Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông cửu long hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 191 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM HUỲNH MINH HÙNG

PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC



HÀ NỘI – 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM HUỲNH MINH HÙNG

PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số

: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS NGUYỄN THỊ NGA




HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định.

Tác giả

Phạm Huỳnh Minh Hùng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN NỘI DUNG ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................... 6
1.1. Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến những
vấn đề lý luận chung về việc phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong xây dựng nông thôn mới ............................................. 6
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát huy vai trò chủ
thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng
sông Cửu Long.......................................................................... 20
1.3. Những công trình nghiên cứu về quan điểm, giải pháp phát huy
vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở
Đồng bằng sông Cửu Long ....................................................... 23
Chƣơng 2: PHÁT HUY VAI TRÕ


CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN

TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở NƢỚC TA
HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ........................ 30
2.1. Chủ thể nông dân và tầm quan trọng của việc phát huy vai trò chủ
thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ........................ 30
2.2. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn
mới ở nước ta hiện nay - những nội dung cơ bản ....................... 52
2.3. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ........................... 60
Chƣơng 3: PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN ........ 74
3.1. Khái lược về Đồng bằng sông Cửu Long và đặc điểm nông dân
Đồng bằng sông Cửu Long ....................................................... 74
3.2. Thực trạng phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng
nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long ........................... 83


3.3. Nguyên nhân của việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long
hiện nay ................................................................................... 111
Chƣơng 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ
BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA
NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY ................ 124
4.1. Một số quan điểm định hướng nhằm phát huy vai trò chủ thể của
nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay ......................................................................... 124

4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long
................................................................................................. 129
KẾT LUẬN .................................................................................................. 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................... 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 153
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 168




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CT - XH

: Chính trị - xã hội

ĐBSCL

: Đồng bằng sông Cửu Long

ĐBSH

: Đồng bằng sông Hồng

HĐND


: Hội đồng nhân dân

HTCT

: Hệ thống chính trị

HTX

: Hợp tác xã

KCN

: Khu công nghiệp

KT - XH

: Kinh tế - xã hội

NTM

: Nông thôn mới

NXB

: Nhà xuất bản

TNXH

: Tệ nạn xã hội


UBND

: Uỷ ban nhân dân

XĐGN

: Xóa đói giảm nghèo

XDNTM

: Xây dựng nông thôn mới

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa




1
MỞ ĐẦU



1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nông thôn mới (XDNTM) là chủ trương của Đảng ta, có ý
nghĩa to lớn và tác động toàn diện đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực với sự
tham gia của nhiều lực lượng khác nhau. Trong đó, nông dân được xác định
vừa là chủ thể trực tiếp tham gia vừa là chủ thể thụ hưởng những thành quả từ

phong trào này. Vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM là vô cùng to
lớn. Hiệu quả đạt được từ việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
XDNTM đem lại lợi ích trên nhiều phương diện khác nhau. Với nông dân,
thông qua phong trào XDNTM là cơ hội để từng chủ thể nông dân khẳng định
quyền làm chủ, kiến tạo cuộc sống ngày càng ấm no, sung túc một cách bền
vững. Với xã hội, có phát huy tốt vai trò chủ thể của nông dân sẽ là nhân tố cơ
bản đem đến sự phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng an ninh trên địa bàn nông thôn.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), việc phát huy vai trò chủ thể
của nông dân gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia về XDNTM đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Với truyền thống cách mạng, bằng sự năng động,
tích cực và sáng tạo đã giúp cho vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL được phát
huy mạnh mẽ trên tất cả các mặt, các tiêu chí trong phong trào XDNTM: từ việc
nhiệt tình, tích cực tham gia quy hoạch và thực hiện quy hoạch đến việc tự
nguyện, tự giác đóng góp tiền của, ngày công lao động xây dựng kết cấu hạ tầng
KT - XH; không những chủ động, sáng tạo trong tổ chức sản xuất, phát triển
kinh tế mà còn hăng hái tham gia các phong trào phát triển văn hóa, xã hội, giữ
gìn an ninh trật tự,… Việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL trong
XDNTM trên thực tế đang thực sự đem lại một diện mạo nông thôn không
ngừng đổi thay theo hướng văn minh, hiện đại nhưng giàu bản sắc của vùng




2

đồng bằng sông nước; đồng thời bản thân nông dân ĐBSCL cũng đang có sự
thay đổi đáng kể từ nhận thức đến hành động ngày một tiến bộ hơn.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở
ĐBSCL hiện tại vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập từ nhiều góc độ. Một mặt,

nông dân ĐBSCL luôn chống chọi với nhiều thách thức do tác động của các
nhân tố khách quan đó là thị trường đầu ra cho nông sản không ổn định, thường
gặp rủi ro; sự gắn kết, hỗ trợ, chia sẻ trong mối liên kết “Bốn nhà” chưa thực sự
bền chặt; tác động tiêu cực của các yếu tố tự nhiên là nỗi lo lớn cho nông dân
trong suốt quá trình sản xuất; điều quan trọng hơn là hiện nay đang có biểu hiện
nóng vội chạy theo thành tích, của sự lạm dụng việc XDNTM để ép buộc nông
dân đóng góp quá mức làm cho đời sống của nhiều nông dân đã khó khăn, vất vả
lại càng khốn khó hơn. Đây là những vấn đề lớn đang ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống sản xuất và sinh hoạt của người nông dân. Mặt khác, bản thân nông dân
ĐBSCL vẫn còn tồn tại những hạn chế nội sinh như trình độ học vấn, chuyên
môn, tay nghề thấp chưa được khắc phục; những nhược điểm trong tâm lý, tính
cách chưa được điều chỉnh, xóa bỏ. Những hạn chế này thực sự là rào cản,
“xiềng xích” mà các chủ thể nông dân đang tự trói buộc bản thân mình, làm cho
vai trò chủ thể ở từng nông dân chưa được phát huy tối đa, có hiệu quả.
Để quá trình XDNTM ở ĐBSCL đi vào chiều sâu, tiếp tục đạt được
những thành tựu to lớn, đòi hỏi vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL với
những ưu điểm vốn có như sự chủ động, tự giác, năng động, sáng tạo phải
tiếp tục phát huy lên một tầm cao mới; đồng thời các chủ thể nông dân
ĐBSCL cần phấn đấu khắc phục những hạn chế, nhược điểm để ngày càng
tiến bộ. Sức mạnh của nông dân chỉ có thể nhân đôi và phát huy mạnh mẽ một
khi nông dân có quyết tâm, nghị lực và khát vọng vượt lên chính mình. Cùng
với đó, để phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL có
hiệu quả rất cần có sự quan tâm sâu sát, sự hỗ trợ kịp thời và thường xuyên
của các nhân tố bên ngoài nông dân.




3
Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCLlà để


đem lại cho từng chủ thể nông dân có cuộc sống ngày càng tốt hơn, tiến bộ
hơn, nghĩa tình hơn đúng như mục đích, ý nghĩa, giá trị đích thực của một chủ
trương giàu tính nhân văn của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc thống nhất
về quan điểm nhận thức, về việc xây dựng một hệ thống các giải pháp toàn
diện, đồng bộ, hiệu quả, khả thi để phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM ở ĐBSCL là yêu cầu đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Từ những vấn đề trên cũng chính là lý do để nghiên cứu sinh chọn
hướng nghiên cứu "Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng
nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay" làm đề tài luận án
tiến sĩ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Từ việc phân tích cơ sở lý luận và thực trạng phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL, luận án đề xuất một số quan điểm
định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò chủ thể của
nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Trình bày tổng quan về những công trình nghiên cứu có liên quan đến
vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM.
- Khái quát một số vấn đề lý luận về phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong XDNTM ở nước ta hiện nay và những nhân tố cơ bản ảnh hưởng
đến phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM.
- Phân tích thực trạng của việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM ở ĐBSCL hiện nay và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.





4
- Đề xuất một số quan điểm định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp

tục phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả xác định giới hạn đối
tượng nghiên cứu là vai trò chủ thể của bản thân người nông dân trong
XDNTM ở ĐBSCL hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận án nghiên cứu về việc phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong XDNTM tại 13 tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL.
- Về thời gian: Nghiên cứu việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM ở ĐBSCL với các thông tin khảo sát giới hạn từ năm 2009 đến
2016, các giải pháp từ nay đến 2020.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quần chúng nhân dân nói chung, về vai trò chủ
thể của nông dân nói riêng; đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về
XDNTM, cụ thể:
- Các văn kiện, nghị quyết của Đảng đặc biệt là Nghị quyết 26-NQ/TW
của Hội nghị Trung ương Bảy khóa X năm 2008 về nông nghiệp, nông thôn
và nông dân.
- Quyết định số 491/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ năm 2009 về việc
ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia xây dựng nông thôn mới.
- Quyết định số 800/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ năm 2010 về việc
phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010 - 2020.





5
- Quyết định số 340/QĐ-TTg Thủ tường Chính phủ năm 2013 về việc

Sửa đổi một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
- Quyết định số 1980/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ năm 2016 về
việc Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 2020 (gọi tắt là Bộ tiêu chí xã).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử lôgíc; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê trên cơ sở sử dụng tư liệu
thực tế của các công trình nghiên cứu đã có nhất là của các cơ quan ban ngành
các tỉnh, thành phố trong khu vực.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Phân tích làm rõ, có hệ thống về vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL
trong XDNTM.
- Phân tích thực trạng và nguyên nhân thành tựu, hạn chế trong việc
phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để tiếp tục phát huy tốt
hơn vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL.
6. Ý nghĩa của luận án
- Công trình nghiên cứu góp phần khẳng định sự cần thiết, tính đúng
đắn về chủ trương XDNTM của Đảng và Nhà nước ta; chỉ rõ vai trò, sức
mạnh của quần chúng nhân dân, đặc biệt là nông dân, là chủ thể quyết định sự
thành công của quá trình XDNTM.
- Công trình nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo để vận dụng vào
thực tế việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM tại các tỉnh
thành vùng ĐBSCL.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết.




6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
NỘI DUNG ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ
THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Vai trò chủ thể của nông dân Việt Nam luôn được khẳng định qua mọi
giai đoạn lịch sử thăng trầm của dân tộc. Đặc biệt, vai trò chủ thể của nông
dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến từ rất sớm thông qua các tác
phẩm, bài viết, bài nói chuyện của mình. Chẳng hạn, ngay từ những ngày đầu
lãnh đạo chính quyền cách mạng non trẻ, trong thư gửi điền chủ, nông gia
Việt Nam ngày 11/4/1946, Người viết: “Việt Nam là một nước sống về nông
nghiệp. Nền kinh tế nước ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây
dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông
nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh
thì nước ta thịnh” [70, tr.215]. Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao sức mạnh to
lớn, toàn diện của nông dân. Người cho rằng: “Nông dân ta chí khí rất anh
dũng, kinh nghiệm rất nhiều, lực lượng rất to. Điều đó đã tỏ rõ trong thời kỳ
cách mạng và kháng chiến. Nếu lãnh đạo tốt, thì khó khăn gì họ cũng khắc
phục được, việc gì to lớn mấy họ cũng làm được” [68, tr.196].
Vai trò, sức mạnh của nông dân không chỉ được phát huy trong cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà ngày nay sức mạnh ấy một lần nữa được
Đảng ta tiếp tục khẳng định tại Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa X năm 2008 với Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông
thôn và nông dân khi cho rằng “Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển”
[30, tr.124].




7
Trong những năm qua, vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn

gắn với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và XDNTM luôn tạo được sự
quan tâm, chú ý của nhiều cấp, bộ ngành và các nhà khoa học. Đến nay, đã có
nhiều công trình nghiên cứu của tập thể, của các nhà khoa học về nông
nghiệp, nông thôn và nông dân ở những góc độ khác nhau.
Cuốn sách Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới
đất nước. Vấn đề và kinh nghiệm của các tác giả Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân
Sầm và Lê Doãn Tá (đồng chủ biên) khẳng định rằng việc Đảng ta quan tâm
đến nông dân luôn là bài học kinh nghiệm không hề cũ đối với sự nghiệp cách
mạng “Hướng về nông thôn, nông nghiệp để nghiên cứu tìm cách nhân sức
mạnh của một lực lượng nông dân to lớn là một vấn đề có tầm chiến lược bao
quát và hết sức căn bản [87, tr.67].
Với tác giả Hoàng Ngọc Hòa trong sách Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng
đã chỉ rõ:
Nông dân vừa là chủ thể, vừa là động lực của phát triển nông
nghiệp. Do đó, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật, chính
sách của Nhà nước về nông nghiệp phải đặt nông dân vào đúng vị

trí chủ thể của sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội
nông thôn, phải làm sao khơi dậy, phát huy được sự cố gắng, nhiệt
tình, tích cực, năng động sáng tạo và các nguồn lực của nông dân
đầu tư vào phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế - xã hội nông
thôn” [42, tr.46-47].
Vai trò, sức mạnh của nông dân trong mọi giai đoạn lịch sử luôn được
thực tiễn khẳng định. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, vì nhiều lý do khác
nhau, vai trò của nông dân chưa được phát huy đúng mức, đời sống của người
nông dân vẫn còn nhiều khó khăn, vấn đề nông nghiệp và nông thôn vẫn còn
nhiều bất cập. Điều này được thể hiện trong sách Nông dân, Nông thôn và




8

Nông nghiệp: Những vấn đề đang đặt ra của các học giả nổi tiếng như giáo sư
Tương Lai, giáo sư Đào Thế Tuấn, nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc,... Các tác
giả có điểm giống nhau đó là gắn bó, thiết tha với lĩnh vực nông nghiệp và địa
bàn nông thôn; xót xa với tình cảnh khó khăn, vất vả, thua thiệt của người
nông dân. Điều này được thể hiện qua việc các tác giả chỉ ra những hạn chế,
khiếm khuyết từ các chủ trương, chính sách vĩ mô và cho rằng đó là một trong
những nguyên nhân làm cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong tương
lai vận động theo hướng “Diện mạo nông thôn trong mươi, hai mươi năm tới
thật là ảm đạm: Nông thôn sẽ là nơi không ai muốn ở, nông nghiệp sẽ là
ngành không ai muốn đầu tư, nông dân muốn thoát khỏi nông thôn, nông
nghiệp!” [81, tr.110] là điều rất cần được suy ngẫm và kiểm chứng trong thực
tiễn. Từ đó, các học giả bằng sự tâm huyết của mình đề xuất một số quan
điểm, giải pháp theo góc nhìn tiếp cận cá nhân.
Cùng chung quan điểm trên, tác giả Đặng Kim Sơn và các cộng sự,

trong cuốn sách Đổi mới chính sách nông nghiệp Việt Nam: Bối cảnh, nhu
cầu và triển vọng cho rằng việc ban hành chính sách về nông nghiệp, nông
thôn trong thời gian qua là cần thiết và tạo cú hích quan trọng tạo đà cho nông
nghiệp Việt Nam cất cánh. Tuy nhiên, quá trình ban hành và thực hiện chính
sách còn có những bất cập, trong đó đáng chú ý là sự tham gia của chủ thể
nông dân chưa cao “Sự tham gia ý kiến của người dân trong công tác xây
dựng chính sách và phối hợp thực hiện chính sách còn rất hạn chế. Nông dân
nói chung không có tiếng nói, hầu như không tham gia vào công tác này, do
đó sự phản hồi chính sách rất yếu, thậm chí không có” [88, tr.132].
Cũng theo Đặng Kim Sơn, trong sách Kinh nghiệm quốc tế về nông
nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, từ việc nêu lên
hàng loạt những câu hỏi lớn, đáng chú ý như nông nghiệp, nông thôn, nông
dân ngày mai sẽ ra sao, tác giả dự đoán sẽ có sự biến đổi mạnh trong nông
dân với màu sắc khá ảm đạm:




9
Phần lớn cư dân nông thôn sẽ chuyển về đô thị vì thị trường
không hoàn chỉnh, đa số lao động không có tay nghề, quá trình di
cư diễn ra không suông sẻ. Hàng chục triệu người sẽ xung vào
đội quân “lao động không chính thức” thu nhập thấp, cuộc sống
bấp bênh, làm việc khó khăn, không được luật lệ và tổ chức
nghiệp đoàn bảo vệ. Số dân còn lại ở nông thôn còn rất đông, chủ
yếu là hộ tiểu nông sản xuất nhỏ, vừa sản xuất nông nghiệp, vừa
tìm việc làm thêm [142, tr.176].
Trong khi đó tình hình rủi ro của các hộ nông dân không những không

giảm đi mà còn có khuynh hướng gia tăng cũng được tác giả trình bày trong

cuốn sách Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai
sau. Nguyên nhân của các rủi ro có nhiều, chủ yếu là do ốm đau bệnh tật,
thiên tai thường xảy ra, dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi, tác động tiêu cực từ
các yếu tố của thị trường,… [141, tr.145-149].
Mai Ngọc Anh trong sách Tách biệt xã hội về kinh tế đối với nông
dân Việt Nam cũng đã khẳng định: tình trạng tách biệt về kinh tế đối với
nông dân phụ thuộc vào tình trạng việc làm. Tuy nhiên, tình trạng việc làm
của nông dân đến lượt nó lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố nội sinh của nông
dân. Đó là tình trạng sức khỏe không tốt, khả năng và mức độ chăm sóc y
tế không cao; mặt bằng dân trí và trình độ học vấn thấp, thiếu chuyên môn
và tay nghề;… [1, tr.154-158] là nguyên nhân làm cho đời sống kinh tế của
nông dân ngày càng có sự cách biệt so với mặt bằng chung của xã hội.
Cùng chung quan điểm trên, trong bài viết “Cơ cấu giai cấp nông dân một số biến đổi (chủ yếu từ năm 1996 đến nay)” của tác giả Mạch Quang Thắng
đã nêu lên thực trạng biến đổi cơ cấu giai cấp nông dân nước ta như: cơ cấu dân
cư nông thôn có sự chuyển dịch nơi cư trú và thay đổi môi trường làm việc,
chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị đặc biệt là đối tượng thanh niên
nông thôn; sự biến đổi cơ cấu kinh tế tác động mạnh mẽ tới sự biến đổi cơ cấu xã




10

hội - nghề nghiệp của nông dân kể cả chiều rộng và chiều sâu, từ đó dẫn đến sự
biến đổi về điều kiện sản xuất, mức thu nhập, điều kiện sống,... Theo tác giả, sự
biến đổi tất yếu cơ cấu giai cấp nông dân có hai mặt: tích cực và không tích cực,
đáng chú ý “Chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn thấp, điều này ảnh hưởng
không tốt đến sự biến đổi giai cấp nông dân Việt Nam trong khoảng hơn 10 năm
trở lại đây. Trình độ học vấn và trình độ về mọi mặt của người lao động nông
thôn thấp làm cản trở đến việc tiếp thu trình độ khoa học kỹ thuật, khoa học và

công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất” [94, tr.73].
Có thể nhận thấy, trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
thì nông dân vẫn luôn là lực lượng yếu thế. Sự hỗ trợ, giúp sức của các chủ
thể khác trên thực tế không nhiều, thậm chí có cả xung đột về lợi ích. Trong
sách Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề và giải
pháp do Lê Quốc Lý (Chủ biên), từ việc phân tích toàn diện các vấn đề có
liên quan đến CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và những vấn đề đặt ra qua
khảo sát thực tiễn tại các tỉnh chủ yếu tập trung ở khu vực phía Bắc, quyển
sách cho rằng xung đột lợi ích giữa các chủ thể ngày càng nhiều bao gồm: 1)
Nông dân xung đột với các cơ quan công quyền; 2) Nông dân xung đột với
doanh nghiệp. Tác giả nhận định, mức độ xung đột lợi ích giữa nông dân với
các cơ quan công quyền, với doanh nghiệp có xu hướng tăng và diễn tiến theo
xu hướng mới, thậm chí có nguy cơ hình thành các điểm nóng, bất ổn chính
trị ở khu vực nông thôn [58, tr. 128-131].
Hiện nay, cuộc sống của đại bộ phận nông dân nước ta còn gặp nhiều
khó khăn, trong đó có một phần là từ những hạn chế của bản thân người nông
dân. Điều này được thể hiện rõ trong các sách như: Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020 do
Nguyễn Thị Tố Quyên (Chủ biên) [144, tr.207-212]; sách Tác động của hội
nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam do Nguyễn Từ
(Chủ biên) [123, tr.219-222]. Nhìn chung, cả hai cuốn sách đi tìm nguyên




11

nhân từ chính những hạn chế của bản thân người nông dân. Cho đến nay, đa
số nông dân vẫn mang lối sống và nếp nghĩ cũ của người tiểu nông: tư duy
manh mún, tầm nhìn hạn hẹp; tính thụ động, yên phận; không dám mạo hiểm,

sợ rủi ro; tác phong làm ăn tùy tiện, ý thức kỷ luật kém, ít sống theo luật pháp
mà chủ yếu theo văn hóa cộng đồng làng xã; tư tưởng bình quân chủ nghĩa;…
Tất cả những nhược điểm, hạn chế trên làm cho nông dân ngày càng thua thiệt
trong quá trình CNH, HĐH. Có thể khẳng định, những vấn đề các sách phân
tích là rất sâu sắc, làm tiền đề để tác giả nghiên cứu sâu hơn trong phạm vi
hẹp về nông dân ở ĐBSCL.
Khi nghiên cứu về nông dân ở phạm vi khu vực, đáng chú ý có các
công trình như:
Sách Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020 do Trần Thị Minh
Ngọc chủ biên [143]. Cuốn sách nêu lên thực trạng việc làm của nông dân
vùng ĐBSH dưới tác động của CNH, HĐH giai đoạn 2000 - 2007. Mặt
tích cực của CNH, HĐH đối với nông dân vùng ĐBSH tạo ra nhiều cơ hội
việc làm, thu hút lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Mặt
tiêu cực là nông dân bị thu hồi đất phải từ bỏ nghề nông trong khi chưa
được trang bị các điều kiện cần thiết để chuyển sang làm các nghề khác
dẫn đến gia tăng tình trạng thiếu việc làm do tác động của CNH và đô thị
hóa. Đây là một mâu thuẫn, nghịch lý của vùng ĐBSH. Điều này làm cho
mối quan hệ cung - cầu trong thị trường lao động ở ĐBSH có nhiều bất
cập: thừa lao động phổ thông, thiếu lao động qua đào tạo có trình độ
chuyên môn tay nghề cao. Quá trình CNH, HĐH đã tác động trực tiếp đến
thu nhập của nông dân vùng ĐBSH. Số liệu trong cuốn sách cho thấy thu
nhập của nông dân có được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo từng bước giảm theo
tiến trình của sự phát triển. Tuy nhiên, thu nhập của nông dân khu vực
này nhìn chung vẫn còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của




12


vùng. Mặc dù cuốn sách chỉ đề cập đến đời sống của nông dân vùng
ĐBSH và giới hạn ở vấn đề việc làm, nhưng đây là tài liệu quan trọng làm
hệ quy chiếu trong so sánh khi nghiên cứu về vấn đề nông dân ở ĐBSCL.
Luận án tiến sĩ triết học của Đỗ Thị Thanh Mai nghiên cứu về vấn đề
“Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường - Đặc
trưng và xu hướng biến đổi” [63]. Luận án đi sâu nghiên cứu về đặc điểm tâm
lý của nông dân Đồng bằng Bắc bộ trong lịch sử và hiện tại. Đồng thời, tác
giả đưa ra những dự báo về sự biến đổi tâm lý của nông dân Đồng bằng Bắc
bộ trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực trong những năm tiếp theo khi đất nước
chuyển sang nền kinh tế thị trường sâu rộng. Tuy nhiên, do giới hạn về phạm
vi và nội dung nghiên cứu, nên luận án không đi sâu tìm hiểu về tâm lý nông
dân ở các khu vực khác, nhưng đây là tài liệu khoa học quan trọng trong việc
so sánh đối chiếu với tâm lý nông dân ở các vùng miền khác nhất là tâm lý,
tính cách nông dân vùng ĐBSCL.
Luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Ngọc Sơn “Nguồn nhân lực nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - Đặc điểm và
xu hướng phát triển” [89]. Luận án đi sâu nghiên cứu về chất lượng nguồn
nhân lực ở địa bàn nông thôn (thực chất là nông dân, đặc biệt là thanh niên)
của cả nước với những thuận lợi và khó khăn trong quá trình CNH, HĐH đất
nước. Qua đó, tác giả đề xuất các nhóm giải pháp như về giáo dục và đào tạo,
KT - XH, chính trị, văn hóa nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên
địa bàn nông thôn đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Riêng nông dân ĐBSCL với tư cách là một bộ phận quan trọng của
nông dân cả nước cũng là đối tượng được nhiều học giả nghiên cứu, đáng chú
ý có Sơn Nam với tư cách là nhà văn, nhà Nam bộ học đã đi sâu nghiên cứu
về lịch sử khai phá, phát triển vùng đất phương Nam, về con người Nam bộ
và đã xuất bản hơn 50 tác phẩm, tiêu biểu như: Nói về miền Nam, cá tính miền
Nam, thuần phong mỹ tục Việt Nam; Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh





13

hoạt xưa và văn minh miệt vườn; Lịch sử khẩn hoang miền Nam; Sài Gòn xưa
- Ấn tượng 300 năm và tiếp cận với Đồng bằng sông Cửu Long [72], [73],
[74], [75]. Theo Sơn Nam, tính cách, tâm lý người dân Nam bộ luôn có sự
đan xen của cả hai yếu tố đối lập: hiền lành, đôn hậu nhưng cũng ngang tàng,
liều lĩnh; năng động, thích tìm tòi khám phá cái mới từ thực tiễn nhưng có
phần lười biếng, không quan tâm việc học từ sách vở, đi học là điều không
cần thiết; không văn chương hoa mỹ, nói ít làm nhiều, con người hành động
nhưng cũng dễ buông suôi, thiếu kiên nhẫn,... Bên cạnh đó, trong các sách của
mình, tác giả đồng thời trình bày về các phong tục, tập quán, về “văn minh
miệt vườn” của người dân vùng ĐBSCL. Các tác phẩm của Sơn Nam là kho
tài liệu đồ sộ, thực sự cần thiết để nghiên cứu tìm hiểu về những nét đặc trưng
văn hóa cũng như tâm lý, tính cách nông dân vùng ĐBSCL với tất cả những
ưu nhược điểm - yếu tố quan trọng có liên quan đến thực trạng phát huy vai
trò chủ thể của nông dân trong XDNTM hiện nay.
Cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ do Trần Ngọc Thêm
chủ biên và viết chính [96] là công trình khảo cứu rất đồ sộ, công phu gần 900
trang in với sự tham gia nghiên cứu và thẩm định của nhiều nhà khoa học, nhà
văn hóa học có sự am hiểu sâu sắc về Nam bộ nói chung và Tây Nam bộ nói
riêng. Xuyên suốt 8 chương của cuốn sách, các học giả đều xuất phát từ tồn
tại xã hội, nhất là căn cứ vào những nét đặc thù do điều kiện tự nhiên quy
định, làm cơ sở đối chiếu với các vùng miền khác trong cả nước, qua đó nhằm
làm rõ bên cạnh những điểm tương đồng thì người Việt ở Tây Nam bộ cũng
có những nét văn hóa độc đáo có tính khu biệt. Đặc biệt, ở chương V, công
trình tập trung nghiên cứu về các đặc trưng tính cách văn hóa của người Việt
vùng Tây Nam bộ, đó là: tính sông nước, tính trọng nghĩa, tính bộc trực, tính

bao dung, tính thiết thực và tính mở thoáng. Ở mỗi yếu tố trên lại chứa đựng
cả tích cực và tiêu cực, ưu điểm và nhược điểm. Trên cơ sở đó, tác giả rút ra
kết luận:




14
Từ thiên nhiên, khí hậu cho đến con người, không có cái gì là bất
biến. Chất văn minh thì tăng lên, đời sống kinh tế thì có đi lên,
nhưng thiên nhiên và khí hậu và một số mặt của con người thì đang
có dấu hiệu đi xuống. Bởi vậy mà người Tây Nam Bộ không thể
ngủ yên; đối với Tây Nam Bộ, cả tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên
khí hậu và tài nguyên con người đều cần được nuôi dưỡng. Trong
đó, tài nguyên con người là quan trọng nhất; con người mà suy
thoái về đạo đức, thiếu hiểu biết về nhận thức và thiếu tầm nhìn về
năng lực thì chính họ sẽ tàn phá rất nhanh tài nguyên thiên nhiên và
tài nguyên khí hậu của mình, của mọi người và của muôn đời con
cháu về sau [96, tr.853].
Nhìn chung, các tác phẩm của Sơn Nam, hay Trần Ngọc Thêm tuy không

chủ đích bàn sâu về nông dân Nam bộ với tư cách là một giai tầng trong xã hội,
nhưng bối cảnh lịch sử mà các tác giả đề cập có liên quan đến cư dân Nam bộ
mà về thực chất và chủ yếu đó là nông dân. Vì vậy, sẽ là thiếu sót nếu nghiên
cứu về nông dân ĐBSCL mà lại không tìm hiểu nghiên cứu về những tác phẩm
này, bởi lịch sử là một dòng chảy liên tục. Một khi hiểu rõ về văn hóa, về đất và
người của vùng đất chín rồng là một trong những cơ sở quan trọng để hoạch định
chính sách phù hợp nhằm tiếp tục phát huy tốt hơn vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM. Các sách này giúp cho tác giả luận án có nguồn tư liệu phong
phú làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu về những đặc điểm tâm lý, tính cách của

nông dân ĐBSCL trong điều kiện hiện nay.
Để tiếp tục phát huy vai trò của nông dân trong CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn và XDNTM đồng thời cũng là để nâng cao đời sống cho
nông dân, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu những giải pháp hỗ trợ
nông dân như:
Sách Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với nông dân
ở Việt Nam của tác giả Hồ Quế Hậu [40]. Cuốn sách đi sâu nghiên cứu và khảo




15

sát về mối liên kết giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân - một phần rất quan
trọng trong mối kiên kết “Bốn nhà” - được tác giả nhấn mạnh nhất là khi Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về
chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng giữa
nông dân với các doanh nghiệp. Qua khảo sát về mối liên kết giữa doanh nghiệp
chế biến nông sản với nông dân trên phạm vi cả nước cho thấy bước đầu đạt
được nhiều kết quả tốt đẹp. Đối với doanh nghiệp chế biến nông sản, thông qua
mối liên kết với nông dân, đã thu mua được sản phẩm có chất lượng tốt, tạo
nguồn cung nguyên liệu ổn định bền vững cho nhu cầu chế biến, phát huy được
hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế
cao. Về phía nông dân, khi tham gia liên kết với doanh nghiệp chế biến đã giúp
cho nông sản ổn định được đầu ra với giá cả hợp lý, yên tâm sản xuất và thu
nhập từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, theo tác giả, quá trình thực hiện liên
kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với nông dân tiến triển chậm,
còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Đáng chú ý là quy mô thực hiện còn nhỏ,
chất lượng liên kết không cao, thiếu bền vững; tranh chấp hợp đồng giữa doanh
nghiệp chế biến với nông dân diễn ra khá gay gắt, phức tạp. Tình trạng vi phạm

hợp đồng từ cả hai phía rất phổ biến. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những phương
hướng và giải pháp phát triển liên kết giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với
nông dân Việt Nam ngày càng trở nên thực chất và hiệu quả hơn.
Cuốn sách Xây dựng câu lạc bộ sinh kế cộng đồng - Góp phần xóa đói
giảm nghèo [133]. Cuốn sách được trình bày bằng hình thức như sổ tay, cẩm
nang cho nông dân. Cuốn sách khẳng định các câu lạc bộ sinh kế cộng đồng
là hình thức hợp tác giản đơn, có khả năng áp dụng rộng rãi ở các vùng miền,
phù hợp với nông dân có hoạt động sản xuất quy mô nhỏ lẻ, vốn ít, dễ bị thiệt
thòi khi tham gia thị trường. Do vậy, việc hợp tác liên kết giữa một số nông
dân hay hộ gia đình thành tổ chức cộng đồng cùng thực hiện các hoạt động
sản xuất được đánh giá là thích hợp để huy động các nguồn lực phát triển kinh




16

tế hộ gia đình nhằm nâng cao năng lực sản xuất, XĐGN, liên kết tạo thêm
nguồn lực, bình đẳng giới, thúc đẩy thực hiện dân chủ cơ sở.
Hoàng Chí Bảo với Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến
trình đổi mới [7]. Nội dung cuốn sách nêu bật tầm quan trọng của dân chủ, dân
chủ cơ sở, đặc biệt là việc thực hiện và phát huy tốt dân chủ cơ sở ở nông thôn
nước ta hiện nay là chìa khóa quan trọng trong việc thực hiện tốt công tác
XĐGN nói riêng cũng như CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung; về
những ảnh hưởng và tác động của tâm lý làng xã trong việc thực hiện và phát
huy dân chủ ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ hiện nay; đồng thời trình bày những
bài học kinh nghiệm từ các địa phương về quá trình triển khai, thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở cùng với đó là các khuyến nghị. Cuốn sách là tài liệu quan trọng
có thể nghiên cứu vận dụng vào quá trình XDNTM hiện nay, vì muốn XDNTM
thành công đòi hỏi phải thực hiện tốt vấn đề dân chủ, dân chủ phải đi trước một

bước. Chỉ có như thế mới có thể phát huy tốt sức mạnh của quần chúng nhân
dân, nhất là nông dân. Nhưng, để phát huy dân chủ được tốt thì yêu cầu đặt ra là
HTCT cơ sở phải trong sạch, vững mạnh toàn diện - một nội dung quan trọng
được thể hiện ở tiêu chí số 18 trong Bộ tiêu chí quốc gia về XDNTM.
Cũng bàn về vấn đề dân chủ có bài “Thực hành dân chủ qua 30 năm đổi
mới - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Lê Hữu Nghĩa, trong sách Triết
học chính trị - con người - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [79], tác giả cho
rằng để thực hiện dân chủ thì phải từ nhiều chủ thể khác nhau như Đảng, Nhà
nước và đặc biệt là nhân dân:
Nhân dân phải có năng lực làm chủ. Năng lực đó không phải bỗng
dưng mà có, không phải từ trên trời rơi xuống, không phải do “ban
phát” mà một mặt Đảng, Nhà nước phải tạo ra cơ chế, chính sách,
luật pháp thích hợp, mặt khác người dân phải phấn đấu, rèn luyện,
phải học dân chủ, phải nâng cao trình độ hiểu biết về dân chủ,
phương pháp thực hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ. Có




17
như vậy, nhân dân mới có quyền dân chủ thực sự, tránh tình trạng
dân chủ chung chung, dân chủ hình thức [79, tr.12].
Những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi phong trào XDNTM được Đảng

ta chủ trương thực hiện trên phạm vi cả nước thực sự đang trở thành chủ đề
lớn được cả xã hội quan tâm. Đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này.
Đối với các đề tài khoa học, đáng chú ý có: Một số giải pháp xây dựng
nông thôn mới vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng (2012), mã số KHBĐ
(2009)-16 [51]; Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống vùng đồng

bằng Bắc bộ trong xây dựng nông thôn mới hiện nay (2014), mã số KHBĐ
(2013)-12 [50]; Phát huy vai trò của Hội Nông dân Việt Nam trong xây dựng
nông thôn mới ở khu vực đồng bằng sông Hồng (2014), mã số KHBĐ (2013)39 [49]. Các đề tài khoa học trên tuy đối tượng nghiên cứu có khác nhau,
nhưng đều xoay quanh chủ đề XDNTM và những giải pháp đề ra đều nhằm
mục đích làm thế nào để phong trào XDNTM đạt được nhiều thành tựu to lớn
hơn. Có thể nhận định, ngay từ khi Đảng ta đề ra chủ trương XDNTM, ở khu
vực phía Bắc đã và đang có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này với
những góc độ tiếp cận khác nhau. Trong khi đó, ở ĐBSCL đây là vấn đề chưa
được quan tâm đúng mức.
Sách Xây dựng nông thôn mới những vấn đề lý luận và thực tiễn, Vũ
Văn Phúc (Chủ biên) [159]. Quyển sách trình bày những vấn đề lý luận chung
và kinh nghiệm quốc tế về XDNTM, về thực tiễn XDNTM ở Việt Nam tập
trung ở các tỉnh khu vực phía Bắc. Tuy nhiên, khảo sát về thực tiễn XDNTM
ở ĐBSCL như thế nào, cũng như vai trò của nông dân với tư cách là chủ thể
trong quá trình XDNTM ở ĐBSCL ra sao chưa được đề cập đến, trong khi
ĐBSCL là địa bàn rộng lớn, giàu tiềm năng để phát triển nông nghiệp vì trên
thực tế ĐBSCL đã và đang đóng góp đáng kể vào thành tựu chung cho nền
kinh tế nông nghiệp của cả nước. Cho nên, chương trình XDNTM nói chung




18

và việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL nói
riêng cũng nên được quan tâm nghiên cứu và tổng kết thực tiễn.
Bài viết Kết quả sau bốn năm thực hiện Chương trình xây dựng nông
thôn mới của Nguyễn Sinh Cúc [19], tác giả tập trung khái quát về kết quả đạt
được rất cơ bản của bốn năm triển khai thực hiện XDNTM (2011 - 2014)
thông qua những mô hình tiêu biểu ở một số địa phương như: Đồng Nai, Thái

Bình, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng. Đồng thời, tác giả chỉ ra
những khó khăn, hạn chế và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để quá trình
XDNTM trong những năm tiếp theo được tốt hơn. Bài viết phản ánh kịp thời
thực trạng của chương trình XDNTM với nội dung và số liệu được cập nhật
cùng với những giải pháp có tính gợi mở. Vì vậy, đây là tài liệu tham khảo
quan trọng và cần thiết.
Đặc biệt, với bài Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới - khâu
đột phá để cơ cấu lại nông nghiệp và nâng cao thu nhập bền vững cho
người nông dân của tác giả Nguyễn Thiện Nhân đã chỉ ra một giải pháp rất
quan trọng nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân trong quá trình XDNTM
đó là con đường tất yếu cần phải hướng đến mô hình HTX kiểu mới gắn
với sự ra đời của của Luật Hợp tác xã năm 2012. Theo Nguyễn Thiện
Nhân, nông dân không thể sản xuất riêng lẻ vì “nếu canh tác độc lập, riêng
lẻ thì sức mạnh kinh tế của hộ nông dân rất nhỏ bé, khả năng chịu đựng rủi
ro rất thấp, tình trạng tái nghèo rất dễ xảy ra” [80, tr.17]. Tác giả cho rằng:
Chừng nào mà nền sản xuất nông nghiệp nước ta còn chủ yếu vẫn là
các hộ riêng lẻ, không liên kết với nhau, thì 10 triệu hộ nông dân
vẫn mãi là 10 triệu hộ yếu thế và các yêu cầu rất hợp lý về sản xuất
nông nghiệp, các chính sách về tín dụng, đào tạo, liên kết với các
nhà khoa học sẽ rất khó thực thi [80, tr.19].
Vì vậy, để đổi mới mô hình sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi các hộ
nông dân nhất thiết phải liên kết, hợp tác với nhau bằng mô hình HTX kiểu




19

mới. Bởi lẽ, tham gia vào các HTX kiểu mới trong giai đoạn hiện nay là
hướng đi cần thiết và đúng đắn vì chỉ có vào HTX nông dân sẽ có được

nhiều lợi ích trên nhiều phương diện.
Nhìn chung, bài viết của Nguyễn Thiện Nhân bàn về tầm quan trọng
phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới - một hình thức sản xuất tiêu biểu của
nông dân - để cơ cấu lại nông nghiệp mà mục đích cuối cùng không gì khác
hơn nhằm nâng cao đời sống cho nông dân là rất sâu sắc đã gợi mở, định
hướng cho tác giả luận án trong việc định hình giải pháp phát triển các HTX
nhất là đối với mô hình cánh đồng lớn trong sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL.
Bài viết Phát huy vai trò của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt
Nam trong xây dựng nông thôn mới của tác giả Hoàng Phó Dân [21, tr.15-19]
nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của nông dân trong phong trào XDNTM được
thể hiện qua việc nông dân chủ động tham gia trên tất cả các nội dung của Bộ
tiêu chí Quốc gia về XDNTM dưới sự dẫn dắt bởi tổ chức của mình là Hội
Nông dân Việt Nam các cấp.
Tuy nhiên, việc nhận thức về vai trò chủ thể của nông dân trong
XDNTM ngay ở một bộ phận cán bộ, đảng viên còn khá nhiều bất cập, điều
này được thể hiện trong bài “Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý về
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới (Qua khảo sát tại
một số tỉnh duyên hải Nam Trung bộ)” của Phạm Đi. Qua điều tra xã hội học
với các số liệu khảo sát thực tế về tình hình cán bộ, đảng viên nhận thức chưa
chuẩn xác về việc ai giữ vai trò chủ thể trực tiếp thực hiện và thụ hưởng
những thành quả trong XDNTM, tác giả kết luận đang có tình trạng “nhầm
vai” khá phổ biến. Theo đó:
Chính sự “nhầm vai” này khiến cho nông dân - những người cần phải
trực tiếp tham gia và thụ hưởng từ Chương trình - còn “đứng ngoài
cuộc”: quyền được biết, bàn, tham gia, quyết định, giám sát, thụ


×