Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN: Rèn luyện năng lực cảm thụ, phân tích văn học cho học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.45 KB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG THCS

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN NĂNG LỰC CẢM THỤ, PHÂN TÍCH VĂN
HỌC CHO HỌC SINH LỚP 9

Người thực hiện:
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS
SKKN thuộc lĩnh mực (mơn): Ngữ văn

THANH HỐ NĂM 2016
1


MỤC LỤC
Nội dung
1.Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.Cơ sở lý luận
2.2.Thực trạng của vấn đề.
2.3.Các giải pháp để giải quyết vấn đề.
2.3.1.Năng lực cảm thu, phân tích văn học cần hình thành cho học sinh
2.3.2.Con đường nâng cao năng lực cảm thụ, phân tích văn học cho học sinh
2.3.3.Giải pháp.


2.3.4.Hiệu quả.
3.Kết luận và kiến nghị.
3.1.Kết luận
3.2.Kiến nghị

Trang
3
3
4
4
4
4
4
5
6
6
11
14
20
22
22
22

2


1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Mơn Ngữ văn có một vị trí quan trọng trong nhà trường, được xem như một
chiếc chìa khóa để học sinh tiến vào mọi lĩnh vực khoa học, mọi hoạt động xã hội.

Văn học có tác dụng sâu sắc và lâu bền đến đời sống tâm hờn và trí tuệ của các em.
Văn học là tiếng nói tình cảm tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, cảm xúc
của con người.
Từ xưa con người đã nhận thấy tác dụng lớn lao của văn chương. Văn học
không chỉ là món ăn tinh thần không thể thiếu mà nó còn có thể có một sức mạnh
vật chất chẳng kém gì một đạo binh hùng mạnh. Văn học còn có khả năng đặc biệt
trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu vào đời sống tâm linh của con
người, giúp cho con người tự hồn thiện nhân cách của chính mình. Chính vì vậy
mà M.Gooc ky đã nói: “Văn học giúp cho con người hiểu được bản thân mình,
nâng cao niềm tin và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí”. Văn
học còn chắp thêm đơi cánh để các em đến với mọi thời đại văn minh, với mọi nền
văn hóa, trang bị cho các em vốn sống hướng các em tới những gì tốt đẹp nhất.
Hiện nay với sự phát triển của khoa học, cuộc sống vật chất được nâng lên
thì vị trí, vai trò của văn học cần phải được coi trọng đúng mức bởi vì văn học là
một môn nghệ thuật cung cấp tri thức cho học sinh, ngoài ra nó còn có tác dụng
trong việc bời dưỡng giáo dục tư tưởng tình cảm, thẩm mỹ cho học sinh. Nó góp
phần trong việc đào tạo thế hệ thanh thiếu niên trở thành một công dân tốt bởi vì
đất nước bước vào hội nhập, những chủ nhân tương lai phải chuẩn bị cho mình một
hành trang mới để tự tin bước đi trên những nẻo đường đời. Do đó, con đường
chuẩn bị hành trang là sự kế thừa và phát huy nhưng không thể lạc hậu và trì trệ,
khơng thể cứ theo kiểu thầy hỏi, trò trả lời mà thầy phải đốt lên trong trò ngọn lửa
đam mê bởi “Chỉ ham học thôi chưa đủ mà cần phải học say mê”. Đó chính là
mong muốn của biết bao đồng nghiệp dạy học, bởi khi học sinh biết say mê học tức
là thành công đã đến với q trình dạy học…
Nhà phê bình Hồi Thanh từng viết: " Văn chương gây cho ta những tình
cảm ta khơng có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm chật hẹp của
cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm, rộng rãi đến nghìn lần ". Đúng vậy,
từ xưa, văn chương đã là một điều kỳ diệu giúp người ta nhận thức khám phá thế
giới - thế giới tâm hồn, giúp chúng ta hướng tới những giá trị cao đẹp bằng những
rung động thẩm mĩ, giúp " thanh lọc tâm hồn mỗi chúng ta ".

Mục tiêu của môn Ngữ văn trong nhà trường THCS được xác định nhằm
giáo dục cho học sinh " Những tư tưởng tình cảm cao đẹp như lịng nhân ái, u
gia đình, quê hương, đất nước, sự căm ghét cái xấu, cái ác, rèn luyện tính tự lập,
biết tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ những giá trị chân, thiện, mĩ
trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và sử dụng
Tiếng Việt như một công cụ để tư duy về giao tiếp..." Chính vì vậy, người giáo viên
3


phải có trách nhiệm bồi dưỡng, nâng cao năng lực cảm thụ, phân tích văn học cho
học sinh để đáp ứng những khả năng, trình độ, phẩm chất của người lao động trong
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Qua thực tế dạy học văn ở trường THCS, tơi thấy năng lực cảm thụ, phân
tích văn học của học sinh nói chung và học sinh lớp 9 nói riêng còn nhiều hạn chế.
Hầu như giáo viên chỉ quan tâm cung cấp kiến thức chứ chưa mấy chú ý đến việc
hình thành năng lực văn học cho học sinh. Vì thế đến giờ kiểm tra nếu tách rời tài
liệu thì bài văn của các em chẳng có nội dung gì ngồi những ý khơ khan, gượng
ép. Khi tiếp xúc một tác phẩm văn học dạt dào cảm xúc nhưng ít học sinh biết rung
động, biết hồ mình vào cảm xúc ấy. Nhìn chung giáo viên chưa có nhiều phương
pháp, biện pháp cụ thể để rèn luyện nâng cao năng lực cảm thụ phân tích văn học
cho học sinh. Vậy làm thế nào để nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh
THCS nói chung và học sinh lớp 9 nói riêng đang là một yêu cầu cần thiết.
Từ những lí do trên, bản thân đã từng trực tiếp giảng dạy lớp 9 nên tôi chọn
đề tài “Rèn luyện năng lực cảm thụ, phân tích văn học cho học sinh lớp 9” để
nhằm góp một phần nhỏ vào việc nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh
lớp 9.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề này, mục đích của tơi nhằm đưa ra một số phương pháp,
biện pháp cụ thể cho giáo viên có thể áp dụng vào việc rèn luyện , nâng cao năng
lực cảm thụ cho học sinh lớp 9; và một phần nào đó gây hứng thú cho giờ giảng

văn của mình, giúp học sinh u thích mơn Ngữ văn nhiều hơn nữa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Cảm thụ, phân tích văn học là một vấn đề rất khó đối với học sinh cấp
THCS. Đây cũng là một hạn chế rất lớn đối với học sinh trong việc tiếp thu một tác
phẩm văn học cũng như trong giao tiếp. Chọn đối tượng là cảm thụ, phân tích văn
học tơi muốn phần nào giúp các em có cái nhìn cái nhìn sâu săc hơn về mảng kiến
thức này.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện bài viết này, tôi vận dụng một số phương pháp sau :
1. Nghiên cứu kĩ các bài cảm thụ về văn, thơ trong SGK Ngữ văn 6,7,8,9.
2. Đọc các bài viết về cảm thụ, phân tích văn, thơ ở các sách tham khảo.
3. Tham khảo một số bài viết của các nhà nghiên cứu, các nhà giáo…trên các tạp
chí, báo văn học..
5. Căn cứ trên tình hình, khả năng tiếp thu thực tế của học sinh và thực tế giảng dạy
của giáo viên trường nhà.
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
Trước hết giáo viên phải yêu nghề luôn có mong muốn học hỏi để nâng cao
chuyên môn nghiệp vụ, nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến nội dung bài
4


học để việc soạn bài chu đáo hơn. Giáo viên cần có kiến thức sâu rộng, đưa ra hệ
thống câu hỏi rõ ràng, lôgic.
Thường xuyên chuẩn bị đồ dùng dạy học và áp dụng một cách có hiệu quả
nhằm nâng cao chất lượng cho tiết dạy Ngữ văn.
Cần nắm chắc tiến trình lên lớp của việc dạy và học; sử dụng đa dạng, linh
hoạt các bước, các phương pháp dạy học trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt giáo
viên cần hiểu rõ mục đích yêu cầu, thao tác, tác dụng của từng phương pháp.
Dạy học cũng cần có tính nghệ thuật và luôn luôn sáng tạo.

“Học sinh là trung tâm, là chủ thể, là mục đích của q trình dạy học. Học
sinh phải chiếm lĩnh trí thức một cách chủ động vì thế để đạt được kết quả trong
học tập, học sinh cần thực hiện tốt các thao tác trí tuệ, sự chú ý, sự ghi nhớ, sự
thông hiểu, sự suy nghĩ, tưởng tượng và sáng tạo”. (Theo “Các thao tác trí tuệ”).
Học sinh phải có ý thức tự giác, hăng say trong học tập.
Thực tế giảng dạy đã chỉ ra rằng: gieo một câu hỏi vào tâm hồn con người là
gieo một chất kích thích, là đẩy người đó vào một tình huống. Chỉ có điều, tình
huống ấy “căng thẳng” hay “nhạt nhẽo”, có hợp cảnh hay không còn phụ thuộc vào
vai trò và khả năng đạo diễn của người giáo viên. Vậy muốn làm tốt vai trò đó thì
người giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu hỏi hay, hấp dẫn, kích thích sự
khám phá của học sinh. Do đó, việc rèn luyện kĩ năng đặt câu hỏi trong giờ giảng
văn đã trở thành định hướng nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn giảng dạy.
Tác dụng của việc nâng cao cảm thụ, phân tích văn học cụ thể là những tác
dụng sau:
- Làm cho tiết học sinh động, hấp dẫn hơn, tạo hứng thú cho học sinh trong
học tập.
- Góp phần khắc sâu kiến thức cho học sinh trong học tập.
- Giúp giáo viên dẫn dắt học sinh đến với nội dung tác phẩm dễ dàng hơn.
- Tạo cho học sinh cảm giác yêu thích văn thơ và cảm thụ được cái hay,cái
đẹp của cuộc sống qua nghệ thuật ngôn từ.
2.2. Thực trạng của vấn đề:
a. Thuận lợi:
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu, Chi bộ, Ban chấp hành Cơng đồn
nhà trường.
Đội ngũ giáo viên tổ Khoa học xã hội tương đối đông, đa số giáo viên có
nhiều năm kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, đồn kết, nhiệt tình giúp đỡ lẫn
nhau.
Qua học tập và q trình giảng dạy bản thân tơi đã có được vốn kiến thức và
kinh nghiệm giảng dạy đồng thời thường xuyên dự giờ thăm lớp những giáo viên
có kinh nghiệm hơn để học hỏi.

Phương pháp dạy học mới là phương pháp tích cực, tiến bộ giúp giáo viên có
tâm huyết đầu tư hơn vào tiết dạy của mình cũng như có thêm cơ hội phát huy khả
5


năng sáng tạo của bản thân. Học sinh sôi nổi, sáng tạo và có hứng thú học hơn so
với phương pháp dạy học theo lối thuyết trình cũ.
b. Khó khăn:
Chất lượng khảo sát đầu năm của các lớp thực tế còn yếu, nhiều em học sinh
viết chữ xấu, chưa biết diễn đạt, cảm nhận văn, thơ một cách có chiều sâu gây ảnh
hưởng cho giáo viên trong quá trình giảng dạy.
Phương pháp mới là phương pháp dạy học tích cực nhưng lưu lượng thời
gian dành cho mỗi bài lại quá hạn hẹp vì thế đơi lúc giáo viên phải dạy lướt qua và
học sinh phải tiếp nhận lượng kiến thức mà không có sự thấm nhuần. Đây là một
khó khăn đáng kể cho giáo viên giảng dạy.
c. Số liệu thống kê
Theo số liệu ban đầu của năm học 2015 - 2016 cụ thể như sau:
Lớp
Sĩ số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
9A
23
1
4
9
7

2
9B
25
1
4
11
6
3
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Năng lực cảm thụ, phân tích văn học cần hình thành cho học sinh.
Năng lực văn học là một khái niệm rộng bao hàm hai lĩnh vực lớn là năng
lực sáng tác và năng lực tiếp nhận văn học. Năng lực bao gồm hai mức độ: Thứ
nhất, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện
một hoạt động nào đó. Thứ hai, năng lực là phẩm chất tâm lí, sinh lí tạo con người
hoạt động có hiệu quả cao.
Trong năng lực văn học có nhiều phương diện như năng lực: viết văn, cảm
thụ, phân tích, năng lực chiếm lĩnh, tích luỹ tri thức văn học sử hay lí luận văn
học.... Ở đây tơi chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu năng lực cảm thụ, phân tích văn học
của học sinh THCS.
Vậy năng lực cảm thụ, phân tích văn học cho hoc sinh THCS là gì?
Đó là khả năng tiếp xúc, rung động trước cái hay, cái đẹp, cái hạn chế của tác
phẩm văn học, khả năng biết diễn đạt - hiểu đó là ngôn ngữ mạch lạc, sáng sủa,
chặt chẽ, giàu chất văn.
a. Năng lực cắt nghĩa, phân tích
Để hiểu một tác phẩm văn học chúng ta không chỉ đọc, tưởng tượng là một
khâu vô cùng quan trọng trên cơ sở đó phải biết phân tích, cắt nghĩa, lí giải, so
sánh, đối chiếu.
Năng lực cắt nghĩa phân tích là khả năng giải mã, lí giải ý nghĩa của tác
phẩm , hình tượng, chi tiết, yếu tố......một cách có cơ sở, thuyết phục dựa trên việc
bám sát văn bản và vận dụng thích hợp những hiểu biết ngồi tác phẩm để soi sáng

tác phẩm.
Ví dụ : Để cắt nghĩa được từ mặt trời trong hai câu thơ trích trong bài ''Khúc
hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ '' - Nguyễn Khoa Điềm- Ngữ văn 9- Tập 1, thì
6


HS phải trả lời được một số câu hỏi mà giáo viên hướng dẫn cho HS tìm hiểu khi
đọc thêm trong một tiết: Cách tư duy của bà mẹ Tà Ôi về hình ảnh ''Mặt trời'' có gì
đặc biệt? Người mẹ miền Tây Thừa Thiên hiện lên như thế nào qua hai câu thơ?
Hình ảnh ''Mặt trời của mẹ'' biểu tượng cho điều gì? Nói cách khác, học sinh phải
biết phân tích, so sánh rút ra một số ý chính như sau:
Cách tư duy của bà mẹ Tà Ôi rất cụ thể , trong suy nghĩ xủa mẹ, mặt trời ở
vũ trụ này không chỉ là một mà là hai: Mặt trời của bắp và mặt trời của mẹ. Những
cây bắp đang lớn trên lưng đồi rộng lớn kia là nhờ công sức của mẹ, nhờ có nguồn
sáng, hơi ấm vô tận của mặt trời tự nhiên. Còn em Cu Tai đứa con bé bỏng nhưng
là nguồn năng lượng vô cùng to lớn không thể thiếu được của đời mẹ.
Trên cái nền xanh của cây bắp ở mênh mông lưng núi ngút ngàn, lồng lộng
một người mẹ lưng địu con đang lao động hăng say. Trên cao là mặt trời toả sáng,
trên lưng mẹ là gương mặt đứa con cũng đang ngời sáng trong giấc ngủ say sưa.
Hình ảnh ''Mặt trời của mẹ'' mãi mãi đi vào thơ ca như biểu tượng nghệ thuật
về tình mẫu tử thiêng liêng, về người mẹ, người chiến sĩ trong những năm kháng
chiến chống Mĩ cứu nước.
b. Năng lực cảm xúc thẩm mĩ.
Đó là khả năng rung động, niềm xúc động mãnh liệt, sự cảm thông, đồng
cảm, sẻ chia là khả năng đồng cảm trước mọi nỗi niềm, đặc biệt là trước nỗi đau
của con người và cái đẹp của cuộc sống được gợi lên từ tác phẩm. Khi học sinh
chưa cảm thấy thương xót trước cái chết đầy oan khuất của Vũ Nương, chưa bất
bình trước thói ghen tng hờ đờ, sự tàn nhẫn của Trương Sinh - kẻ đã đẩy vợ mình
đến cái chết thì sự phân tích, bình giảng của giáo viên cũng chỉ là áp đặt. Cảm xúc
thẩm mĩ càng dời dào thì sự cảm thụ, phân tích càng hứng thú và sâu sắc. Vì vậy

nâng cao năng lực cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh lớp 9 để hiểu tốt hơn giá trị tác
phẩm cũng là nhiệm vụ của môn Ngữ văn.
Dạy học văn là góp phần nuôi dưỡng và phát triển nguồn cảm xúc dồi dào,
phong phú và nhạy bén để các em hiểu sâu sắc tác phẩm; chuẩn bị cho các em hành
trang vào đời: Sống một cuộc sống tốt đẹp, một cuộc sống giàu tình cảm nhân văn
và giàu ý nghĩa.
Trong thực tế giảng dạy, người giáo viên đôi khi chưa chú ý đúng mức đến
phương diện này. Học sinh làm văn chỉ cốt sao cho đủ ý, giáo viên chấm văn chỉ
cần đếm ý...lời văn học sinh thiếu cảm xúc, cằn cỗi, già nua, khô khan. đó cũng là
nỗi buồn của người giáo viên dạy văn
Vậy chúng ta cần phải làm gì để ni dưỡng, gìn giữ và phát triển năng lực
cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh lớp 9? Tôi thấy rằng, chúng ta cần phải hướng học
sinh biết đặt mình vào cuộc sống trong tác phẩm, thật sự nếm trải các cung bậc đời
sống tình cảm trong tác phẩm, bộc lộ những suy nghĩ của mình trước số phận các
nhân vật thơng qua những câu hỏi hoặc các dạng bài tập. Đó là cách tốt để hình
thành cho học sinh năng lực cảm xúc thẩm mĩ.
7


Khi dạy một số tác phẩm văn xuôi, kể cả văn học trung đại cũng như văn học
hiện đại giáo viên có thể đặt một số câu hỏi như:
?Cảm nghĩ của em về nhân vật bé Thu trong đoạn trích" Chiếc lược ngà" Nguyễn Quang Sáng?
?Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, nếu em là bé Thu, em xử sự như thế nào ?
?Suy nghĩ của em về cái chết của Vũ Nương?
?Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu việt gian theo tây lập tề được diễn
tả như thế nào qua đoạn trích" Làng” - Kim Lân?...
Chúng ta có thể tham khảo đoạn văn của em Nguyễn Thị Dung lớp 9B
trường THCS Quảng Lĩnh nêu cảm xúc về mong mỏi hết sức bình dị của anh Sáu người cha - người chiến sĩ trước lúc hi sinh?
"...Chiếc lược ngà đã hồn thành, nhưng anh Sáu khơng bao giờ có cơ hội
được đem về trao tay cho con gái nữa. Trong một trận càn của quân Mĩ - Nguỵ,"

ông bị viên đạn của máy bay Mĩ bắn vào ngực”. Trước khi trút hơi thở cuối cùng,
ơng dùng tồn bộ sức lực móc cây lược trong túi, đưa cho người đờng hương đờng đội. Nhìn bạn" một hời lâu" và chỉ khi nghe được lời hứa " tôi sẽ về trao tận
tay cho cháu thì ơng mới nhắm mắt đi xuôi". Tôi không thể cầm được nước mắt khi
nghe tiếng thét của đứa con gọi cha buổi chia tay ngày ấy. Giờ cũng không cầm
lòng khi chứng kiến cái cử chỉ cầm chiếc lược với ánh mắt cầu xin của người cha
vào giây phút lâm chung. Một sự hi sinh, một sự mất mát quá lớn trong chiến tranh
mà khơng chỉ mình gia đình anh Sáu mà còn bao gia đình nơng dân Nam Bộ trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ đang đến hồi vô cùng khốc liệt. Điều đó trỗi dậy trong
tôi lòng căm thù cao độ trước tội ác của quân xâm lược. Và có lẽ đây cũng là một
trong những trang văn hiếm hoi mô tả đến tận cùng sâu thẳm trái tim yêu thương
của người cha dành cho con".
Đoạn văn thể hiện phần nào cảm xúc chân thành của người viết về tình cha
con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Ở đây cảm xúc chính là nội
dung của hoạt động cảm thụ, phân tích tác phẩm văn học.
c. Năng lực tri giác nghệ thuật.
Tác phẩm nghệ thuật được thêu dệt bằng những ngơn từ nghệ thuật. Vì vậy
con đường đi vào khám phá thế giới tác phẩm không thể không bắt đầu bằng khâu
tri giác nghệ thuật của tác phẩm. Dạy văn ở lớp 9 lại càng cần hình thành khả năng
tri giác ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm cho học sinh. Trong mỗi giờ học văn giáo
viên cần phải dành thời gian cần thiết để tổ chức cho học sinh kĩ năng tri giác ngôn
ngữ nghệ thuật. Công việc này vừa phù hợp với khả năng của học sinh vừa là sự
chuẩn bị cho hoạt động cảm thụ văn học cho học sinh lớp trên với yêu cầu cao hơn.
Tri giác nghệ thuật là khả năng đọc chính xác ngơn ngữ văn bản tác phẩm;
khả năng nhận biết các hình ảnh, kí hiệu, biểu tượng, dấu hiệu nghệ thuật nổi bật
trên các ngơn từ trong q trình đọc, khả năng tập hợp, nối kết các kí hiệu, biểu

8


tượng đó vào những phạm trù nội dung, ý nghĩa nhất định để bước đầu nhận biết

được ý tứ, giọng điệu từng phần, đoạn, chương, tác phẩm.
Chẳng hạn, khi cảm thụ đoạn thơ đầu "Cảnh ngày xuân" trích: " Truyện
Kiều" - Nguyễn Du (Ngữ văn 9 - tập 1) Người có năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ
thuật trước hết phải biết đọc chính xác, rõ ràng, trơi chảy từng chữ, từng câu trong
văn bản, ngắt nghỉ đúng lôgic ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ điệu văn bản. Thứ hai
trong khi đọc phải nhận biết và lưu tâm đến các hình ảnh, biểu tượng kí hiệu nghệ
thuật nổi bật như : Thời gian "chín chục", "ngồi sáu mươi"; Khơng gian mùa
xn (con én đưa thoi); Màu sắc - vàng tươi (thiều quang), xanh (cỏ non, chân trời),
trắng (hoa lê); Các lớp hình ảnh: Chim én đưa thoi, cỏ non xanh bát ngát tận chân
trời, cành lê điểm một vài bông hoa trắng; Các biện pháp tu từ như: ẩn dụ, nhân hố
(con én đưa thoi), số từ (chín chục, ngồi sáu mươi); đảo trật tự từ trong câu (Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa). Thứ ba, trong khi đọc phải nhanh nhạy tập hợp,
nối kết các kí hiệu nghệ thuật trên vào các phạm trù nội dung ý nghĩa cao hơn, khái
quát hơn. Chẳng hạn:
- Chim én đưa thoi, thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi -> vừa gợi
khơng gian cao rộng, vừa gợi sợ trôi chảy của thời gian.
- Màu vàng tươi của ánh sáng ngày xuân, xanh của cỏ non, trắng của hoa lê
điểm xuyết trên cành -> bức hoạ mùa xuân đẹp, có màu sắc hài hồ, gợi vẻ đẹp mới
mẻ, tinh khơi thanh khiết, tạo cho cảnh vật trở nên sống động có hồn.
- Các biện pháp tu từ: Nhân hoá, ẩn dụ và các số từ khơng chỉ diễn tả thơì
gian mùa xn trơi qua nhanh mà còn ngầm thể hiện sự nuối tiếc.
d. Năng lực tư tưởng.
Ngôn ngữ tác phẩm văn học là một hệ thống thông tin thẩm mĩ. Đằng sau các
con chữ, kí hiệu là thế giới nghệ thuật sống động. Không có tưởng tượng của nhà
văn, không có thế giới nghệ thuật này. Vì vậy khi tiếp nhận văn học bạn đọc phải
có trí tưởng tượng. Trí tưởng tượng phong phú là dấu hiệu của người có năng lực
cảm thụ văn học. Hình thành, phát triển năng lực tưởng tượng cho học sinh lớp 9
cũng là nhiệm vụ của môn Ngữ văn. Đọc câu thơ:
" Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa"

(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận - Ngữ văn 9,T1)
Học sinh có năng lực tưởng tựợng sẽ cảm thấy mình như được đứng ở trên bãi
biển hay điểm nhìn của người đi biển để được chứng kiến cảnh mặt trời đỏ rực như
một hòn lửa khổng lồ rực sáng nhưng không còn gay gắt đang lặn dần xưống biển.
Cả vũ trụ là một ngôi nhà lớn, màn đêm là tấm cửa và những lượn sóng là then cửa.
Ngơi nhà vũ trụ chìm vào đêm yên tĩnh và lặng lẽ. Để sau đó là cảnh ra khơi đánh
cá của những ngư dân.
e. Năng lực khái quát.

9


Trong cảm thụ phân tích văn học thì khái qt là khả năng bao quát, nâng
cao những hiểu biết cụ thể về đối tượng cảm thụ, phân tích dưới dạng nhận định,
nhận xét, tiểu kết hay kết luận. Khi khái quát phải đặt ra những câu hỏi như: tóm
lại, ý chính của tác phẩm, chương, phần này là gì? Tư tưởng cơ bản, chủ đề chính
của tác phẩm là gì? Những biện pháp nghệ thuật đó có tác dụng gì trong việc làm
nổi bật chủ đề tác phẩm?...
Ví dụ: Chúng ta có thể so sánh hai loại văn sau cùng viết về sáu câu thơ đầu
trong bài "Mùa xuân nho nhỏ" - Thanh Hải - Ngữ văn 9 -Tập 2.
"Mọc giữa dòng sơng xanh
Một bơng hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng "
- Khổ thơ đầu miêu tả dung nhan của mùa xuân. Mùa xuân đến, báo hiệu
bằng những cảnh sắc thiên nhiên quen thuộc: Dòng sông xanh, bơng hoa tím biếc,
tiếng hót của chim chiền chiện. Mùa xuân đã hiện diện trên toàn cảnh, trên tạo vật:
đất trời, hoa lá, chim muông. Tô điểm sắc màu cho không gian ấy, có màu xanh cỏ

cây, xanh của dòng sơng, màu tím của hoa và cả màu của mây trời. Chỉ vài nét
phác hoạ cũng đủ gợi lên hình ảnh mùa xuân thiên nhiên với không gian cao rộng,
sắc màu tươi sáng, âm thanh rộn ràng. Tất cả như hồi sinh sau một giấc ngủ dài và
đang được tiếp thêm sức sống. Sức xuân xứ Huế với vẻ đẹp mộng mơ mà giản dị,
đằm thắm biết bao.
- Đang nằm trên giường bệnh, nhưng chỉ vài ba nét chấm phá: hình ảnh dòng
sơng xanh, một bơng hoa tím biếc hay một cánh chim chiền chiện chao liệng giữa
bầu trời với tiếng hót vang lừng, nhà thơ đã tạo ra bức tranh sinh động, tươi tắn đầy
chất thơ. Rõ ràng phải yêu khung trời Huế, sắc xuân Huế lắm, Thanh Hải mới hình
tượng hố, cụ thể hố được như vậy. Chất thơ ấy phải chăng lên men từ chính tình
u mùa xuân, tình yêu quê hương tha thiết? Vì vậy trước khi qua đời, khát vọng
được cống hiến của nhà thơ vào mùa xuân chung của thiên nhiên đất nước càng trỗi
dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Cuộc đời ngắn ngủi không cho phép nhà thơ thực
hiện ước mơ của mình nhưng cả khi khơng còn nữa thì ơng đã là một "mùa xuân
nho nhỏ" khiêm tốn và lặng lẽ dâng cho cuộc đời.
Trong hai đoạn văn trên, đoạn sau là sự khái quát nâng cao của đoạn trước.
Nếu không có đoạn trước thì sự cảm thụ, phân tích khơng sâu sắc, bền vững. Vì
vậy khả năng khái quát khi phân tích, bình giảng là một tiêu chí quan trọng để đánh
giá năng lực cảm thụ, phân tích văn học của học sinh kĩ năng tóm tắt văn bản,
chương, phần, đoạn...đờng thời tích hợp chặt chẽ với Tập làm văn về tóm tắt văn
bản để từng bước hình thành cho học sinh năng lực khái quát trong cảm thụ, phân
tích văn học.
10


2.3.2 Con đường nâng cao năng lực cảm thụ, phân tích văn học cho học sinh.
- Nâng cao năng lực phân tích, cảm thụ văn học cho học sinh lớp 9 thông qua
việc tổ chức tốt hoạt động đọc - hiểu văn bản.
a. Hướng dẫn đọc - hiểu ở nhà
Khâu này chủ yếu rèn luyện cho HS năng lực tri giác nhôn ngữ, tưởng tượng

tái hiện, khả năng cảm xúc, rung động và bao gồm các công việc cụ thể sau:
- Hướng dẫn HS đọc kĩ văn bản
- Giải thích từ khó
- Đọc những tài liệu liên quan đến tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
- Xác định sơ bộ bố cục
- Cảm nhận chung nhất về chủ đề, mạch cảm xúc của văn bản
- Thuộc lòng và tóm tắt được tác phẩm và trả lời phần đọc hiểu văn bản của
SGK
b. Tổ chức hoạt động học - hiểu ở lớp thông qua các hoạt động cảm thụ và phân
tích là chủ yếu:
- Đọc ở 3 cấp độ:
+ Đọc thành tiếng
+ Đọc thầm
+ Đọc nghệ thuật
- Nhận biết; luyện kĩ năng quan sát, phát hiện và sưu tầm tư liệu
+ Tìm hiểu từ ngữ
+ Xác định phương thức biểu đạt
+ Xác định thể loại
+ Xác định bố cục tác phẩm
+ Tóm tắt truyện, ý chính, nhận ra mạch cảm xúc
- Tưởng tượng, suy ngẫm: Luyện kĩ năng cụ thể hoá, khái quát , tổng hợp
+ Tưởng tượng bức tranh đời sống trong văn bản
+ Phát hiện những ý sâu xa đằng sau ngôn ngữ nghệ thuật
+ Khái quát bản chất của hình tượng
+ Tổng hợp những giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm
c. Hoạt động ôn tập , kiểm tra.
+ Ôn luyện những kiến thức văn học đã được học
+ Luyện kĩ năng cảm thụ , phân tích văn học
Thực tế giảng dạy cho thấy: Cảm thụ phân tích văn học là một hoạt động của
tư duy, chúng ta không thể áp dụng trùng khớp các thao tác cho việc đọc hiểu mọi

văn bản. Trong quá trình cảm thụ, phân tích tác phẩm văn học, các hoạt động nêu
trên không phải bao giờ cũng tách bạch mà luôn đan xen, hỗ trợ cho nhau. Kinh
nghiệm từ giờ dạy trên lớp cho tôi thấy: Nếu hoạt động "Hướng dẫn đọc - hiểu ở
nhà tốt thì hoạt động đọc - hiểu ở trên lớp" cũng diễn ra trôi chảy. Cả thầy và trò
đều có tư thế thoải mái để cảm thụ tác phẩm một cách thuận lợi và hiệu quả.
11


- Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức Tiếng Việt và Tập làm văn để cảm
thụ phân tích tác phẩm văn học
a. Hướng dẫn HS có ý thức vận dụng Tiếng Việt và Tập làm văn làm công cụ để
đọc - hiểu văn bản
*Khi phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều'' - Truyện Kiều - Nguyễn Du
- Ngữ văn 9 tập 1, giáo viên cần cho HS phát hiện các phép tu từ, ẩn dụ, nhân hoá,
so sánh, những từ ngữ mang tính chất ước lệ trong khổ thơ đầu:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Hiệu quả biểu đạt: Tác giả nhằm nhấn mạnh tính chất đoan trang, trang trọng
của vẻ đẹp Thuý Vân. Khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu tựa như trăng rằm; lông mày
cong đậm; miệng cười tươi như hoa, tiếng nói trong trẻo như ngọc rung, tóc đen
mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết. Nét nào của Thuý Vân cũng hoàn hảo
hơn vẻ đẹp vốn có trong thiên nhiên, trời đất. Nhưng điều quan trọng là vẻ đẹp ấy
ln tạo được sự hồ hợp, êm ấm với xung quanh, báo trước cuộc đời bằng phẳng,
suôn sẻ. Đó cũng là dự cảm về số phận nhân vật và tấm lòng ưu ái của thiên tài
Nguyễn Du.
Ngoài ra cần gợi cho học sinh vận dụng kiến thức Tập làm văn: Đoạn thơ
trên tác giả sử dụng phương thức biểu đạt nào? Học sinh dễ dàng nhận ra đó là
phương thức miêu tả. Qua phương thức miêu tả, Nguyễn Du cho người đọc cảm

nhận được một bước chân dung tuyệt thế giai nhân - Thuý Vân với vẻ đẹp dịu
dàng, tươi trẻ, đoan trang và phúc hậu.
*. Hoặc khi phân tích khổ thơ cuối trong bài: “Ánh trăng” – Nguyễn Duy –
Ngữ văn 9-tập 1:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vơ tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình ”.
- Về kiến thức Tiếng việt, giáo viên cần cho học sinh phát hiện biện pháp tu
từ: nhân hoá hay việc sử dụng từ láy. Còn kiến thức Tập làm văn: đoạn thơ cuối tác
giả đã sử dụng yếu tố nghị luận.
- Hiệu quả biểu đạt: ánh trăng trước sau vẫn vậy, dân dã, mộc mạc, bình dị
và thuỷ chung. Trăng vẫn lặng lẽ tròn vô tư, trong sáng mặc cho thời gian trôi, mặc
cho không gian biến đổi, mặc cho con người đã quay lưng quên lãng. Trăng là chất
xúc tác khơi gợi niền xúc động, tạo ra sự xám hối, đánh thức lương tâm con người.
Giờ đây con người tìm được đường trở về với chính mình trước đây, tìm được
những tháng ngày tình nghĩa đã vơ tình qn lãng. Với biểu tượng "Ánh trăng",
Ngũn Duy muốn khám phá ra một vẻ đẹp không bao giờ kết thúc của con người.
12


Hành trình đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người không bao giờ
ngơi nghỉ và việc hồn thiện mình của chính mỗi con người khơng phải là một sớm
một chiều.
b. Chọn những ngữ liệu trong các văn bản văn học để minh hoạ cho những kiến
thức Tiếng việt và Tập làm văn. Phương pháp này chính là định hướng phân
tích của chương trình:
*: Trong bài 24, Ngữ văn 9 - Tập 2, tiết 123: "Nghĩa tường minh và hàm ý"
SGK đã đưa ra bài tập nhận biết hàm ý từ một đoạn văn sau:
" Trời ơi, chỉ cịn có năm phút !

Chính anh thanh niên giật mình nói to, giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ. Anh
chạy ra nhà phía sau rồi trở vào liền, tay cầm một cái làn. Nhà hoạ sĩ tặc lưỡi
đứng dậy. Cô gái cũng đứng lên, đặt lại chiếc ghế, thong thả đi đến chỗ bác già.
- Ơ! Cơ cịn qn chiếc mùi soa đây này!
Anh thanh niên vừa vào, kêu lên. Để người con gái khỏi trở lại bàn, anh lấy
chiếc khăn tay còn vo tròn cặp giữa cuốn sách tới trả cho cô gái. Cô kĩ sư mặt đỏ
ửng, nhận lại chiếc khăn và quay vội đi"
(Theo Nguyễn Thành Long - Lặng lẽ Sa Pa)
Qua câu "Trời ơi, chỉ còn có năm phút!", em hiểu anh thanh niên muốn nói
điều gì? Vì sao anh khơng nói thẳng điều đó với hoạ sĩ và cô gái?
Học sinh dễ dàng nhận thấy anh thanh niên muốn nói thêm rằng "Anh rất
tiếc", nhưng anh khơng muốn nói thẳng điều đó có thể vì ngại ngùng, vì muốn che
dấu tình cảm của mình.
*: Khi dạy bài "Miêu tả nội tâm trong văn tự sự" Tiết 40 - Ngữ văn 9 - Tập
1, thì giáo viên dùng các ngữ liệu trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" để
minh hoạ:
Những câu thơ miêu tả nội tâm:
"Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai"
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

13


Giáo viên hỏi: Dấu hiệu nào cho thấy đây là đoạn thơ miêu tả nội tâm? Miêu tả nội
tâm có tác dụng như thế nào trong việc khắc hoạ nhân vật trong văn bản tự sự?
- Đoạn thơ miêu tả những suy nghĩ của nàng Kiều: Nghĩ thầm về thân phận

cô đơn, bơ vơ nơi đất khách, nhớ thương cha mẹ chốn quê nhà không ai chăm sóc
phụng dưỡng lúc tuổi già...
- Từ đó học sinh rút ra bài học: Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự là tái
hiện những ý nghĩ, cảm xúc và diễn biến tâm trạng nhân vật và là biện pháp quan
trọng để xây dựng và làm cho nhân vật sinh động.
- Như vậy, trong khi hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức Tiếng Việt, Tập
làm văn để cảm thụ, phân tích tác phẩm văn học, chúng ta đờng thời hình thành, bời
dưỡng cho học sinh các năng lực cảm thụ văn học từ tưởng tượng đến phân tích, cắt
nghĩa, khái quát, cảm xúc thẩm mĩ.
Văn chương dạy bảo chúng ta rất nhiều điều: Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi
văn chương sống mãi với thời gian và những người dạy văn học. Văn chương sẽ
giúp chúng ta phát triển toàn diện về nhân cách lẫn tâm hồn. Nhà thơ Tố Hữu đã
từng nói: “Dạy văn học, học văn học là một niềm vui sướng lớn”. Qua mỗi giờ văn
học, thầy cô giáo sẽ làm rung động các em, làm các em yêu đời, yêu lẽ sống và lớn
thêm một chút.
2.3.3 Giải pháp:
Để thực hiện tốt đề tài nghiên cứu này, tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:
* Đối với giáo viên
- Giáo viên cần chuẩn bị bài chu đáo, đọc thêm nhiều tài liệu nhằm làm phong phú
kiến thức và phương pháp cho bài dạy của mình. Đặc biệt, trong tiết dạy phải áp
dụng phương pháp giảng bình, nhằm khơi dậy năng lực cảm thụ văn chương cho
HS
- Trong tiết dạy cần phát huy khả năng cảm thụ của HS, cho HS tự nêu lên những
cảm nhận của bản thân mình
- Đi sâu vào phân tích những chi tiết nghệ thuật để làm nổi bật nội dung văn bản
- GV phải khơi gợi hứng thú học tập của HS trong giờ dạy bằng nhiều cách; lời dẫn
vào bài, sưu tầm, sử dụng các kênh hình ảnh minh hoạ cho bài dạy.
- Liên hệ, mở rộng với các tác giả, tác phẩm khác trong hoặc ngồi chương trình.
* Đối với học sinh
- Đọc và chuẩn bị bài trước khi lên lớp


14


- Nắm được nội dung của văn bản để từ đó là cơ sở phát huy năng lực cảm thụ văn
chương của bản thân
- Đọc thêm các tài liệu có liên quan đến bài học.
Giáo án thực nghiệm giờ dạy nâng cao năng lực cảm thụ, phân tích văn
học cho học sinh lớp 9.
Tiết 29 - Bài 6 - Văn bản
CẢNH NGÀY XUÂN
( Trích: Truyện Kiều)
Nguyễn Du.
A/ Mục tiêu cần đạt.
1. Kiến thức:
- Thấy được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của thi hào Nguyễn Du.
- Sự đồng cảm của Nguyễn Du với những tâm hồn trẻ tuổi.
2. Kĩ năng:
- Bổ sung kiến thức đọc - hiểu văn bản truyện thơ trung đại, phát hiện, phân tích
được các chi tiết miêu tả cảnh thiên nhiên trong đoạn trích.
- Cảm nhận được tâm hồn trẻ trung của nhân vật qua cái nhìn cảnh vật trong ngày
xuân.
- Vận dụng bài học để viết văn miêu tả, biểu cảm.
3. Thái độ:
- Học sinh có ý thức quan sát và tưởng tượng khi miêu tả cảnh thiên nhiên, tả
cảnh ngụ tình.
4. Các kĩ năng sống:
- Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, về nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên của thi hào
Nguyễn Du.
- Tự nhận thức: xác định được nét văn hóa truyền thống giàu tính nhân văn trong

tiết thanh minh.
- Suy nghĩ sáng tạo: phân tích , bình luận về sự đờng cảm của Nguyễn Du với
những tâm hồn trẻ tuổi.
B/ Chuẩn bị.
GV: Sgk, giáo án, máy chiếu.
HS. Đọc, tìm hiểu đoạn trích.
C /Tiến trình bài dạy..
*Ổn định lớp và kiểm tra bài cũ: (5p)
Câu 1: Nhận định nào nói đầy đủ nhất về nghệ thuật tả người của Nguyễn Du
trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều?
a/ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ và biện pháp lí tưởng hóa nhân vật.
b/ Sử dụng các hình thức ước lệ, tượng trưng.
c/ Sử dụng điển cố và những biện pháp đòn bẩy.
d/ Cả a, b, c đều đúng.
15


Câu 2: Phân tích vẻ đẹp và tính cách Thúy Kiều.
*Nội dung bài mới.
-Giới thiệu bài mới: Thiên nhiên đã trở thành đề tài muôn thuở trong thơ ca xưa
và nay. Mỗi người nghệ sĩ lại tìm cho mình cách tiếp cận và khám phá ở thiên
nhiên những vẻ đẹp khác nhau. Có thể nói, thiên nhiên trong thơ ca ln mới lạ
bởi chính sự khám phá sáng tạo của con mắt nghệ sĩ. Nguyễn Du - người được
mệnh danh là đại thi hào dân tộc cũng đã để lại cho đời nhiều vần thơ mẫu mực
về tả cảnh thiên nhiên, trong đó đoạn tả cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều là
một ví dụ.
-Dạy học bài mới.
Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt


I. Tìm hiểu chung
GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu vị trí đoạn 1. Đọc
trích, rèn cách đọc và tìm hiểu từ khó, bố
cục.
GV: hướng dẫn đọc: Đọc chậm rãi, khoan
thai, tình cảm trong sáng. GV đọc mẫu đoạn
đầu. Gọi hai em đọc tiếp, nhận xét cách đọc.
- Sau đó cho HS tìm hiểu thêm một số từ
ngữ khó ngồi chú thích SGK như:
- HS dựa vào chú thích * SGK và sự chuẩn 2. Vị trí đoạn trích:
bị bài ở nhà cho biết.
- Đoạn trích nằm ở phần đầu tác phẩm, gờm
? Đoạn trích nằm ở phần nào trong tác 18 câu, từ câu 39 đến câu 56 sau đoạn trích
phẩm?
“Chị em Thuý Kiều”
? Đoạn trích chia làm mấy phần? ý chính 3. Bố cục:
mỗi phần là gì?
- 3 phần
? Em có nhận xét gì về bố cục?
+ Bốn câu đầu: Khung cảnh mùa xuân
HS trả lời, lớp nhận xét, GV bổ sung.
+ Tám câu tiếp theo: Cảnh lễ hội trong tiết
GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung thanh minh.
và nghệ thuật đoạn trích.
+ Sáu câu còn lại: Cảnh du xuân trở về
- Đoạn trích từ miêu tả cảnh thiên nhiên đến
tả cảnh sinh hoạt theo một trình tự thời gian
và khơng gian.
II. Tìm hiểu chi tiết

- HS đọc bốn câu thơ đầu
1. Khung cảnh ngày xuân
? Trong hai câu thơ đầu, tác giả gợi tả cảnh - Hình ảnh:
mùa xuân bằng những hình ảnh nào?
+ Con én đưa thoi
+ Thiều quang (ánh sáng đẹp)
? Em hiểu gì về hình ảnh “con én đưa thoi”? - Hình ảnh “Con én đưa thoi”: Mùa xuân
16


? Ở câu thơ thứ hai, cách tính thời gian của
tác giả có gì đáng chú ý?
? Trong hai câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng
các biện pháp nghệ thuật gì?
? Cách tính thời gian và hình ảnh con én
đưa thoi cho ta liên tưởng điều gì đến thời
gian và cảm xúc?
GV: Mặc dù đã qua tháng ba nhưng sắc
xuân vẫn còn đậm đà tươi trẻ.
? Vẻ đẹp của mùa xuân tháng ba được đặc
tả qua những chi tiết điển hình nào?
- Cảnh vật?
- Màu sắc?
? Em nhận xét gì về vẻ đẹp mùa xuân được
gợi lên từ bốn câu thơ trên?
HS trả lời, lớp nhận xét, GV bổ sung kết
hợp bình, học sinh chọn ghi những ý chính
vào vở.
GV bình: Bức tranh mùa xn thật đẹp, có
phơng có nền, trên toàn cảnh mùa xuân ấy

điểm xuyết một vài bông hoa trắng khiến
màu xanh của cỏ, màu trắng của hoa lê
càng thêm nổi bật, cảnh trở nên có hồn.
GV: Trong bức tranh thiên nhiên đầy chất
thơ ấy xuất hiện của một khung cảnh lễ hội.
HS đọc 8 câu tiếp
? Trong ngày tết thanh minh có hai hoạt
động cùng diễn ra đó là những hoạt động
gì?
? Cảnh lễ hội được gợi lên qua những dòng
thơ nào?

chim én thường bay về chao liệng trên bầu
trời như chiếc thoi chạy trên khung cửi.
- Cách tính thời gian theo truyền thống: Chín
mươi ngày xuân mà nay đã ngoài sáu mươi
ngày, đã qua tháng giêng, tháng hai và bước
sang tháng ba.
- Sử dụng các phép tu từ: ẩn dụ, nhân hố;
các số từ: chín chục, sáu mươi; phụ từ: đã
- Qua đây gợi cho ta hình dung thời gian trơi
đi rất nhanh và cảm giác nuối tiếc về một
mùa xuân được tác giả thoáng qua khi miêu
tả hình ảnh thiều quang (ánh sáng đẹp) cũng
trở đi trở lại hơn sáu mươi ngày. Số từ “chín
chục” “sáu mươi” và phụ từ “đã” đều nói
lên điều ấy.
- Cảnh vật: Cỏ non, cành lê, hoa lê.
- Màu xanh (cỏ non, chân trời); màu trắng
(hoa lê).

* Bức tranh xn với vẻ đẹp tinh khơi,
khống đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng thanh
khiết, tràn đầy nhựa sống.

2. Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
- Lễ tảo mộ: Đi viếng mộ, quét tước, sửa
sang phần mộ cho người thân.
- Hội đạp thanh: Đi chơi xuân ở chốn đồng
quê.
- Cảnh lễ hội gợi ra qua các dòng thơ:
“Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Gần xa nô nức yến anh
17


Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”
? Ở đây, nghệ thuật miêu tả có gì đặc biệt?
- Tác giả sử dụng nhiều từ ghép, từ láy là từ
loại danh từ, động từ, tính từ; Các phép tu
từ: ẩn dụ, so sánh.
? Tìm các từ ghép, từ láy là danh từ, động - Các từ ghép là DT: Yến anh, chị em, giai
từ, tính từ, các phép tu từ ẩn dụ nhân hoá? nhân.....
Và cho biết tác dụng của chúng?
- Các từ ghép là ĐT: Sắm sửa, dập dìu...
- Từ ghép là TT: Gần xa, nô nức ...
- Phép so sánh: “Ngựa xe như nước áo quần
như nêm”.
- Cách nói ẩn dụ: “ Gần xa nô nức yến anh”.
HS trả lời, nhận xét, GV bổ sung, kết hợp * Gợi khơng khí đơng vui, rộn ràng, náo

bình.
nhiệt của ngày hội trong tiết thanh minh.
GV bình: Cảnh lễ hội diễn ra thật đông vui
náo nhiệt. Hầu như khắp mọi miền đất
nước có biết bao trai tài gái sắc cùng ngựa
xe tấp nập đi trẩy hội với những bộ quần áo
rực rỡ sắc màu. Trong đám tài tử giai nhân
ấy có 3 chị em Kiều (Chị em sắm sửa bộ
hành chơi xuân) – ẩn chứa bao nỗi niềm
chờ mong trông đợi để được du xuân hôm
nay.
? Trong lễ hội đông vui náo nhiệt ấy người - Người ta rải vàng mã, đốt hố vàng rải
ta làm gì?
xuống cho người đã khuất theo tục lệ.
? Ở đây, tác giả muốn khắc hoạ điều gì? - Nét đẹp một truyền thống văn hố lễ hội
Tình cảm của Nguyễn Du thể hiện như thế xưa, lâu đời của người phương Đông –
nào?
người Trung Hoa – người Việt Nam chúng
ta.
- Biểu hiện sự yêu quý, trân trọng vẻ đẹp
GV: ngày dần tàn, mặt trời chênh chếch về truyền thống văn hoá của tác giả.
tây, cuộc vui rồi cũng đến hồi kết thúc. Chị
em Kiều du xuân trở về.
? Cảnh và người sau lễ hội được miêu tả 3. Cảnh du xuân trở về.
như thế nào?
- Thời gian: Chiều tà
- Không gian, sự vật: Chị em thơ thẩn, khe
nước nhỏ, dòng nước uốn quanh, cây cầu
? Em nhận xét gì về cảnh và người ở đây?
nho nhỏ ...

? Cảnh tượng này tương phản như thế nào - Cảnh và người ít, thưa vắng, cảnh vật trở
với cảnh sáng xuân được miêu tả trước đó? nên bé nhỏ, không gian hẹp.
HS tái hiện để so sánh, nhận xét, GV tổng
18


hợp nâng cao.
? Sự xuất hiện của các từ láy gợi hình (tà tà,
thẩn thơ, thanh thanh, thơ thẩn...) trong đoạn
thơ có sức gợi tả điều gì?
Vậy đó là tâm trạng như thế nào?

- Cảnh không còn bát ngát trong sáng, người
không còn đông vui náo nhiệt. Cảnh đã
nhuốm màu tâm trạng.
- Tâm trạng của chị em Kiều. Đó là tâm
trạng tiếc nuối về một ngày vui trôi đi nhanh
quá đờng thời gợi linh cảm về điều gì đó sắp
xảy ra không tốt lành với một người nhạy
cảm như Thuý Kiều.
? Tâm trạng đó hé mở vẻ đẹp nào trong tâm - Vẻ đẹp trong tâm hồn chị em Kiều: Tha
hồn chị em Thuý Kiều?
thiết vơi niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và
sâu lắng.
? Đoạn cuối văn bản được viết bằng bút - Đờng ý, vì cảnh vật bé nhỏ, khơng gian
pháp cổ điển tả cảnh ngụ tình, em có đồng ý chật hẹp gợi tâm trạng buồn, nuối tiếc của ba
khơng? vì sao?
chị em.
- HS thảo luận, trình bày, nhận xét, GV bổ
sung, bình, khái quát, tổng hợp.

GV bình: Có thể nói “Cảnh ngày xuân” là
bức tranh đẹp nhất “Truyện Kiều”. Bức
hoạ thiên tài vừa tương phản vừa hài hồ:
sáng xn tinh khơi náo nức và chiều tà
bảng lảng hồng hơn gợi những liên tưởng
xa xơi về số phận, cuộc đời nhân vật chính
– Thuý Kiều. Cảnh sắc ấy gắn với tháng
ngày thanh xuân trong sáng êm đềm của
nàng mà cuộc du xuân là sự kiện mở màn
cho cuộc đời thiếu nữ phong lưu và xuân
sắc. Chính nơi này Kiều đã gặp định mệnh
cuộc đời và tình yêu buổi ban đầu đầy say
mê để sau đó khơng bao giờ gặp lại phút
thanh thiên dạo gót vơ tư thời thiếu nữ.
III. Tổng kết
? Từ bức tranh “Cảnh ngày xuân”, em có 1. Nội dung
cảm nhận được những vẻ đẹp nào của cuộc - Thiên nhiên và lễ hội mùa xuân vô cùng
sống đang diễn ra?
tươi đẹp, trong sáng, con người thân thiện,
? Thái độ của thi hào Nguyễn Du thể hiện hạnh phúc.
như thế nào qua đoạn trích này?
- Tác giả: Yêu thiên nhiên, yêu mùa xuân, và
? Đoạn trích được tác giả sử dụng thành rất hiểu lòng người.
công những biện pháp nghệ thuật gì?
2. Nghệ thuật
- Bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình
- Sử dụng phép tu từ: ẩn dụ, nhân hoá, so
19



sánh.
- Sử dụng nhiều từ láy.
- Tạo dựng không gian và thời gian có sự
biến đổi.
- Cảnh được miêu tả qua tâm trạng của con
người.
- HS vận dụng kiến thức Tập làm văn: Yếu IV. Luyện tập
tố miêu tả trong văn tự sự để làm bài.
Hãy tìm yếu tố tự sự, yếu tố miêu tả trong
- GV chia bốn nhóm làm việc trong 5 phút. đoạn trích “Cảnh ngày xuân”?
+ Nhóm 1: Tìm đoạn đầu (bốn câu)
+ Nhóm 2: Tìm đoạn hai (bốn câu đầu đoạn
hai)
+ Nhóm 3: Tìm đoạn ba (bốn câu sau đoạn
hai)
+ Nhóm 4: Tìm đoạn bốn (sáu câu).
- Các nhóm báo cáo kết quả - nhóm bạn
nhận xét. GV đánh giá cho điểm các nhóm
V. Hướng dẫn học bài, chuẩn bị bài ở nhà.
1. Đọc thuộc lòng đoạn trích “Cảnh ngày xuân”
2. Tóm tắt đoạn trích trong phạm vi 5 đến 7 dòng ?
3. Nắm nội dung ý nghĩa của bài.
* Chuẩn bị bài mới: Tiết 29 “Thuật ngữ”.
D. Đánh giá, điều chỉnh
Học sinh chú ý học, biết cách cảm thụ văn chương. Hăng say phát biểu bài
Để kiểm tra đánh giá năng lực cảm thụ và phân tích văn bản “Cảnh ngày
xuân của học sinh sau khi đã tiến hành các hoạt động đọc – hiểu ở trên, tôi cho học
sinh lớp 9A và 9B làm bài kiểm tra ngắn (thời gian 15 phút).
Đề bài:
Bằng một đoạn văn (khoảng 10 – 15 dòng), hãy trình bày cảm nhận về đoạn

trích “Cảnh ngày xuân” – Trích “Truyện Kiều” Nguyễn Du.
(Học sinh phải dựa vào các hoạt động đọc – hiểu để làm bài, cảm nhận được
cả chủ đề tư tưởng và giá trị nghệ thuật của đoạn trích. Đảm bảo yêu cầu đoạn văn,
diễn đạt trong sáng, rõ ràng).
2.3.4. Hiệu quả:
Qua đây ta thấy việc nâng cao cảm thụ, phân tích văn học góp phần khơng
nhỏ trong việc khai thác nội dung và cảm thụ tác phẩm của một tiết Ngữ văn theo
tinh thần đổi mới của phương pháp dạy học hiện nay. Đặc biệt trong những tiết
giảng văn bản lớp 9.

20


Vận dụng cách cảm thụ, phân tích văn học vào các tác phẩm văn chương, số
lượng nhiêu ít phụ thuộc vào từng tác phẩm, từng loại thể, thậm chí cả tình hình cụ
thể của thầy cơ, của tiết dạy, lứa tuổi học sinh.
Trên đây là một số ý tưởng, suy nghĩ của bản thân khi định hướng viết đề tài
này. Vì vậy tơi tự nhận thấy ứng dụng việc nâng cao cảm thụ, phân tích văn học
trong giờ giảng văn là rất cần thiết. Nên tôi đã viết lên một số kinh nghiệm nhỏ
trong việc sử dụng các phương pháp dạy học.
Đề tài này đã được tôi áp dụng giảng dạy một số bài bước đầu đã thành công.
Tôi thấy trong giờ học các em chăm chú nghe giảng, chủ động tìm tòi, nhớ và nắm
chắc hơn về nội dung của bài; các em yêu thích giờ học Ngữ văn hơn so với trước.
Các em biết thâm nhập vào cái hờn của bài thơ, văn bằng chính hệ thống các câu
hỏi; tính tích cực, sáng tạo, sự chủ động trong học tập được phát huy cao độ. Từ hệ
thống đó đã giúp các em tự tìm tòi sáng tạo ra một cách học dễ nhớ, dễ thuộc nhất.
Việc áp dụng cách cảm thụ, phân tích văn học này vào dạy học tôi thấy hiệu
qủa đã tăng lên rõ rệt, đó là tín hiệu khả quan rất đáng khích lệ và có thể áp dụng
rộng rãi đặc biệt là quá trình phân tích tác phẩm văn học như tơi đã trình bày. Việc
vận dụng này đã hổ trợ đắc lực trong quá trình khai thác vào “chiều sâu” của văn

bản. (Tuy nhiên giáo viên cần phải biết chọn lọc những “tư liệu” đặc sắc, tiêu biểu
toàn diện).
Bên cạnh đó, giáo viên cần học hỏi và trao đổi thêm kiến thức chuyên môn,
luôn tham gia các chuyện đề do trường, phòng tổ chức. Xây dựng thêm nhiều tiết
dạy cho đủ các phân mơn Ngữ Văn.
Kết quả chất lượng cuối kì của năm học 2015 - 2016 đạt được như sau:
Lớp
Sĩ số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
9A
23
2
5
11
4
1
9B
25
2
7
13
3
0
* Bài học kinh nghiệm.
Qua quá trình giảng dạy liên tục và thường xuyên rèn luyện kĩ năng cảm thụ,
phân tích văn học trong giờ giảng văn, bản thân tơi đã đúc rút ra một số kinh

nghiệm thực tế sau:
Muốn học sinh tiếp thu bài tốt, u thích mơn văn trước hết người giáo viên
luôn biết cách đưa học sinh vào tình huống có vấn đề để từ đó các em tự tìm ra một
con đường dưới sự hướng dẫn của giáo viên để đi vào bài giảng đó.
Mỗi giáo viên luôn nghĩ rằng: muốn các em làm tốt vai trò của mình thì bản
thân các em phải là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thành công cho
bài giảng thì bản thân các em phai là một trong nhưng nhân tố quan trọng góp phần
thành công cho bài giảng. Nghĩa là khuyến khích, động viên các em tham gia tích
cực xây dựng bài và có thể trình bày quan điểm, cách nghĩ của bản thân trong từng
bài giảng.

21


Thường xuyên học tập, rèn luyện, nghiên cứu, không ngừng học hỏi nâng
cao tay nghề, có tâm với nghề nghiệp. Có như vậy GV mới giúp các em thêm yêu
văn học, biết vận dụng cái hay, cái đẹp vào cuộc sống.
3. Kết luận và kiến nghị.
3.1. Kết luận:
Môn Ngữ văn là môn học hết sức phong phú và phức tạp, để học sinh u
thích và học giỏi thì người giáo viên cần phải kết hợp nhiều phương pháp, phương
tiện dạy học nên đề tài này chỉ hỗ trợ được phần nào khi tìm hiểu nội dung tác
phẩm khối lớp 9.
Kinh nghiệm mà tơi đưa ra trên đây khơng có gì là mới mẻ chủ yếu là hệ
thống lại và đưa ra những khía cạnh về việc rèn kĩ năng cảm thụ, phân tích văn học
trong giờ giảng văn mà tơi góp nhặt trong quá trình giảng dạy và học hỏi đồng
nghiệp để thiết kế cho phù hợp với đối tượng học sinh ở trường. Trong q trình
làm đề tài khơng tránh khỏi được những thiếu sót, hạn chế nhất định kính mong
q thầy cơ và các bạn đờng nghiệp đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn chỉnh
hơn.

3.2. Kiến nghị:
Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường trung học
cơ sở rất mong được sự quan tâm hơn nữa của Sở GD&ĐT tỉnh, phòng GD&ĐT
huyện cung cấp cho chúng tôi nhiều hơn, đầy đủ hơn về các thiết bị đồ dùng dạy
học, tài liệu tham khảo, tranh ảnh minh họa, phim tài liệu…
Thường xuyên quan tâm chỉ đạo, triển khai tốt công tác sáng kiến kinh
nghiệm, tổ chức các buổi học tập sáng kiến kinh nghiệm giữa các đơn vị nhằm chia
sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp và để hoạt động này thực sự có hiệu quả, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của ngành GD&ĐT huyện.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VI

, ngày 20 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

22


23



×