Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ Đại học Kinh tế Quốc dân_Lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.15 KB, 42 trang )

Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012-2015 THEO
LÝ THUYẾT KEYNES

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 1


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

MỤC LỤC

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 2


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, nền kinh tế của toàn thế giới có nhiều sự thay đổi, các quốc gia dần
chuyển mình để hoà nhập với xu thế toàn cầu hoá. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế


có nhiều vấn đề bất cập xảy ra luôn song hành với nền kinh tế, đặc biệt là lạm phát và
tăng trưởng kinh tế. Nói đến tăng trưởng là nói đến việc tăng năng lực sản xuất lành
mạnh nhằm nâng cao mức sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tăng trưởng là một
khái niệm mang tính chất dài hạn có liên quan đến việc tăng sản lượng tiềm năng - sản
lượng cao nhất mà một nền kinh tế có thể đạt được trong điều kiện toàn dụng nhân công
và sử dụng hợp lực các nguồn lực kinh tế khác. Còn lạm phát là sự tăng lên liên tục mặt
bằng chung chi phí hoặc kết quả của những mất cân đối vĩ mô cơ bản như: cân đối giữa
sản xuất và chi tiêu, giữa tiền và hàng, giữa thu và chi, xuất nhập... Đây là khái niệm
mang tính ngắn hạn biểu hiện của một trạng thái thiếu ổn định khi nền kinh tế nằm chệch
khỏi trạng thái tiềm năng.
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai vấn đề cơ bản và cốt lõi trong kinh tế vĩ
mô. Sự tác động qua lại của tăng trưởng kinh tế và lạm phát hết sức phức tạp và không
phải lúc nào cũng tuân theo những nguyên tắc kinh tế. Đă có nhiều học thuyết kinh tế đề
cập những góc độ khác nhau liên quan đến lạm phát giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và lạm phát Do đó, việc xác định mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế đã và đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà kinh tế. Vì vậy, em đã lựa chọn
nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo lý thuyết
Keynes” Nội dung bài nghiên cứu gồm:
Chương I: Lý luận chung về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo
lý thuyết Keynes
Chương II: Thực trạng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam
giai đoạn 2013-2015 theo lý thuyết Keynes
Chương III: Giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh
tế.

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 3



Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT
VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THEO LÝ THUYẾT KEYNES
1.1. Lạm phát
1.1.1. Khái niệm
Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông tiền
giấy. Điều này xuất phát từ chỗ tiền giấy chỉ thực hiện vai trò trung gian trao đổi. Do đó,
khi có hiện tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại
những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu
thông hàng hóa.
Lạm phát đã được đề cập rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà
kinh tế. Các nhà kinh tế đã nghiên cứu để tìm ra một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm
phát, nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn.
- Quan điểm cổ điển cho rằng lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng
làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Quan điểm này coi trọng cơ sở đảm bảo của tiền.
- Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
- Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư liệu tiêu
dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Nhưng hiểu chính xác lạm phát là gì
không phải dễ, ngay cả các nhà kinh tế học cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về
lạm phát.
(1) Trường phái của Karl Marx: Theo Marx, lạm phát là do ý chí chủ quan của Nhà nước.
Nhà nước chủ động tạo ra lạm phát là nhằm hai mục đích: bù đắp bội chi ngân sách và
đảm bảo lợi ích cho Nhà nước. Cơ sở để Marx coi lạm phát là hành động chủ
quan của Nhà nước xuất phát từ 2 lý do:
- Thứ nhất, Marx khẳng định lạm phát là bạn đường của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ
nghĩa xã hội không có lạm phát hoặc chỉ có lạm phát lành mạnh mà thôi.
- Thứ hai, bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột, giai cấp tư sản là người nắm

chính quyền. Chính giai cấp này đã bóc lột nhân dân lao động lần thứ nhất bằng sản xuất
giá trị thặng dư và lần thứ hai bằng lạm phát.
(2) Trường phái kinh tế học thị trường: Milton Friedman cho rằng lạm phát là một
hiện tượng xã hội của tất cả các nước có sử dụng tiền tệ hiện đại. Ông đã đưa ra một câu
nói nổi tiếng: “Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Friedman ước
định rằng nguồn gốc của mọi lạm phát là một tỷ lệ tăng trưởng cao của cung tiền tệ đơn

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 4


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

giản bằng cách giảm tỷ lệ tăng trưởng cung tiền tệ đến mức thấp nhất thì có thể ngăn
chặn được lạm phát.
(3) Trường phái tiền tệ và Keynes: Phái tiền tệ tin rằng một mức giá cả tăng kéo dài
không thể là do bất kỳ nguyên nhân nào khác ngoài việc tăng cung tiền tệ gây nên. Trong
cách phân tích của phái tiền tệ, cung tiền tệ được coi là nguyên nhân duy nhất làm dịch
chuyển đường tổng cầu, cũng chính là nguyên nhân làm nền kinh tế chuyển dịch.
Bên cạnh đó còn có một số quan điểm về lạm phát khác. Theo L.V.chandeler, D.C
cliner: Với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng định: lạm phát là sự tăng giá hàng bất
kể dài hạn hay ngắn hạn, theo chu kỳ hay đột xuất. G.G. Mtrukhin lại cho rằng: Trong đời
sống, tổng mức giá cả tăng trước hết thông qua việc tăng giá không đồng đều ở từng
nhóm hàng hoá và rút cuộc dẫn tới việc tăng giá cả nói chung. Với ý nghĩa như vậy có
thể xem sự mất giá của đồng tiền là lạm phát. Ông cũng chỉ rõ: lạm phát là hình thức tràn
trề tư bản một cách tiềm tàng (tự phát hoặc có dụng ý), là sự phân phối lại sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân thông qua giá cả giữa các khu vực của quá trình tái sản xuất xã

hội, các ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã hội. P.A.Samuelson và
W.D.Nordhaus trong cuốn “Kinh tế học” đã được dịch ra tiếng Việt, xuất bản năm 1989
cho rằng lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả chi phí tăng lên.
1.1.2. Bản chất của lạm phát
Lạm phát là một hiện tượng tiền tệ khi những biến động tăng lên của giá cả trong
một thời gian dài.
1.1.3. Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu
được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí
kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với
nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp
các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức
giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ
số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá
trung bình ở thời điểm gốc.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số
này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ
thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ
số lạm phát bao gồm:
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu
dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 5


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt


thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường
hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do
những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc
cao hơn tỷ lệ tăng của CPI.
- Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh
hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả
định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một
CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên
lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản
ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng
dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính
đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi
nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không
bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển
hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều
người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm
phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các
chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch
vụ.
- Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là
tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc,
từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm
Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất.
Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá
nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá
nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của
mình.
1.1.4. Phân loại

Có nhiều cách để phân loại lạm phát, dựa trên các tiêu thức khác nhau sẽ có các
loại lạm phát khác nhau.
a) Căn cứ vào định lượng
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một

năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh
tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 6


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

được biểu hiện: Giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng
mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn…
Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được ,những tác động
của nó là không đáng kể. Mặt khác, lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao
động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có khoản thu
ổn định, ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số 1
năm. Ở mức 2 con số thấp: 11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực không đáng kể và
nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ
làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng
được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không
bao giờ cho vay tiền ở mức lãi xuất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng
xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ. Bên cạnh đó
lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế.

- Siêu lạm phát: 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất
nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã, nó như
một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và
không ổn định, tiền luơng thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh
chóng, thông tin không còn chính xác,các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản
xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn,mất phương hướng.Tóm lại,siêu lạm phát làm
cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng.Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít
xảy ra.
b) Căn cứ vào định tính :
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
+ Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động,tăng
phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.Do đó không gây ảnh
hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung.
+ Lạm phát không cân bằng:Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao
động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
- Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:
+ Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương
đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn.Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ
lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý,người dân đã quen với tình trạng lạm
phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó,không gây ảnh hưởng đến đời sống,đến kinh
tế.
+ Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện.Loại lạm
phát này ảnh hưởng đến tâm lý,đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi.Từ đó mà
-

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 7



Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào
chính quyền có phần giảm sút.
1.1.5. Nguyên nhân gây ra lạm phát
a) Lạm phát do cầu kéo
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do
tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp.
Việc tăng cung ứng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tăng cầu về hàng
hoá và dịch vụ, nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất làm tăng cầu.áp lực lạm
phát sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất
vẫn không được mở rộng hoặc do sử dung máy móc với công suất giới hạn hoặc vì nhân
tố sản xuất không đáp ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ được giá cả lấp đầy
từ đó mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu kém xuất hiện. Chẳng hạn như ở Mỹ,
sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ,
sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng.

AS3
AS2
3
2'
AS1
AD3
AD2
AD1
Y
(Tổng sản phẩm)


Yt
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 8


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

Yn
1'
1
P
P3
P2
P1
0
(Tổng mức giá)

Lúc đầu nền kinh tế đạt ở mức cân bằng tại điểm 1, khi các nhà hoạch định chính
sách muốn có một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, họ sẽ đưa ra
những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng (Yt
> Yn). Từ đó sẽ làm tăng tổng cầu và đường tổng cầu sẽ dịch chuyển đến AD2 nền kinh

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 9



Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

tế chuyển đến điểm 1’ .Lúc này sản lượng đã đạt tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng
và mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách đã thực hiện được.
Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp thực tế thấp hơn tỷ lệthất nghiệp tự nhiên nên tiền
lương tăng và đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS2,đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang 2’,
nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở
một mức giá cả P2 > P1, lúc này tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu ban đầu.Do đó
các nhà hoạch định chính sách lại tìm cách làm tăng tổng cầu, quá trình này cứ tiếp diễn
và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn.
Có nhiều nguyên nhân làm tăng tổng cầu:
- Do tăng chi tiêu của các hộ gia đình và tăng đầu tư của các doanh nghiệp. Khi đó,
có một lượng tiền lớn được tung ra mua hàng hoá và dịch vụ gây ra sự thừa tiền trong lưu
thông, dẫn đến việc đồng tiền bị mất giá.
- Do tăng cán cân thương mại, khiến cho nước ngoài tăng mua hàng trong nước, còn
người trong nước giảm mua hàng nước ngoài.
- Do Chính phủ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế. Nếu chính phủ tăng chi tiêu của mình
dành cho hàng hoá và dịch vụ, lượng tiền mà chính phủ chi mua hàng hoá và dịch vụ sẽ
được đưa trực tiếp vào nền kinh tế, làm tăng tổng cầu. Nếu Chính phủ giảm thuế hoặc
tăng chi chuyển nhượng thì sẽ làm tăng thu nhập khả dụng, từ đó làm tăng tiêu dùng của
hộ gia đình, tức là tăng cầu. Hiện nay, nguyên nhân tăng chi tiêu của Chính phủ là một
trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng lạm phát cao.
- Do việc kiểm soát lượng cung tiền của ngân hàng trung ương còn hạn chế. Ngân
hàng trung ương không kiểm soát được lượng cung tiền hợp lí, cung tiền tăng làm tăng
lãi suất, kích thích tăng đầu tư tư nhân làm tăng cầu.
b) Lạm phát do chi phí đẩy

Xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng hoặc năng lực sản xuất của quốc gia bị giảm

sút, trong cả hai trường hợp đều tạo ra áp lực tăng giá.
-

Chi phí sản xuất tăng có thể do các nguyên nhân sau: do gia tăng tiền lương danh nghĩa,
tăng giá nguyên - nhiên - vật liệu... Do chi phí sản xuất tăng nên doanh nghiệp buộc phải
tăng giá sản phẩm nhằm bảo đảm lợi nhuận, cuối cùng, thị trường cân bằng tại mức giá
cao hơn ban đầu.

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 10


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ
-

GV: Phạm Thành Đạt

Năng lực sản xuất của quốc gia giảm có thể do các nguyên nhân như: giảm sút nguồn
nhân lực, do sự gia tăng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên, do sự biến động chính trị, chiến tranh,
thiên tai,... Do năng lực sản xuất suy giảm nên khả năng đáp ứng nhu cầu giảm, gây khan
hiếm hàng hoá và tăng giá cả.
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào,
máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này
tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Các xí
nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá
chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
Cả hai trường hợp nêu trên tuy có cơ chế tác động khác nhau nhưng cùng có một
kết quả sau cùng: nền kinh tế vừa bị lạm phát vừa giảm sản lượng.
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất

cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn
tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn.Ví dụ: Nếu tiền
lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng
nhanh hơn năng xuấtlao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có
thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân
và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt
tăng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá.

c) Lạm phát do cung tiền quá mức.

Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ,khi cung tiền tệ tăng lên
kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát.Có thể thấy ngưỡng tăng
cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng.Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì
nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều,chưa khai thác nhiều.Có nhiều nhà máy xí nghiệp
bị đóng cửa chưa đi vào hoạt động. Do đó nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp
cao… Trong trường hợp này,khi tăng cung tiền thì dẫn đến lãi xuất giảm đến một mức độ
nào đó,các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều.từ đó các nhà máy,xí
nghiệp mở cửa để sản xuất, kinh doanh.Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu được khai
thác,người lao động có việc làm và sản lượng tăng lên .
Ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy,xí nghiệp được hoạt động hết công
suất,nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa.Khi đó lực lượng lao động được
sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều.Tuy nhiên tình hình sẽ dẫn
đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông.Chẳng hạn khi các nhà máy,xí nghiệp hoạt
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 11


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ


GV: Phạm Thành Đạt

động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng,thiếu lao động,nguyên vật liệu dần bị
khan hiếm…Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông
nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó.Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản
lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra.
d) Các nguyên nhân khác

Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên,một số các nguyên nhân khác
cũng gây ra lạm phát.Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư.Khi người dân không
tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước,họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng
việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó… Như thế cầu
sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá
không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả
tăng lên làm tiêu dùng tăng,cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.Thứ hai thâm hụt ngân
sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát
cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng
cách phát hành trái phiếu chính phủ đẻe vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu
hụt.Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung
ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát .Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì
chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền
tệ làm tăng mức cung ứng tiền,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát.Tuy
nhiên,đối với các nước đang phát triển,việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó
khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế.Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả
nhất.Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo
và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn.
Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu
có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng
cao hơn.Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào

các trái phiếu đó.Như thế mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát.
Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm
tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái.Khi tỷ giá tăng
đồng bản tệ sẽ bị mất giá, khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá
hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái.Mặt khác khi tỷ giá hối đoái tăng, chi
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 12


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên.Do đó giá cả của các hàng
hoá này tăng lên cao.Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy.
Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách
thuế,chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý,mất cân đối cũng xảy ra lạm phát.
1.1.6. Những hậu quả của lạm phát
Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành nạn
nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu dùng. Tuy
nhiên, 4 thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất là:
-

Người về hưu: Lương hưu là một trong những “hàng hoá” ổn định nhất về giá cả, thường
chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hoá đã tăng lên gấp nhiều lần.

-


Những người gửi tiền tiết kiệm: Hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền khiến cho những
người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền tiết kiệm đánh mất của cải
nhanh nhất.

-

Những người cho vay nợ: Khoản nợ trước đây có thể mua được một món hàng nhất định
thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị thấp hơn. Vậy ai là người được
hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì người sung sướng nhất chính là những con
nợ vì nay khoản nợ họ phải trả có vẻ nhẹ gánh hơn.

-

Những người thuộc diện nghèo trong xã hội (thu nhập dưới 1USD/ngày): đây là những
người chịu hậu quả nặng nề nhất của lạm phát khi số tiền ít ỏi của họ giờ đây không đủ
cho 1 bữa ăn gia đình.
Tuy nhiên, lạm phát ở mức độ vừa phải cũng có cái lợi, đó là nó góp phần phân
phối lại thu nhập trong xã hội, giữa những người thừa tiền và những người có hàng hoá
cần thanh lý. Sau khi lạm phát kết thúc thì tiền sẽ phân phối đều hơn, ít trường hợp người
này wá nhiều tiền còn người kia quá nhiều hàng nhưng lại thiếu vốn.
Ngoại trừ trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (1 con số) có tác động tích
cực đến nền kinh tế còn lại nói chung lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát
triển của nền kinh tế xã hội.
Hậu quả của lạm phát tập trung lại ở những mặt sau:

-

Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh: trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, giá cả hàng
hóa tăng liên tục, điều này làm cho sản xuất gặp khó khăn. Quy mô sản xuất không tăng
SV: Vũ Thị Hồng Mai


Page 13


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

-

-

-

-

GV: Phạm Thành Đạt

hoặc giảm sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu tư liên tục. Cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất
cân đối vì sẽ có xu hướng phát triển những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn, thời gian thu
hồi vốn nhanh, còn những ngành sản xuất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có
xu hướng bị đình đốn, phá sản. Vì vậy, trong điều kiện có lạm phát, lĩnh vực thương
nghiệp thường phát triển mạnh. Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác hạch toán chỉ còn là
hình thức.
Trong lĩnh vực thương mại: người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là trung gian trao đổi
đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hàng hóa đẩy khỏi tay mình những đồng tiền
mất giá. Điều này càng làm cho lưu thông tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra là môi
trường tốt để những hiện tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh như đầu cơ, tích trữ gây
cung – cầu hàng hóa giả tạo…
Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng: tín dụng cũng rơi vào khủng hoảng khi người dân không
an tâm đầu tư trong điều kiện lạm phát gia tăng. Lạm phát làm sức mua của đồng tiền bị

giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của thị trường tăng
lên một cách đột biến hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do
nguồn tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng nhiều ngân hàng bị phá sản do mất
khả năng thanh toán và thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị rối loạn
không thể kiểm soát nổi.
Trong lĩnh vực tài chính nhà nước: tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho ngân sách
nhà nước qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập của quốc dân nhưng do ảnh
hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của ngân sách nhà nước (chủ yếu là
thuế) ngày càng sụt giảm do sản xuất bị sút kém, do nhiều công ty, xí nghiệp bị phá sản,
giải thể…
Trong lĩnh vực đời sống xã hội: đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật
do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của giá cả. Giá trị thực tế của tiền lương giảm sút
nghiêm trọng làm cho trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề.
Như vậy, lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội và nhà
nước phải cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế và sự đòi hỏi
phải kiểm soát được lạm phát.

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 14


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

1.2. Tăng trưởng kinh tế
1.2.1. Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế (Economic Growth) là một khái niệm mang tính định lượng,
được biểu hiện bằng một trong hai cách sau:

- Cách 1: Sự gia tăng thực tế của tổng sản phẩm quốc dân (GNP – Gross National
Product); tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross Domestic Product) hay sản phẩm quốc
dân ròng (NNP – Net National Product) trong một thời kỳ nhất định.
- Cách 2: Sự gia tăng thực tế theo đầu người của GNP, GDP hay NNP trong một thời
kỳ nhất định
1.2.2. Bản chất của tăng trưởng kinh tế
Là sự phản ánh thay đổi về lượng của nền kinh tế. Đầu tư phát triển không những
làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc
dân. Chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài
sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm lực sản suất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc
làm cho người lao động. Như vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu
đối với quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế.
1.2.3. Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện ở sự tăng lên về sản lượng hằng năm do nền
kinh tế tạo ra. Do vậy thước đo của sự tăng trưởng là các đại lượng sau: Tổng sản phẩm
trong nước (GDP); tổng sản phẩm quốc dân (GNP); sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP);
thu nhập quốc dân sản xuất (NI) và thu nhập quốc dân sử dụng (NDI).
Tổng sản phẩm trong nước (Tổng sản phẩm quốc nội - GDP):
GDP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong năm bằng các
yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Đại lượng này thường được tiếp cận theo các cách khác nhau:
-

Về phương diện sản xuất:
Tổng giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong cả nước
GDP =Giá trị tăng = Giá trị sản lượng - Chi phí các yếu tố trung gian(Y) (GO) (IC)
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 15



Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ
-

GV: Phạm Thành Đạt

Về phương diện tiêu dùng :
GDP = C + I + G + (X - M)
Trong đó:
C: Tiêu dùng các hộ gia đình
G: Các khoản chi tiêu của chính phủ
I: Tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp
(X - M): Xuất khẩu ròng trong năm

-

Về phương diện thu nhập:
GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức Nhà
nước thu được từ giá trị gia tăng đem lại.
GDP = Cp + Ip + T
Trong đó:
Cp: các khoản chi tiêu mà các hộ gia đình được quyền tiêu dùng
Ip: Các khoản mà doanh nghiệp tiết kiệm được dùng để đầu tư
GDP theo cách xác định trên đã thể hiện một thước đo cho sự tăng trưởng kinh tế
do các hoạt động kinh tế trong nước tạo ra, không phân biệt sở hữu trong hay ngoài nước
với kết quả đó. Do vậy, GDP phản ánh chủ yếu khả năng sản xuất của nền kinh tế một
nước.
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP):
GNP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một
nước tạo ra và có thể thu nhập trong một năm, không phân biệt sản xuất được thực hiện

trong nước hay ngoài nước.
Như vậy GNP là thước đo sản lượng gia tăng mà nhân dân của một nước thực sự
thu nhập được.
GNP = GDP + Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 16


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

Với ý nghĩa là thước đo tổng thu nhập của nền kinh tế, sự gia tăng thêm GNP thực
tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của các hoạt động kinh
tế đem lại.
GNP thực tế là GNP được tính theo giá trị cố định nhằm phản ảnh đúng sản lượng
gia tăng hàng năm loại trừ những sai lệch do sự biến động giá cả (lạm phát) tạo ra, khi
tính GNP theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa.
Hệ số giảm phát là tỷ lệ GNP danh nghĩa và GNP tực tế ở cùng một thời điểm.
Dùng hệ số giảm phát để điều chỉnh GNP danh nghĩa ở thời điểm gốc, để xác định mức
tăng trưởng thực tế và tốc độ tăng trưởng qua các thời điểm.
Sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP):
NNP là giá trị còn lại của GNP, sau khi đã trừ đi giá trị khấu hao tài sản cố định
(Dp)
NNP = GNP - Dp
NNP phản ánh phần của cải thực sự mới được tạo ra hàng năm.
Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI):
NDP là phần mà nhân dân nhận được và có thể tiêu dùng, là phần thu nhập ròng
sau khi trừ đi thuế (trực thu và thuế gián thu) (Ti+Td) cộng với trợ cấp (S d):

NDI = NNP - (Ti+Td) + Sd
Mục đích đưa ra các thước đo là để tiếp cận tới các trạng thái phát triển của nền
kinh tế, mỗi thước đo đều có ý nghĩa nhất định và được sử dụng tuỳ thuộc vào mục đích
nghiên cứu. Mặc dù đó là các thước đo phổ biến nhất hiện nay, nhưng đó chỉ là những
con số xấp xỉ về các trạng thái và tốc độ biến đối trong phát triển kinh tế, vì bản thân các
thước đo đó chưa thể phản ánh hết được các sự kiện phát triển cả mặt tốt lẫn mặt chưa
tốt. Chẳng hạn như các sản phẩm tự túc, công việc nội trợ gia đình, thời gian nghỉ ngơi,
sự tự do, thoải mái trong đời sống sinh hoạt, sự tổn hại do bị ô nhiễm môi trường thì được
tính bằng cách nào.

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 17


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

1.3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo lý thuyết Keynes
1.3.1. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo
lý thuyết Keynes
1.3.1.1. Lý thuyết Keynes
Quan điểm của Keynes về lạm phát: Giống như kết luận của phái tiền tệ, Keynes
cho rằng việc tăng nhanh cung tiền tệ sẽ làm mức giá cả tăng kéo dài với tỷ lệ cao nên
gây ra lạm phát. Cách phân tích của Keynes chỉ ra rằng cung tiền tệ kéo dài sẽ có ảnh
hưởng như nhau đối với đường tổng cầu và tổng cung. Keynes cũng không cho rằng có
nhân tố nào khác ngoài tiền tệ có thể gây nên lạm phát, mặc dù Keynes cho phép những
nhân tố khác ngoài những thay đổi trong cung tiền tệ ảnh hưởng đến đường tổng cầu và
tổng cung như chính sách tài chính và các cú sốc cung tiền tệ. Trong cách phân tích của

Keynes, chính sách tài chính tự nó không thể gây nên lạm phát. Mặt khác của chính sách
tài chính: đó là thuế. Việc kéo dài cắt giảm thuế cũng không thể đưa đến lạm phát. Tương
tự như trên sẽ có sự tăng duy nhất một lần trong mức giá cả nhưng sự tăng lên trong tỷ lệ
lạm phát sẽ chỉ là tạm thời. Ta có thể tăng mức giá cả bằng cách cắt giảm thuế, nhưng quá
trình này phải dừng lại khi thuế ở mức số không, khi đó không thể giảm thuế được nữa.
Hiện tượng về phía cung tự nó cũng không thể gây ra lạm phát.
Quan điểm của Keynes về tăng trưởng kinh tế:
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Keynes được biết đến trong cuốn sách Lý thuyết
tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, Nhà xuất bản Đại học Glassgow ấn hành năm
1936. Tác phẩm này là nền tảng cho sự phát triển của cả một ngành kinh tế học và là
công trình được nhắc đến và gây tranh cãi nhiều nhất đối với kinh tế học thế kỷ XX.
Keynes cho rằng, nền kinh tế không phải lúc nào cũng đạt đến mức sản lượng tiềm
năng nhờ cơ chế tự điều chỉnh như quan điểm của trường phái cổ điển và tân cổ điển. Mà
nền kinh tế chỉ có thể đạt tới và duy trì một sự cân đối ở một mức sản lượng nào đó, dưới
mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người. Khi mô tả nền kinh tế, cũng giống như mô
hình cổ điển, ông cho rằng có hai đường tổng cung: AS - LR phản ánh mức sản lượng
tiềm năng của nền kinh tế, và AS - SR phản ánh khả năng thực tế. Và cân bằng của nền
kinh tế không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng, mà thông thường sản lượng thực tế
đạt được ở mức cân bằng nhỏ hơn mức sản lượng tiềm năng, nơi mà dưới mức công ăn
việc làm đầy đủ cho mọi người. Nền kinh tế có thể cân bằng dưới mức sản lượng tiềm
năng (Yo Theo Keynes, khi mức thu nhập thấp hơn mức tiêu dùng cần thiết, có thể xuất hiện
tình trạng chi tiêu vượt quá thu nhập. Nhưng khi mức thu nhập tuyệt đối được nâng lên
thì sẽ có khuynh hướng nới rộng sự chênh lệch giữa thu nhập và tiêu dùng. Đặc biệt khi
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 18


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ


GV: Phạm Thành Đạt

người ta đạt đến sự tiện nghi nào đó, thì họ sẽ trích từ phần thu nhập tăng thêm cho tiêu
dùng ít hơn, còn cho tiết kiệm nhiều hơn. Đây là quy luật tâm lý cơ bản của bất cứ cộng
đồng tiên tiến nào. Theo J.M.Keynes, khi việc làm tăng lên thì tổng thu nhập thực tế tăng
lên, do vậy cũng làm tăng tiêu dùng. Song do quy luật tâm lý nêu trên, nên sự gia tăng
tiêu dùng nói chung chậm hơn sự gia tăng thu nhập, và khoảng cách đó ngày càng tăng
theo tốc độ gia tăng thu nhập. Nói cách khác, tiết kiệm có khuynh hướng gia tăng nhanh
hơn. Keynes cho rằng sự giảm sút tương đối cầu tiêu dùng là xu hướng của mọi xã hội
tiên tiến. Đây chính là nguyên nhân gây ra tình trạng nền kinh tế trì trệ, suy giảm tăng
trưởng kinh tế
Quan điểm của Keynes về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội, là hai vấn đề kinh tế trong
nền kinh tế. Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát có mối quan hệ “chế ước” lẫn nhau.
Đây là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau. Tuy nhiên, mức độ gắn kết giữa lạm
phát và tăng trưởng kinh tế như thế nào vẫn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi.
Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ
thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng
giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Tuy nhiên, không
ít nhà kinh tế lại lập luận rằng: lạm phát ở mức nhẹ có tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi tiếng Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư
tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực
tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Trước nhiều ý kiến, nhiều
quan điểm trái chiều thì mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát vẫn đang là một vấn
đề được nhiều nhà kinh tế học quan tâm
Lý thuyết của Keynes mô tả mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng dựa vào
mô hình của Tổng cung (AS) và Tổng cầu (AD). Trong ngắn hạn đường AS có hệ số góc
dương và nhỏ hơn 90˚ vì vậy khi có những thay đổi bên Cầu sẽ tác động vào lạm phát và

sản lượng, cơ chế điều chỉnh trong ngắn hạn trong lý thuyết Keynes chia làm hai giai
đoạn: Giai đoạn đầu lạm phát và sản lượng đều tăng – Lạm phát và sản lượng có mối
quan hệ tỷ lệ thuận; giai đoạn tiếp theo lạm phát tiếp tục tăng nhưng sản lượng không
tăng, thậm chí giảm (Giai đoạn “Đình lạm”) và sau đó lạm phát cũng sẽ giảm. Theo mô
hình này, trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát, nghĩa là, muốn
cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nhất định. Trong giai
đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển cùng chiều. Tuy vậy sự đánh đổi này
không diễn ra thường xuyên vì khi sản lượng giảm xuống dưới mức sản lượng tiềm năng
(toàn dụng lao động), lạm phát cũng sẽ giảm. Trong dài hạn, nếu tiếp tục chấp nhận tăng
lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng thì GDP cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm,
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 19


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

đường Tổng cung (AS) là đường thẳng đứng với hệ số góc bằng 90˚, vì vậy những thay
đổi bên Cầu của nền kinh tế chỉ tác động vào giá cả và gây nên lạm phát.
Các nhà kinh tế theo lý thuyết Keynes cho rằng điều chỉnh của thị trường và kỳ
vọng tiến tới cân bằng rất chậm, những vấn đề về ngắn hạn có ý nghĩa quan trọng trong
vận hành của nền kinh tế, vì vậy chính phủ cần có chính sách tài khóa và tiền tệ để tác
động vào bên cầu.
1.3.1.2. Lý thuyết Keynes mới
Lý thuyết tăng trưởng Keynes mới bắt nguồn từ trường phái Keynes với việc đưa
ra khái niệm về sản lượng tiềm năng, nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng khi ở vào
trạng thái toàn dụng lao động. Toàn dụng lao động được hiểu theo nghĩa thất nghiệp ở
mức tỷ lệ tự nhiên – tỷ lệ thất nghiệp không làm tăng hoặc giảm lạm phát.

Mô hình Keynes mới vận hành theo “Cơ chế lạm phát nội tại” nghĩa là lạm phát
gây nên bởi các biến nội sinh của nền kinh tế:
(1) Nếu chính sách kinh tế làm cho sản lượng (GDP) vượt mức tiềm năng và tỷ lệ
thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, các yếu tố khác không đổi, khi đó lạm
phát sẽ gia tăng vì các nhà sản xuất sẽ tăng giá sản phẩm và lạm phát nội tại xấu hơn.
Nếu tiếp tục tình trạng này, nền kinh tế rơi vào trạng thái “đình lạm”;
(2) Nếu chính sách kinh tế làm cho GDP giảm xuống dưới mức tiềm năng và tỷ lệ
thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, các yếu tố khác không đổi, khi đó lạm phát
sẽ giảm vì các nhà sản xuất sẽ cố gắng sử dụng hết tiềm năng của nền kinh tế bằng cách
giảm giá dẫn tới lạm phát giảm (thiểu phát) và giảm tỷ lệ thất nghiệp;
(3) Nếu chính sách kinh tế giữ cho GDP đứng ở mức sản lượng tiềm năng, tỷ lệ thất
nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và nền kinh tế không có các cú sốc bên Cung, khi
đó tỷ lệ lạm phát sẽ không thay đổi. Điểm hạn chế của lý thuyết tăng trưởng Keynes mới
ở chỗ các nhà kinh tế không biết được chính xác GDP tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên và những chỉ tiêu này thay đổi theo thời gian. Mặt khác lạm phát luôn vận hành
không cân xứng ở chỗ tăng lên nhanh nhưng giảm xuống chậm.
1.3.2. Những nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế theo lý thuyết Keynes
1.3.2.1. Nghiên cứu của Stanley Fischer

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 20


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

Năm 1993, Stanley Fischer sử dụng bộ số liệu về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của 93

nước với phương pháp hồi quy theo nhóm và hồi quy hỗn hợp để xây dựng lược đồ nhằm
xác định “kênh chuyền tải” từ thực thi chính sách kinh tế vĩ mô đến tăng trưởng2. Trong
nghiên cứu Fischer đã xác định những phản hồi trở lại của tăng trưởng đối với lạm phát,
thậm hụt ngân sách, sự méo mó của thị trường ngoại hối; nghiên cứu quan hệ nhân quả
và các kênh vận hành của chúng. Kết quả kiểm chứng số liệu thể hiện qua các phát hiện
chủ yếu sau:
(1) Lạm phát có mối tương quan rất chặt chẽ với tăng trưởng;
(2) Lạm phát làm suy giảm đầu tư và suy giảm tỷ lệ tăng năng xuất của nền kinh tế
dẫn tới suy giảm tăng trưởng - Kênh chuyền tải từ lạm phát đến suy giảm tăng trưởng;
(3) Nghiên cứu một số trường hợp đặc thù cho thấy lạm phát thấp không nhất thiết
là điều kiện để có tăng trưởng cao trong dài hạn và lạm phát cao không phù hợp với tăng
trưởng bền vững.
1.3.2.2. Nghiên cứu của Moshsin S. Khan và Abdelhak S. Senhadji
Năm 2001, Moshsin S. Khan và Abdelhak S. Senhadji đã sử dụng số liệu về tăng
trưởng GDP theo giá so sánh của 140 nước bao gồm cả các nước công nghiệp và các
nước đang phát triển trong giai đoạn 1960-1998 để kiểm chứng thực tiễn nhằm trả lời hai
câu hỏi: Có tồn tại ngưỡng lạm phát có ý nghĩa trong kiểm chứng thống kê để khi lạm
phát cao hơn ngưỡng đó sẽ tác động xấu vào tăng trưởng và tác động của nó khác với tác
động khi lạm phát ở mức thấp hơn; Tác động của ngưỡng lạm phát vào tăng trưởng có
giống nhau giữa các nước công nghiệp và các nước đang phát triển.
Moshsin S. Khan và Abdelhak S. Senhadji sử dụng mô hình lạm phát dưới dạng
logarit và hàm bậc hai tối thiểu phi tuyến tính để kiểm chứng ngưỡng lạm phát đối với
tăng trưởng. Do số liệu của các nước đang phát triển không đủ theo thời gian như số liệu
của các nước công nghiệp vì vậy những kiểm chứng và phân tích của Khan và Senhadji
thực hiện theo các nhóm không cân đối. Kết quả của kiểm chứng số liệu thể hiện qua ba
phát hiện chủ yếu sau:
(1) Khẳng định mạnh mẽ sự tồn tại ngưỡng lạm phát có ý nghĩa trong kiểm chứng
thống kê, khi lạm phát cao hơn Ngưỡng sẽ tác động xấu đến tăng trưởng, ngược lại khi
lạm phát thấp hơn Ngưỡng sẽ không tác động đến tăng trưởng. Lạm phát thấp là một yếu
tố quan trọng đảm bảo tăng trưởng bền vững;


SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 21


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

(2) Ngưỡng lạm phát đối với các nước công nghiệp từ 1% - 3%, đối với các nước
đang phát triển ở mức 11%-12%;
(3) Kiểm chứng về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng không cho biết
phương thức tác động của lạm phát vào tăng trưởng. Do đầu tư và việc làm luôn được
quản lý, vì vậy theo Khan và Senhadji tác động của lạm phát vào tăng trưởng thông qua
“kênh” năng xuất.

SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 22


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 THEO LÝ THUYẾT
KEYNES
2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2015

Cuối năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu ảnh hưởng tới Việt
Nam và kéo lạm phát về mức 7% trong năm 2009. Tuy nhiên, đợt lạm phát hai con số thứ
2 lại bắt đầu từ tháng 9 năm 2010, 42 trước cả khi tác động của khủng hoảng giảm xuống.
Đợt lạm phát cao này kéo dài 13 tháng đến tháng 10 năm 2011 khiến cho lạm phát lên
đến 11,75% trong năm 2010 và 18,13% trong năm 2011. Trước tình hình lạm phát như
trên, ngày 24 tháng 02 năm 2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về
những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội với nhiều giải pháp quan trọng. Triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các
Nghị quyết và giải pháp kiềm chế và kiểm soát lạm phát, kinh tế nước ta đã từng bước
được cải thiện và tương đối ổn định, tỷ lệ lạm phát liên tục giảm. Chỉ số giá tiêu dùng
tháng 12 so với cùng kỳ năm trước đã giảm từ 2 con số năm 2011 (18,13%) xuống mức 1
con số (6,81% năm 2012; 6,04% năm 2013; 1,84% năm 2014 và 0,60% năm 2015). Lạm
phát cơ bản giảm từ 13,62% năm 2011 xuống 8,19% năm 2012; 4,77% năm 2013; 3,31%
năm 2014 và 2,05% năm 2015.
Biểu đồ 2.1: Lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2015

Nguồn: Tổng cục thống kê
Chỉ số giá sản xuất bao gồm chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng
nông, lâm nghiệp và thủy sản, chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công
nghiệp và chỉ số giá cước vận tải 5 năm 2011-2015 đều có xu hướng chung là đạt mức
tăng cao nhất trong năm 2011, sau đó giảm dần và ổn định ở những năm cuối, diễn biến
cụ thể như sau:
(1) Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản
hằng năm so với năm trước từ mức tăng 14,40% năm 2010 tăng lên mức 31,60% năm
2011; đến năm 2012 giảm 2,13%; năm 2013 tăng 0,57%; năm 2014 tăng 4,62% và năm
2015 giảm 0,28%. Tính chung 5 năm, chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng
nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 35,14%, bình quân mỗi năm tăng 6,21%.
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 23



Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

(2) Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp hằng năm so với
năm trước từ mức tăng 12,63% trong năm 2010 lên mức tăng 18,43% năm 2011; sau đó
ổn định dần (Tăng 3,43% năm 2012; 5,25% năm 2013; 3,26% năm 2014 và giảm 0,58%
năm 2015). Tính chung 5 năm, chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công
nghiệp tăng 32,35%, bình quân mỗi năm tăng 5,77%. Nếu xét quan hệ giá cánh kéo giữa
hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản với hàng công nghiệp thì giá bán hàng công nghiệp
thấp hơn. Trên khía cạnh này mà xét thì diễn biến giá cả 5 năm 2011-2015 người nông
dân có lợi hơn người làm hàng công nghiệp.
(3) Chỉ số giá cước vận tải kho bãi cũng theo xu hướng tăng cao trong những năm
đầu và sau đó giảm dần. Chỉ số này hằng năm so với năm trước trong 5 năm 2011-2015
lần lượt là: Năm 2011 tăng 14,48%; năm 2012 tăng 13,20%; năm 2013 tăng 6,48%; năm
2014 tăng 3,13% và năm 2015 giảm 3,26%. Tính chung 5 năm tăng 37,67%; bình quân
mỗi năm tăng 6,60%. 45 Nếu xét quan hệ giá cánh kéo với hàng nông, lâm nghiệp và
thủy sản cũng như với hàng công nghiệp thì giá cước vận tải 5 năm qua tăng cao nhất.
Đây là điều bất hợp lý trong quản lý giá nói chung và quản lý giá cước vận tải nói riêng
vì giá dầu (chiếm khoảng 1/3 giá thành cước vận tải) trong 5 năm qua liên tục giảm sâu
(tháng 4/2011 giá dầu 125,89 USD/thùng, đến giữa tháng 12/2015 còn 38,20 USD/thùng,
chỉ bằng 30,3% mức giá tháng 4/2011)
2.2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015
Bước vào thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 với mục
tiêu nhiệm vụ đã đề ra, bên cạnh những hạn chế, yếu kém đang tồn tại thì không ít khó
khăn thách thức mới lại phát sinh thêm. Tình hình thiên tai, dịch bệnh và ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu nặng nề hơn dự báo ban đầu. Tình hình căng thẳng ở Biển Đông diễn
biến phức tạp, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định của nước ta và khu vực. Khủng

hoảng kinh tế ở nhiều nước, trong đó có những nước là đối tác của nước ta phục hồi
chậm. Những khó khăn, thách thức này càng làm trầm trọng thêm những hạn chế, bất cập
nội tại của nền kinh tế nước ta, gây ảnh hưởng lớn đến việc triển khai và kết quả thực
hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015. Nhưng nhờ sự nỗ lực cao của
các cấp, các ngành; sự đồng thuận, nhất trí của toàn dân nên trong khó khăn nền kinh tế
nước ta vẫn lấy lại được đà tăng trưởng với tốc độ tăng dần qua các năm. Tốc độ tăng
tổng sản phẩm trong nước năm 2010 theo giá so sánh 2010 đạt 6,42% giảm xuống chỉ
còn tăng 6,24% trong năm 2011 và 5,25% trong năm 2012, nhưng năm 2013 đã tăng lên
đạt 5,42%; năm 2014 đạt 5,98% và sơ bộ năm 2015 đạt 6,68%. Tính ra, trong 5 năm
2011-2015, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 5,91%, đưa quy mô nền
kinh tế nước ta năm 2015 gấp 1,33 lần năm 2010.
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 24


Đề án Lý thuyết Tài chính tiền tệ

GV: Phạm Thành Đạt

Biểu đồ 2.2: Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015

Nguồn: Tổng cục thống kê
Tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế nước ta trong 5 năm 2011-2015 tuy
thấp hơn tốc độ tăng bình quân mỗi năm của các giai đoạn 5 năm trước và không đạt mục
tiêu đề ra là tăng bình quân mỗi năm 6,5-7%, nhưng vẫn đứng vào hàng các nền kinh tế
có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới. Theo Báo cáo của Quỹ Tiền tệ quốc tế,
Ngân hàng Thế giới và các tổ chức tài chính thế giới khác thì trong 5 năm 2011-2015
kinh tế thế giới tăng bình quân mỗi năm 3,44%, trong đó: Thái Lan tăng 2,50%/năm; Hàn
Quốc tăng 3,04%/năm; Xin-ga-po tăng 4,24%/năm; Ma-lai-xi-a tăng 5,40%/năm; In-đônê-xi-a tăng 5,70%/năm; Phi-li-pin tăng 5,93%/năm; Ấn Độ tăng 6,51%/năm; Trung

Quốc tăng 8,06%/năm.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tốc độ tăng dân số nên GDP bình quân đầu
người tính theo giá hiện hành đã tăng từ 1273 USD/người năm 2010 lên 1517 USD/người
năm 2011; 1748 USD/người năm 2012; 1907 USD/người năm 2013; 2052 USD/người
năm 2014 và ước tính đạt 2109 USD/người năm 2015. Tính theo sức mua tương đương
năm 2011, tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người năm 2014 đạt 5629
USD/người, tăng 28,1% so với năm 2010
2.3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn
2011-2015 theo lý thuyết Keynes
2.3.1. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2015
theo lý thuyết Keynes.
Có thể nói, giai đoạn 2011-2015 là một trong những giai đoạn khó khăn nhất của
nền kinh tế Việt Nam kể từ sau khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế
năm 1986. Tốc độ tăng GDP bình quân 5 năm đạt mức 29 thấp nhất so với các giai đoạn
5 năm kể từ năm 1990, chỉ đạt 5,91% so với mức 8,2% giai đoạn 1991-1995; 6,95% giai
đoạn 1996-2000; 6,9% giai đoạn 2001-2005; 6,32% giai đoạn 2006-2010. Năm 2011
khởi đầu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 với nhiều khó khăn nên
tổng sản phẩm trong nước chỉ tăng trưởng 6,24%, thấp hơn mức tăng trưởng năm 2010.
Cùng với đó là sự tăng cao của lạm phát, sự biến động mạnh của giá vàng và giá đô la
Mỹ những năm cuối Kế hoạch 5 năm 2006-2010 đã đẩy nền kinh tế vào tình trạng ngày
càng khó khăn.
SV: Vũ Thị Hồng Mai

Page 25


×