Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Nghệ thuật truyền thống hát xoan, Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.58 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

I . MỞ ĐẦU
II . NỘI DUNG
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
1.1. Lịch sử hình thành
1.2. Đặc điểm
1.2.1. Đặc điểm chung
1.2.2. Đặc điểm diễn xướng và trình tự cuộc Hát Xoan
1.2.3. Đặc điểm lời ca trong hát Xoan
1.2.4. Đặc điểm âm nhạc trong hát Xoan
2. Giá trị của Hát Xoan
3. Thực trạng
III . KẾT LUẬN-BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA HÁT XOAN
I . MỞ ĐẦU
Việt Nam có rất nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, mỗi loại hình lại
có nét đặc sắc riêng. Tuy nhiên, những năm gần đây một số loại hình nghệ thuật
đang bị mai một dần đi “Hát Xoan” là một trong những trường hợp như thế.
Có lịch sử hình thành rất lâu đời và mang bản sắc rất riêng, tuy nhiên “Hát
Xoan” lại chưa được nhiều người biết đến. “Hát Xoan” xuất hiện đầu tiên và
phát triển nhất là ở Phú Thọ.Bời vậy trong bài viết này tôi muốn đi sâu vào tìm
hiểu loại hình nghệ thuật đã có từ lâu đời này ở vùng đất Phú Thọ.
II. NỘI DUNG
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
1.1. Lịch sử hình thành


Hát Xoan là loại hình dân ca nghi lễ gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương và đời sống sinh hoạt của cư dân trồng lúa nước vùng trung du, tập trung
chủ yếu trên vùng đất Phú Thọ. Hát Xoan còn được gọi là hát Cửa đình, hát Lãi
Lèn, hát Đúm, hát Thờ…
Ở làng Phù Đức, xã Kim Đức, thành phố Việt Trì còn kể lại rằng: Từ thuở
Vua Hùng dựng nước, một hôm vào buổi trưa ngày 13 tháng Chạp, ba anh em
Vua Hùng đi tìm đất mở mang Kinh Đô có đi qua thôn Phù Đức và An Thái
dừng chân nghỉ ngơi tại một khu rừng gần thôn. Trong khi ngồi nghỉ ba anh em
Vua Hùng nhìn ra bãi cỏ trước mặt, thấy có một đám trẻ chăn trâu vừa chơi các
trò chơi như đánh vật, kéo co lại vừa hát những khúc ca nghe rất hay. Thấy vậy
người anh cả nhà họ Hùng liền bảo hai em dạy các trẻ mục đồng hát một số điệu
mà họ mang theo. Về sau, để tưởng nhớ công lao của ba anh em Vua Hùng,
hàng năm cứ đến ngày 13 tháng Chạp Âm lịch, dân làng lại làm bánh nẳng để
cúng vào buổi trưa và cúng thịt bò vào buổi chiều để thờ anh Cả Vua Hùng được
2


nhân dân suy tôn là Đức Thánh Cả. Đến ngày mùng 2 và mùng 3 tháng Giêng
Âm lịch, dân làng Phù Đức mở hội cầu để cầu Đức Thánh Cả phù hộ cho “Dân
khang, vật thịnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt”. Trong hội cầu, họ diễn
lại cảnh hát xướng để nhớ lại sự tích các Vua Hùng dạy dân múa hát và chơi các
trò chơi dân gian. Do vậy, hội cầu đã trở thành lệ làng hàng năm và bao giờ
cũng có trò hát xướng mở đầu. Ở làng Cao Mại, thị trấn Lâm Thao, huyện Lâm
Thao còn lưu truyền một truyền thuyết như sau: Vợ Vua Hùng mang thai đã lâu
tới ngày sinh nở, cứ đau bụng mãi mà không đẻ được. Người hầu nữ thấy vậy
tâu rằng: Có nàng Quế Hoa xinh đẹp, hát hay, múa giỏi, nên đón về múa hát để
có thể làm đỡ đau và có thể sinh đẻ được. Vợ Vua Hùng nghe lời và cho mời
nàng Quế Hoa đến để hát múa chầu trực bên cạnh vợ Vua Hùng. Nàng Quế Hoa
vâng lời và vào chầu. Khi ấy vợ Vua Hùng đang lên cơn đau dữ dội, bà gọi Quế
Hoa vào cạnh giường và múa hát. Quế Hoa trổ tài hát hay, múa dẻo, tay uốn,

chân đưa, người mềm như tơ, tay dẻo như bún, vợ Vua Hùng và những người
hầu cận đều rất say mê. Vợ Vua Hùng trong khi mải xem nàng Quế Hoa múa hát
nên quên cả đau đẻ và đã sinh hạ được ba người con trai khôi ngô tuấn tú. Khi
ấy đang là mùa Xuân. Vua Hùng thấy thế hết lời ca ngợi Quế Hoa và truyền cho
các mỵ nương học lấy các điệu múa hát ấy để hát mừng trong dịp lễ hội mùa
xuân vì thế được gọi là hát Xuân, sau này vì kiêng tên húy của mỵ nương con
gái Vua Hùng có tên là Xuân Nương (có thể là tên một nữ tướng của Hai Bà
Trưng trong khởi nghĩa năm 40-43) nên phải gọi chệch là hát Xoan. Lại một câu
chuyện khác cũng ở làng Cao Mại kể rằng: Nguyệt Cư công chúa và Vua bà ở
xã Cao Mại là con Vua Hùng, lúc lọt lòng mẹ cứ khóc hoài không ai dỗ được.
Chỉ đến khi nghe người dân làng An Thái hát thì Công chúa mới chịu nín. Cứ
như thế cho đến khi Công chúa lên ba tuổi. Cho đến khi Công chúa Nguyệt Cư
lấy chồng có thai khi đi qua làng An Thái nghe hát Xoan thì chuyển dạ đẻ,
những người hầu phải chạy thật nhanh về cung để nàng kịp sinh nở. Cũng chính

3


vì sự việc trên mà hiện nay ở Cao Mại còn bảo lưu lệ chạy kiệu Vua Bà và có tổ
chức hát Xoan trong những ngày lễ hội, đình đám để ghi dấu sự kiện.
Ở làng Hương Nộn, xã Hương Nộn, huyện Tam Nông, nơi có hát Xoan thờ
Nữ tướng Xuân Nương thời Hai Bà Trưng lại kể rằng: Khi khởi nghĩa đánh giặc
Hán những năm đầu Công nguyên có lần hành quân qua làng Xoan, được nghe
hát Xuân, Xuân Nương rất thích thú. Sau ngày khởi nghĩa thắng lợi, Hai Bà
Trưng lên ngôi vua, Nữ tướng Xuân Nương được phong làm Đông Cung công
chúa nhập nội trưởng quản quân cơ nội các. Bà về thăm lại quê hương và cho
người sưu tầm, ghi chép lại các bài ca Xuân ấy để truyền dạy trong quân. Chính
vì sự tích này nên ngày nay khi tế Xuân Nương, dân làng Hương Nộn tổ chức
hát Xuân nghi lễ; và để kiêng kỵ tên húy của bà, nên khúc ca Xuân được gọi
chệch đi là khúc ca Xoan. Cũng tại làng Hương Nộn còn có một truyền thuyết

khác kể về hát Xoan như sau: Vợ Vua Lý Thần Tôn (1128-1138) là Hoàng hậu
Lê Xuân Lan. Một lần bà du xuân qua đất Phù Ninh thấy những người dân làm
ruộng, đánh cá, vừa làm vừa hát, hát rất say mê, hát quên đi mệt nhọc để làm ra
sản phẩm nhiều hơn. Thấy đó là những bài hát hay, bà bèn cho người ghi chép
lại, đến khi về tu tại chùa Thiên Tạo tại xã Hương Nộn thì truyền dạy cho dân
hát theo. Bài hát đó là những điệu Xoan ca đằm thắm gần gũi với cuộc sống của
người dân nông nghiệp. Bà được dân tôn thờ là Đức Thánh Mẫu. Sau khi bà mất
dân Phù Ninh đã sang Hương Nộn cùng nhau hát thờ bà. Vì là hát bài bản nên
chỉ người Phù Ninh có sách chép mới hát được còn nơi khác không có sách chép
nên hát lời không đúng.
Có rất nhiều truyền thuyết trong dân gian lí giải sự ra đời của Hát Xoan,
mỗi truyền thuyết là một câu chuyện khác nhau nhưng chúng đều mang một
màu sắc chung đó là đầy tính chất huyền thoại, nhuốm màu hư ấu và huyền bí.
Mặc dù vậy, bóc tách những yếu tố huyền thoại hoang đường và hư cấu, chúng
ta có thể thấy được một số thông tin mang tính khoa học có thể xác định được
nguồn gốc về sự hình thành và quá trình tồn tại của Hát Xoan trong suốt thời
4


gian mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của các thế hệ cư dân Đất
Tổ thông qua lối hát còn được bảo tồn đến ngày nay. Qua truyền thuyết dân gian
lưu truyền lại, chúng ta dễ dàng thấy rằng, hát Xoan có thể được ra đời từ rất
sớm, có thể từ thời Hùng Vương dựng nước hoặc ít ra cũng cho ta một nhận
định: Hát Xoan đã có từ rất lâu đời với hình thức ban đầu còn rất sơ khai và nó
được dùng làm nghi thức tín ngưỡng trong lễ hội của làng để cầu đảo Trời đất
ban cho mưa thuận gió hòa để mùa màng được tươi tốt, đem lại cuộc sống ấm
no cho muôn dân trăm họ và được tồn tại đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40
đến 43 sau Công nguyên. Bằng chứng là tại các địa điểm của hát Xoan hoặc có
liên quan đến hát Xoan đều có tín ngưỡng thờ tự các Vua Hùng và các con gái
Vua Hùng như Tiên Dung, Ngọc Hoa, Nguyệt Cư và các con rể, các tướng lĩnh

của thời Vua Hùng.Các làn điệu Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ
nằm ở địa bàn bán sơn địa thuộc trung tâm bộ Văn Lang thời các Vua hùng
dựng nước. Nó được ra đời cùng với tín ngưỡng mang tính nguyên thủy của cư
dân nông nghiệp trồng lúa nước, đó là tín ngưỡng thờ Trời, thờ Thần, thờ Thánh
để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu. Các làng Xoan đều là
những ngôi làng cổ nằm ở vị trí có địa hình bán sơn địa với địa hình đồi, gò
trung du xen kẽ với ruộng trồng lúa nước rất điển hình thuộc địa bàn trung tâm
của bộ Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước. Đây là một trong những yếu tố
Vị -Thế -Địa rất quan trọng ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến sự ra đời và tồn
tại của các làn điệu và cách thể hiện của hát Xoan. Chính vì vậy, yếu tố tâm linh
là yếu tố quan trọng chi phối đến tính chất của “Hát Xoan” mang tính nghi lễ
phồn thực của cư dân nông nghiệp. Nó được hát ở cửa đình thể hiện những lễ
tục diễn xướng tế thần linh tại các cửa đình và được tổ chức hát vào mùa Xuân mùa nghỉ ngơi của một chu trình canh tác nông nghiệp trồng lúa nước hai vụ
Chiêm-Xuân qua 12 tháng và 4 mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông, đó chính là nguyên
nhân để hình thành các khoảng cách liên quan đến 4 mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông.

5


1.2. Đặc điểm
1.2.1. Đặc điểm chung
Hát Xoan là loại hình nghệ thuật tổng hợp, bao gồm nhiều yếu tố: thơ,
nhạc, múa, hát... trong đó hát và múa luôn đi cùng và hỗ trợ nhau, dùng điệu
múa minh hoạ nội dung cho lời ca, kết hợp với việc sử dụng các đạo cụ như
quạt, phách tre, nậm rượu... Bên cạnh đó, hát Xoan còn có sự gắn bó mật thiết
giữa thơ ca và âm nhạc, nhịp điệu thơ và nhịp điệu nhạc, ý thơ và ý nhạc đều có
sự thống nhất.
Hát Xoan có 3 kiểu hát (hát nói, hát ngâm ngợi, hát xướng), mỗi kiểu hát
có một số nét đặc trưng về giai điệu. Đặc điểm của giai điệu hát nói là sự đồng
nhất giữa dấu giọng của lời ca với giai điệu (lời ca của kiểu hát nói thường là thơ

4 hoặc 5 chữ), các quãng trong kiểu hát nói thường là từ quãng 2 đến quãng 5,
không bao giờ vượt quá quãng 8. Giai điệu của hát nói không sử dụng nhiều nốt
luyến láy mà mộc mạc, giản đơn nhưng dõng dạc, khoẻ khoắn. Trong kiểu hát
ngâm ngợi, giai điệu thường mềm mại, uyển chuyển, nhịp tự do, thể hiện tình
cảm trữ tình, sâu lắng, có nhiều nốt luyến láy hơn giai điệu hát nói. Còn đối với
hát xướng - giai điệu tổng hợp những đặc tính của hát nói và hát ngâm ngợi.
Kiểu hát này có nhiều thủ pháp sáng tác được ứng dụng như: nhắc lại, biến tấu,
mô phỏng... để phát triển tác phẩm. Lời ca trong hát Xoan được cấu trúc theo
nhiều thể thơ (4 chữ, 5 chữ, lục bát, song thất lục bát, thất ngôn, tự do...), bao
gồm cả thơ dân gian và thơ bác học. Bên cạnh đó, trong hát Xoan còn có hàng
loạt những tiếng đưa hơi và tiếng đệm vào câu hát, tạo nên nét đặc trưng riêng
biệt cho loại hình nghệ thuật này. Hát Xoan khi diễn xướng chịu sự chi phối của
ngữ điệu tiếng Việt gồm 6 thanh: huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng và thanh không.
Hầu hết các bài hát trong hát Xoan đều là thang 5 âm, bên cạnh đó còn có thang
4 âm và 3 âm.

6


Hát Xoan được tổ chức theo phường Xoan, bao gồm 2-6 nam (kép) trong
đó ít nhất phải có 1 kép trẻ, tuổi từ 10-15 và 6-12 nữ (đào). Đứng đầu phường
Xoan là một người đàn ông đã đứng tuổi, thuộc nhiều bài hát Xoan, biết chữ
Nôm, được dân làng tín nhiệm bầu làm trùm. Ông trùm vừa là người hướng dẫn
đào kép hát , múa, vừa làngười quản lý, vừa là người giao dịch với các làng mà
phường Xoan đến hát. Để có uy tínvới các làng kết nghĩa, vai trò của ông trùm
rất quan trọng. Ông trùm phường Xoan thường là kép của phường, đã tham gia
đi hát rất nhiều năm, có nhiều kinh nghiệm, biết nhiều điển tích đọc được văn
bản Hát Xoan bằng chữ Nôm. Ông trùm vừa là nhạc công thuần thục giữ nhịp
trống phách, vừa là kép hát dẫn thành thạo, vừa là chỉ đạo nghệ thuật,vừa là thày
dạy dỗ các đào kép hát múa. Đặc biệt ông trùm phải có khả năng quản lý vàgiao

dịch. Hàng năm vào tháng chạp âm lịch, phường Xoan được tập hợp dưới luyện
tập hướng dẫn của ông trùm. Địa điểm luyện tập tại nhà ông trùm. Phường Xoan
hoạt động như một đơn vị hoạt động nghệ thuật bán chuyên nghiệp, do đó khâu
tuyển chọn đào kép rất được chú trọng. Kép trong phường Xoan không những là
diễn viên hát mà còn là nhạc công có tay trống tay phách điêu luệyn. Đào
phường Xoan phải đảm bảo có hai tiêu chuẩn nhanh và sắc. Thiếu một trong hai
tiêu chuẩn không được nhập phường. Khi đã có chồng thường các cô đào không
theo chồng đi hát nữa. Ngoài khả năng bẩm sinh về thanh sắc,các cô đào được
truyền kỹ năng về hát múa, được giảng dạy cặn kẽ về các điển tích, được trau
dồi bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức văn học dân gian, âm nhạc dân gian và
cả âm nhạc bác học.
Khi đi hát các cô đàothường mặc váy sồi hay quần láng đen, áo tứ thân,
năm thân, (hoặc là bao xanh bao hồng), đầu vấn khăc nhung đen ,hay khăn mỏ
quạ. Kép và những chàng trai làng tham gia trong cuộc Hát Xoan , mặc quần
ồng sớ màu trắng, áo the thâm dài tới đầu gối. cổ quàng dải nhiễu điều , đầu đội
khăn hay khăn xếp đen. Trong quan niệm của phường Xoan, trang phục khi đi
hát phải đẹp, trang trọng không những biểu long tôn kính với thần linh mà còn
7


biểu lộ sự tôn trong của mình đối với dân các làng kết nghĩa. Đây cũng là biểu
hiện văn hoá ứng xử của phường Xoan.
Đạo cụ hành nghề của phường Xoan rất đơn giản, chỉ có quạt giấy với một
quyển sáchchép đầy đủ 14 Quả cách chép bằng chữ Nôm. Nhạc cụ của phường
Xoan cũng rất đơn giản, chỉ gốm một trống nhỏ bằng gỗ( thường gỗ mít già)
hoặc cặp trống bịt bằng da trâu hoặc da bò, và mộtcặp phách.
Như một đơn vị nghệ thuât bán chuyên nghiệp, phường Xoan lưu diễn từ
làng này qua làng khác, mỗi làng sở tại đều có những yêu cầu riêng. Có làng yêu
cầu ngoài phần hát lề lối các cô đào cùng các chàng trai sở tại Hát Đúm giao
duyên. Có làng có những tư gia mời phường Xoan đến hát tại nhà, chủ yếu là hát

bài bản, làn điệu thuộc giọng ngoài như: Giọng Lý, Giọng Ru, Giọng Phú…đây
là bài bản làn điệu có âm điệu , lời ca và lối hát khác với Hát Xoan. Nhất là
giọng Phú, chỉ hát những điển tích của văn chương bác học: Phú Kiều, phú Lưu
Bình Dương Lễ, phú Thị Kính. Với những yêu cầu của các làng sở tại thì từ ông
trùm đến các đào kép phải có một trình độ nhất định và khả năng văn hoá âm
nhạc tương đối phong phú mới đáp ứng được yêu cầu. Mối quan hệ giữa phường
Xoan với các làng phường Xoan đến ca hát là quan hệ anh em, tục kết nghĩa
giao ước phường Xoan là em, làng sở tạ là anh. Tuy nhiên trong giao tiếp ứng
xử hai bên đều hết sức trân trọng, xưng là anh em nhưng bình đẳng.Địa điểm
diễn xướng ở cửa đình còn hát ở trong đình.
1.2.2. Đặc điểm diễn xướng và trình tự cuộc Hát Xoan
* Chặng nghi thức: Phường Xoan thường đi hát ở các làng kết nghĩa, nên
phần nghi thức ông trùm phường cùng ông chủ tế làng s tại phải đứng trước
hương án của làng, chắp tay kinh cẩn vái lạy các thần linh. Sau đó ông trùm
phường hát những lời thỉnh mời, đươc xướng theo kiểu vãi tế gọi là Hát Chúc,
nối tiếp bài Hát Chúc là bài Gíáo Trống. Bài Giáo Trống do chú kép trẻ nhất
phường với chiếc trống nhỏ đeo trước bụng vừa múa vừa nhảy dẫn , phường
8


Xoan phụ hoạ phần diễn của chú kép trẻ, bốn cô đào ra trước hương án, tay nâng
quạt làm điệu bộ dâng hương, chân bước lên bước xuống, hát bài Thơ nhang,
Đóng đám… Nội dung chủ yếu của những bài hát ở phần nghi thức là thỉnh mời,
cầu xin các vi thần linh về dự lễ tế, che chở cho dân làng được an khang, mua
màng tươi tố thiên hạ thái bình. * Chặng hát các Quả cách Hát cách hay trình
bày các Qủa cách là lối hát các bài bản khá dài như bài văn hay bài diễn ca. Nội
dung Qủa cách miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông
hay mô tả cuộc sống của bốn lớp người trong xã hội lúc bấy giờ: sĩ, nông, công,
thương, hoặc kể lại những chuyện xưa. Hát cách gồm 14 bài bản được gọi là
Quả cách và có tên gọi và được sắp xếp trình diễn như sau : Kiều Giang Cách.

Nhàn Ngâm Cách. Tràng Mai Cách. Ngư Tiều Canh Mục Cách. Đối Dẫy Cách
Xuân Thời Cách. Hồi Liên Cách. Hạ Thời Cách. Thu Đông Cách. Đông Thời
Cách. Tứ Mùa Cách. Thuyền Chèo Cách. Tứ Dân Cách. Chơi Dâu Cách. Cấu
Trúc mỗi Qủa cách gồm có ba phần: mở đầu là giáo cách , phần trung tâm là đưa
cách, phần kết thúc là kết cách. Về diễn xướng thì mỗi Qủa cách có nhiều vẻ
nhưng cơ bản là hát ngâm và hát nói. Ông trùm phường Xoan hay một kép ngồi
ở giưa khoang đình vừa đánh trống phách vừa hát dẫn, các cô đào đứng sau hát
phụ hoạ bằng cách hát lai nguyên một câu hay một đoạn vừa hát, có khi chỉ là
nhưng câu đưa hơi. Để nối các Qủa cách theo tình tự diễn xướng người ta
thường dung các câu láy: các bạn họ ta lấy qua làm dậm, là hỡm dậm nào dậm
ấy cho qua, hoặc cách ấy cho qua, hỡi ban chèo ta giờ sang cách khác. Các Qủa
cách là những áng văn chữ Nôm được cấyn ghép vào Hát Xoan do một số các
nhà Nho viết ra, mang nhưng yếu của văn chương bác học. Một trong những
biểu hiện của sự cấy ghép này là một các đình làng như Cao Mại, Hữu Bổ,
Hương Nộn…ở Phú Thọ có tổ chức mời các phường Xoan đến hát thi các Qủa
cách. Hát thì có giải nhất nhì, ba tuỳ theo sư chính xác về lời văn của người thi
hát so với sách mẫu.

9


* Chặng hát hội: Hát hội là chăng sôi nổi nhất, sinh động nhất và kết thúc
một cuộc Hát Xoan. Hát hôi gồm nhiều bài được kết nối với nhau theo hình tức
tổ khúc hay liên khúc vừa hát, vừa múa, vừa diễn trò. Trình tự hát hội có các
phần: Bợm gái, Bỏ Bộ, Xin hoa- Đố chữ. Gài Hoa, Dã Cá. Dã Cá là tiết mục
được trình diễn như một hoạt cảnh, có nơi là các cô đào , có nơi là các trai láng
sở tại được đóng vai cá bị lưới bủa vây, bắt được dâng lên bàn thờ tế thần , tế
thần xong mới được trở lại làm người. Tiết mục Dã Cá rất sôi nổi vui vẻ, kết
thúc cuộc Hát Xoan trong không khí tưng bừng của lễ hội. Trước tiết mục Dã Cá
,ở nhiều làng còn đưa thêm mục Hát Đúm xen vào trong cuộc Hát Xoan. Hát

Đúm được xen vào Hát Xoan làm tăng thêm phần sinh động của cuộc hát.

1.2.3. Đặc điểm lời ca trong hát Xoan
Hát Xoan cũng như một số các hình thái sinh hoạt văn hoá âm nhạc dân
gian khác của người Việt: Hát Dô, Hát Dậm, Hát Chèo Tàu, Hát Quan Họ, Ca
Trù… khởi đầu đều là lối hát tế thần( từ nhiên thần đến nhân thần) rồi từ dần
đến những yếu tố tín ngưỡng, tâm linh bớt đi( Quan họ). Là loại dân ca lễ nghi
phong tục, lời ca trong Hát Xoan phản ánh khá rõ tín ngưỡng của cộng đồng
người Việt:phồn thực thờ tổ tiên, thờ thần…tín ngưỡng thờ thần thể hiện trong
bài Giã cá:
May ra bắt được cá măng
Đem lên tiến cúng cả làng bình yên.
Tín ngưỡng phồn thực:
Tôi bước chân vào giáo trống Tìm đền thượng chúc cho minh Năm trống
cơm thiên hạ thái bình Năm trống cơm nhà no mọi đủ Năm trống cơm mọi vẻ
mọi hay. Cùng với nội dung về thần linh, thần quyền, lời ca trong Hát Xoan còn
đề cập đến vương quyền: Nhà tôi nhà Lê Là song Bồ Đề Trở về thiên hạ Cày

10


bừa ruộng Lê. Kẻ sĩ là một trong bốn thành phần tứ dân: sĩ nông – công- thương
cũng được phản ánh rõ nét trong lời ca Hát Xoan. Các nhà Nho đồng nghĩa với
kẻ sĩ thì phải học hành. Học hành thi cử để làm quan, vinh quy bái tổ là ước mơ
của các tầng lớp nhân dân lúc bấy giờ: Sống được làm quan Cưỡi ngựa bên Tàu
Vinh quy bái tổ. Là một xã hội nông nghiệp, chủ đề chính của nội dung Hát
Xoan vẫn là nghề nông: Đêm mưa ngày nắng Đầu tháng cuối năm Lúa dé, lúa
chiêm cho no làng Ngoài đồng tốt lúa Lúa tốt mạ lên cho chật nhà Mặc dù là hai
tầng lớp được coi là thứ hạng thấp nhất trong xã hội nhưng nghề công và nghề
thương cũng được ca ngợi trong Hát Xoan: Công thời khéo léo thập phân Làm

nên đền các thánh nhân dõi truyền Thương thì buôn ván bán thuyền Kim ngân
vô số, lụa tiền đầy đa. Tình yêu nôi dung muôn thuở của văn chương từ cổ chí
kim, từ Đông đến Tây, từ Nam tới Bắc được phản ánh trong lời ca Hát Xoan rất
đa dạng: Trầu anh trầu túi trầu văn Trầu em dải yến để lâu cũng tan Anh xuôi kẻ
chợ mớ về Nghìn vàng chả tiếc xin kề chút hơi Kẻo còn thương nhớ anh ơi…
Lời ca trong Hát Xoan được cấu trúc theo nhiều thể thơ. Thể thơ 4 chữ, 5 chữ,
lục bát, song thất lục bát, thất ngôn…Thơ trong Hát Xoan bao gồm cả thơ dân
gian và thơ bác học. Thể thơ 4 chữ là thể thơ cổ mà mốt số bài ở chặng hát nghi
thức và trong 14 Qủa cách ta đều thấy như: Vạn thần tất hưởng Tôi mời vua cả
Người sang đất này. Thơ lục bát, lục bát biến thể và song thất lục bát được sử
dụng nhiều trong cấu trúc lời ca Hát Xoan: Đường đi trên suối dưới khe Đưa cố
nhân long càng kiểu cách. Tưởng long sầu mọi mạch nhỏ to Thương Xoan đêm
những mà lo Ngày nào được hợp nhỏ to kẻo phiền. Ngoài những thể thơ nói trên
thì lời ca Hát Xoan còn có thể thơ tự do. Trong quá trình tồn tại và phát triển ,
những yếu tố ngoại lai đôi khi lấn lướt cái gốc rễ, cội nguồn nguyên sơ, nhưng
về cơ bản nội dung lời ca Hát Xoan, đó là hàng loạt những tiếng đưa hơi và
những tiếng đệm vào câu hát. Những tiếng đưa hơi và những tiếng đệm vào câu
hát cũng tạo nên một số đặc trưng cho một số thể loại thơ ca. Những tiếng đưa
hơi thường dung trong Hát Xoan là ơ, a,i, ê hê…Những tíếng đệm thường dùng
11


trong Hát Xoan là: tênh là tềnh tang tềnh, vông vông tầm, tênh tang tít tang
tông… Những tiếng đưa hơi, tiếng đệm trong Hát Xoan hầu như không có nghĩa
về nội dung lời ca, nhưn lại có tác dụng nối nét nhạc cho liền ý, liền mạch hoặc
để phát giai điệu, để tiếp nét nhạc này sang nét nhạc khác.
1.2.4. Đặc điểm âm nhạc trong hát Xoan
Thuộc loại dân ca cổ nhất và cùng quá trình tồn tại và phát triển, âm nhạc
trong Hát Xoan chứa đựng những yếu tố từ giản dị nhất cho đến những bài bản,
làn điệu hoàn thiện và tinh tế.

* Về thang âm: Thang âm là những âm có trong bài bản hoặc làn điêu của
các thể loại dân ca và ca hát cổ truyền, được sắp xếp từ âm thấp nhất đến âm cao
nhất trong phạm vi một bát độ. Hát Xoan khi diễn xướng chịu sự chi phối của
ngữ điệu tiếng Việt gồm sáu thanh: huyền. hỏi, săc. Ngã, nặng và thanh không
dấu. Hầu hết các bài hát trong Hát Xoan đều là thang 5 âm: Bợm gái, Bỏ bộ, Xin
hoa- Đố chữ, Đố hoa, Giã Cá… Những bài hát ở chặng nghi thức của Hát Xoan
như: Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang thang âm có 4 âm, nhưng từng câu trong
bài thang âm chỉ có 3 âm.
* Cấu trúc Âm nhạc: Hát Xoan được tạo nên bởi lối hát thơ, các ý thơ câu
thơ khổ thơ tạo nên các kiểu cấu trúc. Cấu trúc các bài bản, làn điệu Hát Xoan
khá đa dạng bao gồm các dạng cơ bản sau: Khởi thuỷ là lối hát truyền cầu
cúng ,nên Hát Xoan có một dạng cấu trúc âm nhạc phụ thuộc thuộc vào lời của
bài văn, hay bài thơ được trình bày bằng kiểu vừa nói vừa hát. Những cấu trúc
này là cấu trúc khổ nhạc hát nói. Các bài ở chặng nghi thức trong Hát Xoan như
Giáo trống, Giáo,Gíáo pháo, Thơ nhang có cấu trúc khổ nhạc hát nói. Các câu
trong khổ nhạc hát nói thường giống nhau lặp đi lặp lại. Độ dài, ngắn của khổ
nhạc hát nói phụ thuộc vào nội dung thể thơ 4 hoặc 5 chữ( từ) hoặc thể thơ tự do
có thêm các tiếng đưa hơi , tiếng đệm. Dạng cấu trúc thứ hai trong Hát Xoan là
cấu trúc khổ nhạc đơn. Khổ nhạc đơn gồm nhiều câu nhạc, mỗi câu ứng với một
12


câu 6 chữ, câu thơ 8 chữ của thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể. Dạng cấu trúc
thứ ba tron Hát Xoan là cấu trúc 2 khổ đơn thường là do sự phát triển củac cấu
trúc khổ nhạc đơn mà ra.
* Giai điệu Hát Xoan: có 3 kiểu hát: hát nói, hát ngâm ngợi, hát
xướng( giống như hát ca khúc). Vì vậy giai điệu Hát Xoan cũng có một số nét
đặc trưng như sau: Những bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang hát theo kiểu
hát nói. Đặc điểm của giai điệu hát nói là sự đồng nhất giữa dấu giọng của lời ca
với giai điệu. Lời ca của kiểu giai đoạn hát nói thường là thơ 4 hoặc 5 chữ hoặc

biến thể của của chúng. Các quãng trong kiểu giai đoạn hát nói không vượt quá
quãng 8,thường là từ quãng 2 đến quãng 5. Từng từ, từng chữ trong lời ca
thường chỉ ứng với một đến hai, ba nốt nhạc.Giai điệu không sử dụng nhiều nốt
luyến láy. Kiểu giai điệu hát nói mộc mạc giản đơn nhưng dõng dạc, khoẻ khoắn
Giai điệu của các bài Hát phú, Gài hoa theo kiểu ngâm ngợi. Đặc điểm của kiểu
giai điệu hát ngâm ngợi thường mềm mại. uyển chuyển, nhịp tự do thể hiện tình
cảm trữ tình sâu lắng. Dấu giọng lời ca hầu hết đồng nhất với độ cao giai điệu.
Giai điệu của hát kiểu hát ngâm ngợi có nhiền nốt luyến láy hơn giai điệu của
điệu hát nói
* Về nhịp điệu: Hát Xoan là hình thái sinh hoạt văn hoá âm nhạc dân gian,
được hình thành bởi xúc cảm thiêng liêng trong đời sống tâm linh của người
Việt vùng Phú Thọ. Nằm trong tổng thể nguyên hợp của một hiện tượng
phônclo, nhịp điệu Hát Xoan cũng như các thành tố khác của Hát Xoan đều có
mối tương quan logic. Với những bài ở chặng nghi thức: Giáo trống, Giáo pháo,
Thơ nhang và các bài có gắn với múa minh hoạ như : Bỏ bộ, Đánh cá, Bợm gái
nhịp điệ mạch lạc, khúc triết. Nhịp tương ứng với loại nhịp 2/4 được sử dụng rất
nhiều trong âm nhạc Hát Xoan. Loại nhịp tưng ứng hỗn hợp cũng có xuất
hiện( Thơ nhang, Đóng đám) nhưng số lượng ít. Những bài hát ngâm ngợi( Gài
hoa, Hát phú) nhịp tự do. Một đặc điểm khá tiêu biểu trong nhịp điệu Hát Xoan

13


là kiểu nhấn lệch, sử dụng ở nhiều bài Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Xin
hoa- đố chữ
* Về kỹ năng hát: Hát Xoan gắn bó mật thiết giữa thơ ca và âm nhạc, nhịp
điêu thơ và nhịp điệu nhạc, ý thơ và ý nhạc đều có sự thống nhất. Vì trước là hát
tế thần, sau là hát kỹ năng Hát Xoan cũng đòi hỏi những yêu cầu kỹ thuật khá
cao, với 4 tiêu chí: vang, rền, nền, nẩy. Như chúng ta đã biết địa điểm diễn
xướng Hát Xoan khởi đầu là vùng đất thiêng( bãi cỏ ở làng Phù Đức, xã Kim

Đức, Việt Trì), nơi vua Hùng dạy trẻ mục đồng ca hát. Hiện nay mỗi khi mở hội
Hát Xoan, dân làng Phù Đức vẫn đến tế lễ ở bãi cỏ này. Về sau người ta xây
miếu ở bãi cỏ( vùng đất thiêng) goij là “Miếu Lãi Lèn” các cuộc Hát Xoan vẫn
được hát ở trước miếu Lãi Lèn. Khi có thiết chế đình làng địa điểm diễn xướng
Hát Xoan ở cửa đình. Do đó Hát Xoan còn gọi là Hát Lãi Lèn, Hát Cửa Đình.
Hát Xoan là sinh hoạt ca hát tập thể, người tha gia đông, hát ở không gian rộng
nên tiêu chí đầu tiên là hát phải vang. Tiêu chí hát vang trong Hát Xoan không
có nghĩa là gào hay thét to. Khi tuyển đào, kép phường Xoan phẩi chọn người có
giọng khoẻ và trong( không được khan), lúc hát vận dụng đẩy hơi thở làm âm
thanh vang lên trong vòm họng , ở hốc mũi. Những bài Giáo trống, Giáo pháo,
Thơ nhang là những bài ca khẩn nguyện , hát the kiểu hát nói. Bởi vậy độ âm
vang không những để nghe rõ mà còn thể hiện sự trang trọng, thần bí của giọng
hát trước khung cảnh trang nghiêm của cuộc tế lễ. Hầu hết các bài ở chặng thứ
nhất( nghi thức) và chặng thứ hai( 14 quả cách) đều được trình diễn theo kiểu
hát nói. Những bài Hát phú, Gài hoa giai điệu mềm mại uyển chuyển , hát theo
kiểu ngâm ngợi nên tiêu chí quan trọng nhất là phải rền. Theo các nghệ nhân Hát
Xoan thì rền có nghĩa là âm phải liền nhau, hơi phải trường để ngâm nga những
bài thơ áng văn. Trên cơ sở của hát nói, hát ngâm ngợi lấy hơi sâu hơn và không
chỉ lấy hơi ngực mà còn lấy hơi ở bụng. để lượng hơi dồi dào hơn, ngâm ngơi
được trường hơi. Kỹ năng hát ngâm ngợi đòi hỏi phải mềm mai thể hiện được
tình cảm sâu lắng,trữ tình. Trong ứng xử, phường Xoan hết sức trân trọng làng
14


kết nghĩa. Cách ứng xử này cũng được thể trong khi hát Hát đối đáp giao duyên
tiêu chí hang đầu là phải nền. Theo các nghệ nhân phường Xoan thì nền có
nghĩa là nền nã lịch thiệp. Nam nữ trong hát đối phải trân trọng nhau, thân ái,
không đùa nghịch chòng ghẹo. Nhả chữ phải rõ rang rành mạch nhưng phải da
diết đằm thắm. Còn tiêu chí nảy trong Hát Xoan là những bài hát kèm theo múa
như Giáo trống, Giáo pháo hay Đánh cá phải vừa có âm vang, vừa nảy. Vang là

phải dõng dạc, nảy là mỗi câu phải dứt( ngắt). Trong những bài trình diễn ở
chặng hát hội của cuộc Hát Xoan hát theo kiểu hát xướng. Hát xướng là sư tổng
hợp của hái kiểu hát nói và giọng hát ngâm ngợi giống như hát khúc), lấy hơi
phải nhanh hơn hát nói hát ngâm ngợi, lượng hơi phải đủ để phù hợp với nhịp độ
tương đối nhanh, linh hoạt của một số bài: Bợm gái, Bỏ bộ, Xin hoa, Đố chữ…
Cách mở khẩu hình trong Hát Xoan là phải vừa phải, không quá to cũng không
quá nhỏ, sử dụng môi và lưỡi linh hoạt để làm rõ chữ. Sự đa dạng của các bài
bản, làn điệu thuộc giọng lề lối và giọng ngoài lề lối của Hát Xoan, bắt buộc đào
kép phải có kỹ năng hát điêu luỵên mới thực hiện được các bài bản làn điệu với
nội dung và tính chất khác nhau. Qua việc trình bày ở trên cho ta nhận định một
điều là Hát Xoan là hình thúc sinh hoạt văn hoá âm nhạc dân gian đặc sắc của
người Việt ở Phú Thọ.
2. Giá trị của Hát Xoan
Hát Xoan là sản phẩm tinh thần của quần chúng nhân dân lao động, nó
được bắt nguồn từ cuộc sống lao động của người nông dân và gắn liền với
phong tục, tập quán của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Đây là yếu tố để
hình thành các quả cách trong lối hát để nói về các nghề trong nông nghiệp:
Ngư-Tiều-Canh-Mục. Hát Xoan thể hiện ước nguyện thỉnh cầu của người nông
dân đối với các bậc thánh, thần cao siêu mà họ quan niệm rằng đó chính là các
bậc cai quản, ban phát sự may mắn, phong lưu cho bàn dân thiên hạ và gắn liền
với vận mệnh sống còn của họ. Hát Xoan thể hiện đạo lý Vua-Tôi, nghĩa vợ
chồng, đạo làm cha, đạo làm con. Hát Xoan còn thể hiện tâm tư tình cảm,
15


nguyện vọng và ước vọng, là cầu nối cho sự đoàn kết trong cộng đồng và quan
hệ trên - dưới, là mối quan hệ bình đẳng, dân chủ, không phân biệt địa vị sanghèn và giàu-nghèo.
Hát Xoan là một nghệ thuật được sinh ra từ tín ngưỡng nông nghiệp trồng
lúa nước, nó ra đời trên miền đất cội nguồn của dân tộc, nơi có nhiều lễ hội dân
gian được tổ chức hàng năm vào dịp mùa xuân, do đó nó mang đầy đủ tính chất

của nền văn hóa cội nguồn và cổ xưa nhất, thể hiện được tính chất cấu kết cộng
đồng rõ nhất. Mặt khác, hát Xoan mang đậm yếu tố tín ngưỡng, tâm linh được
hát tại đình làng là nơi thờ Thành Hoàng để thể hiện ước nguyện cầu đảo linh
thiêng. Chính vì vậy, hát Xoan mang đậm tính chất phồn thực thể hiện qua hình
thức trình diễn, lời ca và điệu múa thể hiện trong thể hát Cài Huê và Mó Cá là
diễn xướng thiêng liêng được hát để kết thúc một cuộc trình diễn hát Xoan. Họ
quan niệm hát Cài Huê, Mó Cá có ảnh hưởng sâu sắc đến mùa màng, đến sự
sinh sôi phát triển giống nòi. Do vậy, không bao giờ họ bỏ qua hai lối hát đó, vì
họ sợ rằng nếu bỏ qua hai lối hát đó thì dân làng sẽ chịu cảnh mất mùa, đói kém
và gặp thiên tai hạn hán hoặc lũ lụt… Vì trong cả hai lối hát này đều có các đào
Xoan và các trai làng cùng trình diễn để các trai làng bắt lấy đào hoặc các đào
bắt lấy trai làng để tượng trưng cho âm - dương; nam - nữ giao phối để sinh sôi
nảy nở, vì vậy các cụ gọi đây là “Âm dương hợp đức” để sinh thành. Trong lối
hát Xoan cổ, Cài Huê, Mó Cá được trình diễn vào thời điểm linh thiêng nhất. Đó
là vào lúc trời gần sáng, khi mà khí âm còn nặng nề, khí dương mới bắt đầu xuất
hiện. Trời đất bảng lảng giao hòa thì các Đào cùng các Kép bắt đầu trình diễn
Mó Cá và vào lúc các Kép bắt các Đào Xoan thì các loại đèn nến trong đình đều
phải tắt hết, chỉ có hương thắp trên Thượng cung.
Có thể nói, một số truyền thuyết về hát Xoan hiện còn được bảo lưu ở Phú
Thọ là ánh sáng phản xạ về sự hình thành và tồn tại của hát Xoan trong tiến trình
lịch sử dựng nước và giữ nước của các thế hệ cư dân Đất Tổ Hùng Vương. Mặc
dù là truyền thuyết dân gian, vén đi bức màn huyền thoại, các truyền thuyết ấy
16


cũng đã ít nhiều cung cấp tư liệu mang tính khoa học để chúng ta tìm hiểu,
nghiên cứu về hát Xoan để xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Di
sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, thiết thực góp phần bảo tồn và phát
huy giá trị Di sản hát Xoan ở Phú Thọ thể hiện truyền thống và đạo lý “Uống
nước nhớ nguồn; Ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc ta.

Hát Xoan Phú Thọ đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa
phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại đã nâng tầm và vị thế văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là niềm tự hào và
vinh dự to lớn của người dân Phú Thọ nói riêng và của đất nước Việt Nam nói
chung trước di sản quý giá của cha ông để lại cho chúng ta hôm nay.
3 . Thực trạng
Hát Xoan thường được tổ chức vào mùa xuân, có các phường xoan lần lượt
khai xuân ở đình, miếu làng. Vào ngày mùng 5 âm lịch thường hát ở hội đền
Hùng.
Cũng như nhiều di sản văn hóa phi vật thể khác, hát Xoan Phú Thọ cũng
đang chịu tác động của xã hội hiện đại. Các nghệ nhân, các cụ trùm Xoan những người đang lưu giữ nghệ thuật trình diễn hát Xoan đang dần mất đi là một
đe dọa lớn đối với sự truyền dạy cho các thế hệ trong sự thừa kế di sản văn hóa.
Các bài bản Xoan gốc nhiều năm đã bị thất lạc, hiện tại chỉ là bản sao hoặc
truyền khẩu do trí nhớ, mà trí nhớ của các cụ trùm, nghệ nhân đã cao tuổi không
tránh khỏi “tam sao thất bản”, làm mất đi tính nguyên gốc của di sản hoặc diễn
xướng không đầy đủ nội dung. Các nghệ nhân do tuổi đã cao, sức yếu nên không
thể truyền dạy trực tiếp, lại càng không thể biểu diễn trên sân khấu được. Hiện
tại ở các phường Xoan cổ chỉ có 169 người biết hát Xoan bài bản, có 29 nghệ
nhân dân gian được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng trong các năm
từ 2005 đến 2010, nhưng đến nay chỉ còn có 26 người, trong đó có 8 người còn
có đủ sức khỏe và trí nhớ để truyền dạy đầy đủ các bài bản Xoan cổ được. Các
17


di tích như đình, miếu, nơi diễn ra các sinh hoạt hát xoan từ xa xưa nay chỉ còn
khoảng hơn 10 di tích. Lớp trẻ lại chưa có sự hiểu biết nên chưa yêu thích và đặc
biệt hạn chế về ý thức bảo vệ giá trị Di sản hát Xoan, ảnh hưởng lớn tới việc trao
truyền giữa các nghệ nhân với đương đại.
Trong 2 năm 2013, 2014, tỉnh Phú Thọ đã tổ chức nhiều lớp đào tạo nghệ
nhân kế cận tại 2 xã Kim Đức và Phượng Lâu với gần 100 học viên tham gia.

Mục đích của việc tổ chức các lớp đào tạo nghệ nhân kế cận là tăng cường nhận
thức về bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát Xoan Phú Thọ đã được UNESCO
công nhận là si sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp; cung cấp những
kiến thức, kỹ năng cơ bản về nghệ thuật trình diễn hát Xoan Phú Thọ cho các
học viên vận dụng vào hoạt động văn nghệ cơ sở và biểu diễn chuyên nghiệp đạt
kết quả tốt. Đồng thời, phát huy vai trò của các nghệ nhân cao tuổi, truyền dạy,
tập huấn cho thế hệ trẻ để hát Xoan ngày càng được lan tỏa trong cộng đồng.
III . Kết luận- Bảo tồn & phát triển
Từ thực tế trên, vấn đề đặt ra hiện nay là việc bảo tồn và phát triển dân ca
Hát Xoan Phú Thọ trong thời kỳ hội nhập quốc tế - hậu kỳ khi Di sản Văn hóa
Hát Xoan Phú Thọ được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể cần
bảo vệ khẩn cấp.
Tại Lễ vinh danh hát Xoan Phú Thọ mới diễn ra ngày 18/2/2012, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Phú Thọ, Bộ Ngoại giao đưa
ra Chương trình Hành động bảo vệ hát Xoan Phú Thọ. Các nhà nghiên cứu,
những người có tâm huyết với loại hình Di sản Văn hóa này cũng đưa ra những
giải pháp nhằm bảo tồn và lưu giữ hát Xoan Phú Thọ.
Có thể xem sáu giải pháp dưới đây là những giải pháp tiêu biểu để hát
Xoan vừa phát huy được giá trị vừa làm phong phú thêm đời sống tinh thần cho
nhân dân.

18


Thứ nhất là phải nâng cao nhận thức và năng lực của cộng đồng, của chủ
thể Di sản hát Xoan Phú Thọ nhằm tăng cường hiểu biết, yêu thích và thực sự
say mê với việc bảo tồn, phát huy tác dụng Di sản Văn hóa đang hiện hữu ngay
trên chính mảnh đất quê hương mình. Tiếp tục điều tra, nghiên cứu, kiểm kê sự
phát triển của hát Xoan Phú Thọ: vùng xoan gốc và vùng Xoan lan tỏa; đánh giá
kết quả những hoạt động của nhà nước và cộng đồng trong từng năm để bảo vệ

Di sản hát Xoan. Triển khai các biện pháp và kế hoạch cụ thể, ưu tiên nghiên
cứu, hệ thống hóa tư liệu với mục tiêu bảo tồn bền vững hát Xoan Phú Thọ.Thực
chất hiện nay việc bảo tồn các phường Xoan cổ, làng Xoan gốc phần nhiều ở
dạng tự phát, từ lòng yêu thích chủ yếu trong truyền thống gia đình, dòng họ, do
các nghệ nhân truyền lại cho lớp con cháu họ. Các nghệ nhân cũng chưa có được
sự chăm sóc, nuôi dưỡng, động viên cả về tinh thần lẫn vật chất trừ khi có nhu
cầu biểu diễn phục vụ cho một sự kiện nào đó chứ không thường xuyên, liên tục.
Mặt khác, phải nghiêm khắc nhìn nhận để thấy rằng: cấp chính quyền quản lý
đặc biệt là ở cơ sở do chưa nhận thức được giá trị của hát Xoan, nên chưa thực
sự quan tâm để có những giải pháp thích hợp nhằm khôi phục, bảo tồn, phát
triển Di sản hát Xoan.
Thứ hai là phải tăng cường nguồn đầu tư của Nhà nước đi đôi với huy động
các nguồn lực xã hội góp phần củng cố các phường Xoan gốc. Cái đặc sắc của
hát Xoan Phú Thọ là hiện nay vẫn tồn tại các phường Xoan gốc với gần 170
người tham gia, trong đó có 18 cụ tuổi từ 80 trở lên. Theo kiểm kê của Bộ Văn
hóa - Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 2009, hát Xoan đã
lan tỏa ở 2 tỉnh, 9 huyện, 18 xã, 24 làng (ở Phú Thọ có 6 huyện, 15 xã, 21 làng;
ở Vĩnh Phúc có 3 huyện, 3 xã và 3 làng). Cần có sự củng cố về tổ chức các
phường Xoan sao cho các phường đều có ông trùm, có người dẫn cách, người gõ
trống và các đào, kép. Về kinh phí hoạt động hàng năm, trước mắt do ngân sách
Nhà nước tài trợ, các năm sau giảm dần (từ năm thứ 4 trở đi), phường Xoan duy
trì sự phát triển cần tạo ra nguồn thu từ biểu diễn phục vụ khách du lịch và thực
19


hiện xã hội hoá vận động lòng hảo tâm ủng hộ của các cơ quan, đơn vị và cá
nhân. Song cùng với việc củng cố tổ chức các phường Xoan gốc cần đặc biệt
quan tâm tới việc khôi phục, trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử gốc có liên quan
đến môi trường hoạt động của Xoan, để tạo lại vị thế cho hát Xoan trong lễ hội,
nghi thức và phong tục. Quy hoạch và khôi phục đồng bộ khu di tích Họ Xoan

và trở thành điểm di tích, lễ hội gắn với du lịch nhằm quảng bá, tôn vinh di sản
hát Xoan.
Thứ ba là việc tạo môi trường cho dân ca Xoan phát triển. Bên cạnh việc
củng cố bảo tổn các phường Xoan gốc ở chính nơi sinh ra nó có ý nghĩa như xây
dựng một bảo tàng sống, phải tạo điều kiện- môi trường thuận lợi để hát Xoan
được mở rộng giao lưu, trình diễn, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với các cộng
đồng khác trong nước và quốc tế nhằm tăng cường sự hiểu biết, góp phần bảo
vệ, phát huy đa dạng văn hoá và phát triển văn hoá cộng đồng để nó thực sự
sống trong cộng đồng, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho cộng đồng. Có
như vậy mới phát huy được giá trị đặc sắc của hát Xoan Phú Thọ.
Thứ tư là tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá giá trị của hát Xoan
để đông đảo nhân dân nhận biết được và thực sự yêu thích hát Xoan. Đưa hát
Xoan vào trường học (trong chương trình ngoại khoá hàng năm); dạy hát Xoan
trên sóng Đài Phát thanh, Truyền hình của tỉnh; tổ chức liên hoan, hội thi “hát
Xoan Phú Thọ” hàng năm; nghiên cứu, khôi phục đưa hát Xoan vào phần nghi
lễ giỗ Tổ Hùng Vương và coi đó là một trong những hình thức sinh hoạt văn hoá
“đặc sản” của Lễ hội; tổ chức hát Xoan trong Lễ hội Đền Hùng và đặc biệt là
trong các tour du lịch; biên tập để xuất bản các ấn phẩm văn hoá, bộ sách tổng
hợp, nghiên cứu về hát Xoan, kỷ yếu các Hội thảo khoa học về hát Xoan, đĩa
VCD, CD về các bài bản của hát Xoan.
Thứ năm là việc ban hành chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân có tài tăng
xuất sắc, có công bảo vệ, phát huy giá trị di sản hát Xoan tại các phường Xoan

20


và dân ca Phú Thọ ở tất cả các cộng đồng yêu thích dân ca Xoan. Tiếp tục hoàn
thiện hồ sơ đề nghị Nhà nước phong tặng Nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu
tú cho các cá nhân có tài năng và có đóng góp quan trọng trong việc bảo tổn và
phát huy giá trị di sản hát Xoan.Cần có chính sách ưu tiên nhằm tạo điều kiện

chăm sóc và động viên các nghệ nhân hát Xoan; hỗ trợ cộng đồng, các phường
Xoan; các trường học tổ chức truyền dạy và đào tạo thế hệ những người trẻ tuổi
để tiếp nối, duy trì và sáng tạo di sản hát Xoan. Xây dựng các chương trình giáo
dục thích ứng để giảng dạy hát Xoan trong các trường nghệ thuật và trường phổ
thông.
Thứ sáu là thành lập “Trung tâm Bảo tồn Di sản văn hoá hát Xoan Phú
Thọ”: Trung tâm này có 3 chức năng cơ bản. Một là nghiên cứu, sưu tầm, kiểm
kê, bảo tồn di sản hát Xoan. Hai là biên soạn, xuất bản các ấn phẩm văn hoá
tuyên truyền, giới thiệu quảng bá di sản hát Xoan. Ba là tổ chức biểu diễn các
bài bản, làn điệu hát Xoan cổ, Xoan chỉnh lý và Xoan phát triển; xây dựng
những chương trình hát Xoan có chất lượng cao biểu diễn trên sân khấu, phục
vụ hội nghị, giao lưu vùng miền và cả nước; trên sóng phát thanh truyền hình
tỉnh và Trung ương, góp phần quảng bá giá trị di sản văn hoá hát Xoan Phú Thọ.
Tóm lại, hát Xoan vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là hiện tượng của văn
hoá dân gian đặc trưng của vùng đất Tổ Hùng Vương. Hát Xoan gắn với tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và là điểm nhấn văn hoá quan trọng trong đời
sống tinh thần của đồng bào các dân tộc Việt Nam. Trong mình nó chứa đựng
rất nhiều giá trị mà không thể một vài cuốn sách nói cho hết được. Với sức sống
bền bỉ, sức lan tỏa mãnh liệt và lộ trình bảo tồn cụ thể, Hát Xoan sẽ mãi mãi
trường tồn, không chỉ bừng sáng trong lòng mỗi người dân nước Việt mà còn
của bạn bè khắp năm châu.

21


22




×