối mạng, có trình
độ học vấn cao. Chi phí quảng cáo trên mạng đang có xu hướng ngày càng tăng
Internet có tính lan truyền nhanh và có thể trở thành bất lợi cho công ty nếu mắc
sai xót trong quá trình truyền thông
9. Quảng cáo trên vật phẩm và những trang vàng

Đưa quảng cáo thông tin của sản phẩm lên trên vật phẩm và phát cho khách hàng,
người dùng vật phẩm sẽ tiếp xúc với logo của thương hiệu
Quảng cáo sản phẩm trên phim hoặc trên các ấn phẩm, tạp chí để dẫn khách hàng
đến việc mua sản phẩm của doanh nghiệp
III.

Việc chọn lựa phương tiện truyền thông nên dựa vào yếu tố định
lượng hay định tính? Chỉ ra những sai lầm có thể có?


1

Muốn lựa chọn được một phương tiện truyền thông phù hợp với chiến lược

Marketing của doanh nghiệp, ta cần phải thực hiện 5 bước như sau:
• Bước 1: Xác định loại sản phẩm/ dịch vụ cần truyền thông.
Nghĩa là ta xem xét sản phẩm/dịch vụ cần truyền thông thuộc lĩnh vực nào. Từ

đó đưa ra đánh giá nên chọn phương tiện truyền thông nào liên quan đến lĩnh
vực đó.


Bước 2: Xác định nhóm khách hàng mục tiêu của sản phẩm/ dịch vụ.
Đây là một bước khá quan trọng để đạt được hiệu quả khi thực hiện truyền thông
cho sản phẩm/dịch vụ. Xác định được nhóm khách hàng mục tiêu, ta sẽ định hướng
được các phương tiện quảng cáo mà chiến lược Marketing của doanh nghiệp có thể
sẽ sử dụng. Ví dụ như khách hàng mục tiêu là những người ở nông thôn, bình dân
thì việc lựa chọn Radio làm phương tiện quảng cáo là một lựa chọn phù hợp. Nếu
khách hàng thuộc tầng lớp thượng lưu thì có thể chọn những trang vàng trên
những tờ báo nổi tiếng để quảng cáo hay những địa điểm sang trọng để tổ chức
event, v..v…



Bước 3: Xem xét mức độ bao phủ thị trường của các phương tiện truyền
thông.
Khi chọn phương tiện truyền thông thì cần xem xét là phương tiên đó có độ bao phủ
đến đâu? Khách hàng mục tiêu có thể tiếp nhận thông tin qua phương tiện truyền
thông đó hay không ? Thực hiện bước này nhằm tiên liệu, đánh giá sự hiệu quả của
phương tiện truyền thông và đưa ra lựa chọn phù hợp cho chiến lược của doanh
nghiệp.
Ví dụ: nếu khách hàng mục tiêu là người tiêu dùng trên toàn quốc thì có thể
chọn các phương tiện truyền thông phủ sóng toàn quốc (HTV, VTV,…). Nếu khách
hàng mục tiêu là người địa phương của một vùng nào đó thì có thể chọn phương
tiện truyền thông của địa phương để tiết kiệm chi phí.




Bước 4: Xem xét cơ sở vật chất nơi truyền thông.
Cơ sở vật chất ở đây được hiểu là phương tiện truyền thông tại nơi đó có được
trang bị đầy đủ các thiết bị hay không, công nghệ hiện đại hay công nghệ cũ…


Ví dụ: Doanh nghiệp A muốn truyền thông một sản phẩm thuốc trừ sâu mới
tại một vùng nông thôn ở một tỉnh miền Tây. Ở nơi đây, ngoài radio và tivi thì
không còn thiết bị nào khác để tiếp cận thông tin từ bên ngoài. Chính vì điều này, ta
không thể chọn phương tiện internet hay telemarketing,… để truyền thông sản
phẩm thuốc trừ sâu này. Thay vào đó, ta nên chọn cách quảng cáo trên tivi và radio
để đưa thông tin sản phẩm đến với khách hàng mục tiêu của mình. Ngoài ra, ta còn
có thể dựa vào đặc điểm ở nông thôn đó là có nhiều thời gian nhàn rỗi khi chưa đến
mùa vụ hoặc đã hết mùa vụ để chọn cách thức chào hàng cá nhân.


Bước 5: Lựa chọn phương tiện truyền thông phù hợp.
Sau khi đã xác định được các yếu tố kể trên, ta có thể chọn được một phương tiện
truyền thông phù hợp và hiệu quả với một chi phí thấp nhất cho chiến lược chiêu
thị của doanh nghiệp.
Việc xác định các yếu tố định tính hay định lượng trước khi lựa chọ một phương
tiện truyền thông đều có những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng
của việc áp dụng các yếu tố này là đưa ra được những phương tiện phù hợp, hỗ trợ
cho chiến lược Marketing của doanh nghiệp. Ta cần xem xét đặc điểm của từng yếu
tố để xác định được đâu là phần mà doanh nghiệp cần tập trung:

2. Mục đích của việc xác định các yếu tố định tính:
 Khơi gợi nhu cầu/ thị hiếu của khách hàng

Có những nhu cầu/ thị hiếu của khách hàng mà chỉ có các nhà marketing phát hiện
được thông qua nghiên cứu thị trường. Thông qua truyền thông (quảng cáo/ PR/

khuyến mại…) khách hàng thấy được nhu cầu của bản thân và tiêu dùng sản phẩm/

dịch vụ.
 Đánh giá, thái độ của khách hàng đối với sản phẩm thông qua các phương
tiệntruyền thông.
Ví dụ: Đối với một loại sản phẩm, khách hàng có cảm nhận khác nhau như thế nào
đối với quảng cáo của sản phẩm đó trên ti vi và trên radio?
 Xem xét mức độ thuận tiện trong việc tiếp nhận thông điệp qua phương tiện

truyềnthông đó


Khi các nhà làm marketing chọn phương tiện truyền thông để truyền tải thông điệp
của sản phẩm/ dịch vụ đến với khách hàng thì khả năng họ tiếp cận được với thông
điệp ấy có dễ hay không? Khách hàng hiểu biết đến mức độ nào về các lợi ích của
sản phẩm hay dịch vụ đem lại cho họ?
 Xác định mức độ gia tăng lòng trung thành hay tạo cảm tình tốt hơn khi

kháchhàng nghĩ về thương hiệu công ty:
Khi thực hiện một chương trình PR, tài trợ, cứu trợ, sẽ làm tăng hình ảnh tốt đẹp về
công ty trong mắt công chúng, làm tăng thêm thiện cảm của khách hàng đối với
thương hiệu công ty.
 Đánh giá sự gia tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công ty so với đối thủ:

Việc thực hiện chương trình chiêu thị như khuyến mãi, giảm giá bán… sẽ làm gia
tăng được số lượng người mua hàng của công ty. Điều đó đồng nghĩa với việc công
ty sẽ giải quyết được lượng hàng tồn kho (nếu có).
 Đánh giá mức độ thu thập được thông tin trực tiếp từ khách hàng về sảnphẩm:

Khi thực hiện các chương trình chiêu thị (ví dụ là bán hàng trực tiếp) sẽ thu được

những thông tin hay ý kiến từ khách hàng về sản phẩm như thế nào?
 Sử dụng hợp lý hơn nguồn tài chính của công ty:

Mỗi một phương tiện truyền thông sở hữu những đặc điểm riêng nên được tiến
hành theo những cách thức riêng, mang lại những hiệu quả nhất định khi sử dụng.
Chính những điều đó tạo thành cơ sở để định giá trong việc sử dụng chúng. Từ
nguồn tài chính của công ty chúng ta nên lựa chọn phương tiện truyền thông cho
phù hợp.
3. Mục đích của việc xác định các yếu tố định lượng:
 Xác định độ bao phủ thị trường của các phương tiện truyền thông:

Khi các nhà làm marketing chọn phương tiện truyền thông để truyền tải thông điệp
của sản phẩm/ dịch vụ đến với khách hàng thì khả năng họ tiếp cận được với thông
điệp ấy nhiều hay ít?
 Xác định mật độ khách hàng theo dõi kênh truyền thông đó.


 Xác định nơi truyền thông:

Những tỉnh thành nào có mật độ dân số cao thì sẽ được lựa chọn đầu tiên, sau đó
đến các vùng lân cận và cuối cùng về các vùng sâu vùng xa, vùng nông thôn…
 Xác định mức độ nhận biết thương hiệu sản phẩm/ dịch vụ:

Đối chiếu với các nhóm hàng tương tự khi chọn phương tiện truyền thông để biết
xem sau khi họ lựa chọn phương tiện ấy có bao nhiêu người biết đến nhãn hiệu ấy.
Từ đó mình sẽ lựa chọn phương tiện ấy cho chiến lược của công ty mình.
a

Qua việc tìm hiểu đặc điểm của các yếu tố định tính và định lượng trong việc lựa
chọn phương tiện truyền thông, ta có thể thấy một số sai lầm có thể có như sau:

4. Nếu chỉ áp dụng định tính khi lựa chọn phương tiện truyền thông sẽ dẫn
đến một vài sai sót không thể biết trước được, như:

 Lượng khách hàng biết đến thương hiệu sản phẩm.
 Nơi cần truyền thông
 Mật độ khách hàng theo dõi hoặc sử dụng phương tiện truyền thông ấy.
5. Nếu chỉ áp dụng định lượng khi lựa chọn phương tiện truyền thông sẽ

dẫn đến một vài sai sót không thể biết trước được, như:
 Nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
 Đánh giá thái độ của khách hàng đối với sản phẩm qua phương tiện truyền thông.
 Mức độ thuận tiện trong việc tiếp nhận thông điệp qua phương tiên truyền thông.
 Mức độ gia tăng lòng trung thành hay tạo cảm tình tốt hơn khi khách hàng nghĩ về

thương hiệu công ty.
 Mức độ thu thập được những thông tin trực tiếp từ khách hàng về sản phẩm.
 Đánh giá sự gia tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công ty so với đối thủ.
 Sử dụng hợp lý hơn nguồn tài chính của công ty một cách hiệu quả nhất.

Kết luận: Trong thực tiễn, việc lựa chọn theo hai yếu tố này chỉ là tương đối, mang
nặng về hình thức học thuật, và đôi khi không thực sự cần thiết. Việc phối hợp cả
hai yếu tố định tính, định lượng trong khi lựa chọn phương tiện truyền thông được
các nhà làm marketing thường xuyên áp dụng. Định tính, định lượng tương tác hỗ
trợ nhau. Mỗi phương tiện được lựa chọn để truyền thông có lúc dựa vào yếu tố
định lượng, lúc dựa vào yếu tố định tính, tuy vậy giữa chúng vẫn có sự phối hợp để


hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Như vậy, cả 2 yếu tố trên đều có thể
và cần thiết cùng tồn tại trong quá trình ra quyết định chọn lựa một phương tiện
truyền thông của các nhà làm marketing. Sự kết hợp ấy sẽ giúp các nhà làm

marketing đưa ra sự lựa chọn hoàn hảo nhất cho việc lựa chọn phương tiện truyền
thông.
IV.

Các bước trong tiến trình lập kế hoạch quảng cáo
Các quyết định chiến lược

Nghiên cứu hoàn
cảnh thị trường






Xác định mục tiêu quảng cáo
Xác định ngân sách quảng cáo
Chiến lược sáng tạo
Chiến lược phương tiện

Thực hiện chiến lược quảng cao

Đánh giá chiến lược quảng cáo

PHẦN THỰC HÀNH
A. Sơ lược về công ty TNHH dịch vụ bảo vệ Yuki Sepre 24

Năm 1995, sau bao năm kinh nghiệm, tâm huyết trong lĩnh vực dịch vụ bảo vệ ở
Nhật Bản và đã chắt lọc được những kỹ năng tinh túy nhất trong ngành này, Yuki
Sepre 24 đã mở công ty Liên doanh Dịch vụ Bảo vệ tại Thành phố Hồ Chí Minh- Việt

Nam với thương hiệu là Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ Yuki Sepre 24.
Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ Yuki Sepre 24 đã đồng hành cùng khách hàng ở hầu
hết các tỉnh thành của Việt Nam hơn 20 mươi năm qua và đã góp phần không
nhỏ vào việc giữ gìn an ninh trật tự, bảo đảm an toàn về tài sản cho khách hàng của
Yuki Sepre 24 nói riêng và an ninh trật tự xã hội nói chung.


Hiện nay công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ Yuki Sepre 24 ngày càng khẳng định thương
hiệu của mình đối với các công ty có vốn đầu tư cả trong và ngoài nước ở Việt Nam.
Trụ sở chính đặt tại: 108/1/16 đường số 10, phường 9, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí
Minh.
Cơ cấu tổ chức:
Bộ phận marketing của công ty trực thuộc phòng kinh doanh do giám đốc trực tiếp
chỉ đạo. Tuy nhiên hoạt động marketing của công ty chưa thật sự mạnh mẽ dù chất
lượng dịch vụ rất tốt.Vì vậy nhóm em xin đề ra chương trình quảng cáo sau nhằm
quảng bá rộng rãi hình ảnh công ty, cũng như góp phần giúp thương hiệu phát
triển mạnh mẽ hơn.


B. Lập kế hoạch quảng cáo
I.
Nghiên cứu hoàn cảnh thị trường
1. Sơ lươc thị trường ngành dịch vụ bảo vệ

Nhu cầu ngành:


×