Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tác động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đến nhóm khuyết tật tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.99 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Tổ chức phi chính phủ là một lực lượng quan trọng trong lĩnh vực cứu trợ
nhân đạo và phát triển xã hội. Trong quá trình phát triển xã hội, bên cạnh những nỗ
lực của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ đã góp một
phần vào quá trình nhằm cải thiện cuộc sống giúp đỡ những người khuyết tật. Với
điều kiện địa lý tự nhiên khắc nghiệt, trải qua mấy chục năm chiến tranh nên số
lượng người khuyết tật ở Việt Nam là khá lớn, khoảng hơn 13% dân số, cuộc sống
của họ rất khó khăn, vất vả. Do đó, các tổ chức cần phải liên kết và cộng tác chặt
chẽ với nhau và với mọi thành phần trong cộng đồng dân tộc, không phân biệt hay
kỳ thị bất cứ ai để tạo nên một sức mạnh tổng hợp giúp đỡ người khuyết tật một
cách hiệu quả và thiết thực. Chương trình, chính sách đối với nhóm người khuyết
tật là một trong những vấn đề lớn mà Đảng, Nhà nước quan tâm.
Nhờ sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của Ths. Vũ Thị Minh Ngọc, nhóm
chúng em đã hoàn thành bài tiểu luận với chủ đề: “Tác động của các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài đến nhóm khuyết tật tại Việt Nam”.
Bài tiểu luận của chúng em gồm 3 chương:
Chương I. Khái quát chung về hoạt động TCPCPNN đối với nhóm khuyết tật tại
Việt Namss
Chương II. Thực trạng hoạt động TCPCPNN đối với nhóm khuyết tật tại Việt Nam
Chương III. Một số giải pháp tăn cường hoạt động của TCPCPNN đối với nhóm
khuyết tật tại Việt Nam
Do kiến thức còn hạn chế nên bài tiểu luận của chúng em không tránh khỏi
những sai sót. Chúng em rất mong nhận được những nhận xét, đóng góp của cô để
bài của nhóm được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TCPCP: Tổ chức phi chính phủ


TCPCPNN: Tổ chức phi chính phủ nước ngoài

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TCPCPNN
ĐỐI VỚI NHÓM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TCPCPNN
TẠI VIỆT NAM
1. Khái quát về tổ chức phi chính phủ
Tổ chức phi chính phủ là chỉ một tổ chức, hiệp hội, quỹ văn hóa xã hội, các
ủy hội từ thiện, tập đoàn phi lợi nhuận, hoặc các pháp nhân khác là theo pháp luật
không thuộc khu vực nhà nước và không hoạt động vì lợi nhuận, nghĩa là khoản lợi
nhuận nếu có không thể phân phối theo kiểu chia lợi nhuận. Loại tổ chức này
không bao gồm các hiệp đoàn, đảng phái chính trị, hợp tác xã phân chia lợi nhuận
hoặc nhà thờ.
Theo luật pháp một số nước, các tổ chức TCPCP bao gồm các chủ thể có tư
cách pháp nhân, là những tổ chức không thuộc chính phủ như các Viện, các tổ
chức tư nhân hay công cộng hoặc các Quỹ. Các tổ chức phi chính phủ - đó là
những tổ chức phi lợi nhuận, được lập ra hợp pháp và có tư cách pháp nhân theo
pháp luật của nước đó và theo pháp luật nước cho đặt trụ sở chính.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, các TCPCP là bất kỳ tổ chức quốc tế nào
được lập ra không phải do một thoả thuận liên chính phủ quốc tế, nhưng TCPCP
đó có thể bao gồm các tổ chức có thành viên do chính phủ cử ra, với điều kiện
thành viên đó không được can thiệp vào quyền tự do bày tỏ ý kiến của tổ chức đó.
Tóm lại, đó là những tổ chứ được thành lập ở các quốc gia khác tham gia vào hoạt
động cứu trợ và phát triển tại nước ta, trên cơ sở tự nguyện và không vì mục đích
lợi nhuận.


3


2. Quá trình hoạt động của TCPCPNN tại Việt Nam
Các TCPCPNN đã vào Việt Nam từ nhiều thập kỷ qua. Việc mở rộng quan
hệ với các TCPCPNN là một mảng trong quan hệ ngoại giao nhân dân, nó gắn liền
với đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và tình hình phát triển
qua từng giai đoạn của đất nước Việt Nam.
Trước tháng 5/1975, nhiều TCPCPNN đã hoạt động tại Việt Nam, nhưng
chủ yếu ở miền Nam, chỉ có rất ít tổ chức viện trợ cho miền Bắc. Ở miền Nam Việt
Nam, từ năm 1954 các TCPCPNN bắt đầu hoạt động và tăng nhanh, đến cuối năm
1974 đã có khoảng trên 60 TCPCPNN hoạt động tại miền Nam. Các tổ chức này
chủ yếu hoạt động trong vùng Mỹ - ngụy chiếm đóng với mục đích chính là cứu
trợ những người di cư từ Bắc vào Nam và sau đó là những nạn nhân của cuộc chiến
tranh của Mỹ. Các TCPCPNN đã rút khỏi miền Nam sau ngày 30/4.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Việt Nam thống nhất đất
nước, hoạt động của các TCPCPNN tăng nhanh. Mặc dù vậy các hoạt động này bị
ảnh hưởng của những biến động chính trị trong khu vực và Việt Nam nên có lúc
suy giảm đáng kể. Tuy nhiên cho đến nay cùng với sự ổn định của nền chính trị, sự
mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và trên thế giới trong
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã thu hút nhiều tổ chức phi chính
phủ nước ngoài đến với Việt Nam cùng với giá trị viện trợ ngày càng tăng. Điều đó
được thể hiện qua các số liệu như năm 2008: có khoảng 630 tổ chức phi chính phủ
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam với giá trị giải ngân là 230 triệu USD/năm, đến
thống kê chỉ mới 6 tháng đầu năm 2009 thì đã tăng lên 650 tổ chức phi chính phủ
nước ngoài với giá trị giải ngân là: 100 triệu USD Tình hình về hoạt động viện trợ
của các TCPCPNN: Viện trợ của các TCPCPNN thường rất đa dạng và không ổn
định. Phương thức hoạt động cơ bản của các TCPCPNN là trực tiếp làm dự án và
trực tiếp quan hệ với địa phương cơ sở. Giai đoạn 1989 đến nay là thời kỳ đa số
các TCPCPNN tiến hành các dự án mang tính phát triển bền vững. Cho đến nay có

4


trên 80% giá trị viện trợ tập trung cho các dự án này. Hiện nay chưa thể phân định
một cách chính xác tỷ lệ viện trợ phi chính phủ theo từng ngành, nhưng có thể
phân loại giá trị viện trợ theo 6 lĩnh vực chính: Y tế, giáo dục, phát triển kinh tế, xã
hội, môi trường và viện trợ khẩn cấp. Để tiếp tục chủ động tranh thủ, quản lý tốt
hoạt động và nâng cao hiệu quả sử dụng viện trợ phi chính phủ, chính phủ ta đã tổ
chức hai Hội nghị quốc tế lớn tại Hà Nội, đó là Hội nghị Tổng kết 10 năm (19912001) công tác phi chính phủ nước ngoài (tháng 2/2002) và Hội nghị quốc tế về sự
hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (tháng 11/2003).
Kết quả của hai hội nghị trên đã và đang đóng góp vào những nỗ lực của Nhà nước
ta nhằm tạo môi trường ngày càng thuận lợi hơn về cơ chế và pháp lý cho các hoạt
động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam trong hiện tại và
tương lai.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN
LÝ TCPCPNN
1. Các văn bản pháp luật quy định
Thực hiện chủ trương và chính sách của Nhà nước ta về mở rộng quan hệ
đối ngoại theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá, để tạo điều kiện cho các hoạt
động của các TCPCPNN nước ngoài tại Việt Nam được tiến hành có hiệu quả,
mang lại lợi ích thiết thực và phù hợp với luật pháp và tập quán Việt Nam, kể từ
năm 1996, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật liên quan:
+ Quyết định số 340/TTg ngày 24/05/1996 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Quy chế về hoạt động của các TCPCPNN tại Việt Nam.
+ Thông tư số 22/1999/TT-BTC ngày 26/02/1999 của Bộ Tài chính về quản
lý viện trợ không hoàn lại.
+ Thông tư số 02/2000/TT-BTC ngày 05/01/2000 của Bộ Tài chính về việc
hướng dẫn hoàn thuế Giá trị gia tăng (GTGT) đối với hàng hoá, dịch vụ do các tổ
chức trong nước mua hàng bằng tiền viện trợ nhân đạo của nước ngoài.
5



+ Quyết định số 59/2001/QĐ-TTg ngày 24/04/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thành lập Uỷ ban Công tác về các tổ chức PCPNN.
+ Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/04/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ PCPNN.
+ Thông tư số 04/2001/TT-BKH ngày 05/06/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư hướng dẫn thục hiện Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/04/2001 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi chính
phủ nước ngoài.
+ Thông tư số 70/2001/TT-BTC ngày 24/08/2001 của Bộ Tài chính hướng
dẫn chế độ quản lý tài chính nhà nước đối với nguồn viện trợ không hoàn lại.
+ Chỉ thị số 11/2002/CT-TTg ngày 17/04/2002 của Thủ tướng Chính phủ
về chấn chỉnh công tác quản lý, sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài.
+ Quyết định số 286/2006/QĐ-TTg ngày 27/12/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành “Chương trình quốc gia xúc tiến vận động viện trợ phi chính
phủ nước ngoài giai đoạn 2006-2010”.
2. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về TCPCPNN
Để TCPCPNN hoạt động được hiệu quả và tuân thủ pháp luật Nhà nước ta
đã tiến hành xác lập tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước như sau:
- Quốc hội: Ban hành các văn bản pháp luật quy định về tổ chức, hoạt động
và quản lý tổ chức phi chính phủ quy định công tác về mặt quản lý nhà nước
nhằm... tạo ra hành lang pháp lý cho các TCPCP.
- Chính phủ có nhiệm vụ quản lý về TCPCPNN như sau:
+ Ban hành các văn bản hướng dẫn và quy định chi tiết những văn bản pháp
luật Quốc hội ban hành.
+ Ban hành các văn bản quy định những chính sách ưu đãi và tạo những
điều kiện hỗ trợ đảm bảo cho sự hoạt động của các TCPCP.
+ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về mọi nguồn viện trợ của các
6



TCPCPNN; điều phối, giám sát để đảm bảo nguồn viện trợ đúng mục đích và có
hiệu quả.
+ Chỉ đạo các cơ quan chức năng của Chính phủ và các cấp cấp ngành thực
hiện tốt nhiệm vụ quảm lý Nhà nước theo thẩm quyền chính phủ phân công phân
cấp.
- Ủy ban Công tác các TCPCP: Là cơ quan được Chính phủ giao quản lý
về các TCPCPNN có nhiệm vụ:
+ Đề xuất những chủ trương, chính sách liên quan đến các TCPCPNN hoạt
động tại Việt Nam; phối hợp các cơ quan liên quan để hướng dẫn, theo dõi, kiểm
tra việc thực hiện pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động của các
TCPCPNN.
+ Quản lý việc xét, cấp, sửa đổi và thu hồi Giấy phép hoạt động, Giấy phép
lập văn phòng dự án, Giấy phép lập văn phòng đại diện của TCPCPNN tại Việt
Nam theo Quy chế hoạt động của các TCPCPNN tại Việt Nam ban hành kèm theo
Quyết định số 340/TTg ngày 24 tháng 5 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình hoạt động của các
TCPCPNN tại Việt Nam.
+ Thực hiện các nhiệm vụ công tác khác về TCPCPNN do Thủ tướng
Chính phủ giao.
Ngoài ra còn có các cơ quan, bộ ban ngành được Nhà nước giao nhiệm vụ
như: Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (cơ quan thường trực của ủy ban về
công tác tổ chức phi chính phủ nước ngoài), Ban điều phối viện trợ nhân dân
(PACCOM), Ban Giám đốc (PACCOM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính,
Bộ Ngoại giao và các tổ chức đoàn thể được Nhà nước ủy quyền. Và hệ thống
hành chính là Ủy ban nhân dân các cấp với những nhiệm vụ và quyền hạn mà
Chính phủ giao cho.

7



CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TCPCPNN ĐỐI
VỚI NHÓM KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TCPCPNN
ĐỐI VỚI NHÓM NGƯỜI TÀN TẬT TẠI VIỆT NAM
Tổ chức phi chính phủ (hay còn gọi là NGOS) ngày càng đóng vai trò đáng
kể trong đời sống kinh tế - xã hội, giáo dục, y tế, môi trường và nhân đạo…tại
nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Các NGOs đang tham gia sâu vào
nhiều lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, giúp đỡ phụ nữ, bảo vệ môi trường…. Đặc
biệt, các nguồn vốn này được ưu tiên nhiều hơn cho các vùng nông thôn, cho các
đồng vào dân tộc thiểu số và nhóm người tàn tật, chịu nhiều tổn thương từ hậu quả
của chiến tranh.
Nguồn viện trợ này đóng góp vai trò hết sức quan trọng trong công tác giúp
đỡ nhóm người khuyết tật, nhưng người có hoàn cảnh khó khăn và chịu nhiều tổn
thương từ hậu quả của chiến tranh. Trong đó, phải kể đến các dự án sau:
Thứ nhất, các dự án liên quan đến vấn đề xã hội: giúp đỡ cộng đồng nhũng
người có hoàn cảnh khó khăn như: tàn tật, nạn nhân chịu tổn thương nặng nề của
chiến tranh. Và các đại dịch như HIV/AIDS, ma túy, các tệ nạn xã hội như mại
dâm, trộm cắp….
Thứ hai, các dự án liên quan đến y tế: Cung cấp các dịch vụ trị liệu cần thiết
để cải thiện các chức năng khả quan vận động hằng ngày, làm việc và giao tiếp.
Các dụng cụ hỗ trợ như: dụng cụ trợ thính, bộ phận giả, xe lăn…Tuyên truyền
chính sách nhằm tăng cường mức độ sẵn có và chất lượng của các dịch vụ trị liệu.
Xây dựng các chương trình đào tạo về dịch vụ trị liệu cho các nhân viên, kỹ thuật
viên trị liệu và cán bộ kỹ thuật….
Thứ ba, các dự án về giáo dục: các dự án cung cấp các trang web về các
dịch vụ hỗ trợ người khiếm thị trong khuôn khổ một dự án do Bộ TT&TT hỗ trợ;
trang web hỗ trợ NKT khởi nghiệp; Cổng Tiếp cận Công nghệ Thông tin & Truyền
8



thông (CNTT&TT); Hệ thống học tập trực tuyến; tích hợp phần mềm JAWS (phần
mềm đọc màn hình) để đọc nội dung tiếng Việt trên màn hình; Hệ thống Giao tiếp
cho người khiếm thính; các thiết bị dò đường cho người - 34 - khiếm thị; các Hệ
thống vận hành bằng giọng nói cho xe lăn thông minh; Hệ thống đọc tin nhắn
VIVAVU.
Thứ tư, các dự án liên quan đến phát triển kinh tế, các chính sách nhằm cải
thiện cuộc sông cho người khuyết tật. Dự án “Xây dựng môi trường đào tạo CNTT
thân thiện với NKT nhằm giảm khoảng cách cong nghệ số tại Hà Nội, Việt Nam”.
Mục tiêu của dự án: Mở rộng cơ hội việc làm và thúc đẩy hòa nhập xã hội thông
qua việc nâng cao kỹ năng CNTT cho NKT; Kết quả dự án: Thúc đẩy môi trường
giáo dục hòa nhập nhằm xóa bỏ khoảng cách cong nghệ số thông qua việc cải thiện
môi trường giáo dục nhằm giúp NKT tiếp cận dễ dàng hơn, và cung cấp các thiết bị
giáo dục cho NKT; Cung cấp các khóa đào tạo CNTT cho 104 NKT tại các Trung
tâm dạy nghề quận Hoàng Mai và Gia Lâm.Những NKT đã được đào tạo về CNTT
sẽ được kết nối với các nhà tuyển dụng thông qua mạng lưới của Trung tâm Giới
thiệu Việc làm Hà Nội, Trung tâm Giới thiệu Việc làm Thanh niên, Trung tâm dạy
nghề, các doanh nghiệp và Hội NKT; Trung tâm mua sắm Huyndai Hà Nội hiện
đang có nhu cầu tuyển dụng 100 NKT……
Thứ năm, dự án Hòa nhập NKT trong quản lý giảm thiểu rủi ro thiên
tai/biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng....
Các dự án trên được thực hiện lồng ghép vào nhau, hỗ trợ nhau cùng hoàn
thiện nhằm đạt kết quả cao. Góp phần thực hiện mục tiêu hành động của các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài khi đến việt nam. Và đặc biệt là hoạt động đối với
nhóm người tàn tật, nhóm người chịu hậu quả nặng nề từ chiến tranh.
II. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Kết quả chung
9



Trong những năm qua nhiều TCPCPNN, TCPCP quốc tế bên cạnh việc hỗ
trợ các hoạt động như văn hóa, giáo dục; y tế; hỗ trợ phát triển nông nghiệp - nông
thôn.... thì các tổ chức này cũng tham gia vào việc hỗ trợ, giúp đỡ người khuyết tật
Việt Nam.
Tính cho tới thời điểm hiện nay thì có 06 TCPCPNN nòng cốt hoạt động
trên lĩnh vực này.
Các diễn đàn về người khuyết tật Việt Nam được nhiều các TCPCPNN
quan tâm.
Một số TCPCPNN chuyên ngành coi trọng tâm là “giúp đỡ người khuyết
tật”, đã tổ chức phát triển các hoạt động cụ thể thành một phần của một số chương
trình lớn.
Các chương trình mà các TCPCPNN hướng đến khi hỗ trợ người khuyết tật
Việt Nam thường là các hoạt động như: nâng cao chất lượng dịch vụ y tế; tăng tỷ lệ
trẻ khuyết tật đến trường; nâng cao cơ hội việc làm cho người khuyết tật; thực hiện
các chương trình phẫu thuật chỉnh hình, vật lý trị liệu, các thiết bị hỗ trợ... nhằm
nâng cao chất lượng sống cho người khuyết tật.
2. Một số hoạt động cụ thể của một số các tổ chức phi chính phủ nước
ngoài
*Trung tâm Dữ liệu các TCPCPNN, được thành lập năm 1993 thông qua sự
hợp tác giữa các TCPCPNN hoạt động tại Việt Nam, và Liên Hiệp các Tổ chức
Hữu nghị Việt Nam (VUFO). Trung tâm phục vụ chủ yếu cộng đồng các
TCPCPNN hoạt động tại Việt Nam. Trung tâm có khoảng 120 tổ chức thành viên,
Các dịch vụ của Trung tâm cũng mang lại lợi ích cho các tổ chức khác như các
TCPCP Việt Nam, các tổ chức INGOs phi thành viên, các cơ quan Liên Hợp Quốc,
cộng đồng những nhà tài trợ tại Việt Nam, các cơ quan chính phủ, đối tác địa
phương và những nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế).
10



Trung tâm có 13 nhóm làm việc về các lĩnh vực, trong đó có nhóm về công
tác khuyết tật (năm 2006 nhóm làm việc về khuyết tật (sau đây gọi tắt là DWG) đã
chính thức được thành lập và hoạt động với tư cách như là một nhóm thành viên
của Trung tâm Dữ liệu các TCPCP).
Nhóm có một số những hoạt động như: đào tạo nghề, xúc tiến việc làm cho
người khuyết tật; thực hiện các công tác xã hội, giáo dục, phục hồi chức năng cho
người khuyết tật; giáo dục cho trẻ em khuyết tật hòa nhập với môi trường sống.
Bên cạnh đó việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về người khuyết tật cũng là
yêu cầu quan trọng cấp thiết mà nhóm công tác khuyết tật quan tâm, chú ý. Đây
cũng là cơ hội tốt cho các tổ chức, cá nhân có liên quan về công tác người khuyết
tật xem xét, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao hiểu biết và quan niệm cơ bản về người
khuyết tật.
* Nhóm Công tác về Khuyết tật
Năm 2007 nhóm công tác về khuyết tật (gọi tắt là DWG) chính thức được
thành lập và hoạt động theo sự hướng dẫn và bảo trợ của Trung tâm Dữ liệu các
TCPCPNN. DWG hoạt động không chỉ giới hạn trong các TCPCPNN Quốc tế mà
cònmở rộng với sự tham gia của các cơ quan chính phủ, các cá nhân và TCPCP
trong nước cũng như các tổ chức khác có cùng mối quan tâm đến người khuyết tật.
Hoạt động chủ yếu của DWG là tổ chức những buổi họp định kỳ 2 tháng
một lần với những chủ đề thảo luận được lựa chọn dựa trên nhu cầu trao đổi thông
tin hàng năm của các thành viên tham gia. Trong năm 2014, một loạt các chủ đề đã
được đưa vào kế hoạch 2014, tập trung chia sẻ và cập nhật thông tin kinh nghiệm
về các vấn đề:
• Tiếp cận (giao thông, các tòa nhà, công nghệ thông tin và các dịch vụ);
• Can thiệp giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật
• Chủ đề sinh kế cho người khuyết tật: dạy nghề, việc làm và tín dụng vi
11




• Sự phát triển của các Hội NKT (gọi tắt là DPO)
• Hòa nhập người khuyết tật trong quản lý giảm thiểu rủi ro thiên tai dựa
vào cộng đồng
• Tài liệu hóa các mô hình hỗ trợ người khuyết tật tốt nhất từ các tổ chức
phi chính phủ trong nước và quốc tế
• Quy định về các việc áp dụng các tiêu chuẩn và công nghệ dành cho NKT
• Các đài truyền hình quốc gia nên bổ sung chức năng hỗ trợ người khiếm
thính (phụ đề, ngôn ngữ ký hiệu) trên ít nhất một kênh tin tức
• Các nhà sản xuất, nhập khẩu và phân phối thiết bị hỗ trợ NKT cần tuân
thủ quy định ITU E.161 (02/2001) về việc sắp xếp ký tự số, ký tự chữ và ký hiệu
trên điện thoại và các thiết bị khác có thể dùng để truy cập mạng điện thoại
• Các cơ quan Chính phủ cần tuân thủ: WCAG v1.0 (Nguyên tắc về nội
dung Web tiếp cận, phiên bản 1.0)
* Quỹ đặc biệt dành cho người khuyết tật (SFD): bắt đầu hoạt động tại Việt
Nam từ năm 1989 và tập trung cung cấp các hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo
khuyết tật vận động, bao gồm các thiết bị như xe lăn và các dụng cụ chỉnh hình.
SFD đã hợp tác với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA) và Hội Chữ
thập đỏ Việt Nam (VNRC) trong công tác hỗ trợ NKT. VNRCsẽ chịu trách nhiệm
điều tra số người khuyết tật, sau đó SFD sẽ chi trả cho các thiết bị và chi phí cho
NKT khi họ đến Trung tâm Phục hồi chức năng. SFD hướng tới hỗ trợ những
người khuyết tật không thuộc diện hưởng trợ cấp của Chính phủ.
* Tổ chức Tình Nguyện vì Giáo Dục (V.E.O): đây tổ chức phi lợi nhuận hỗ
trợ giáo dục tại Việt Nam. Tổ chức là một cộng đồng mạng lưới kết nối các tình
nguyện viên trên toàn thế giới nhằm chung tay giúp đỡ những đối tượng khó khăn
thông qua các chương trình giáo dục của tổ chức. Với sứ mệnh phát triển con
người thông qua các chương trình hỗ trợ giáo dục, V.E.O nhằm mang đến những
12


lợi ích lâu dài và mang lại cơi hội nghề nghiệp và một cuộc sống phát triển ổn định

cho những đối tượng là những người khuyết tật, yếu thế trong xã hội.
Để giúp đỡ những người khuyết tật dễ dàng hòa nhập với cộng đồng và
nang cao cơ hội việc làm thì tổ chức Tình nguyện vì giáo dục đã tổ chức chương
trình “Dạy tiếng Anh cho người khuyết tật trung tâm Thương Thương” là chương
trình tình nguyện nhằm mục đích trợ giúp cho người khuyết tật tại Trung tâm
Thương Thương ở Thôn Nam Phú, Xã Nam Phong, Huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
* Trong thời gian hoạt động 22 năm của mình, HI ( Tổ chức phi lợi nhuận
phi tôn giáo và chính tri) tại Việt Nam triển khai thực hiện 36 dự án xuyên suốt 9
lĩnh vực khuyết tật và 11 lĩnh vực phát triển ổn định. Nhiệm vị của HI hiện tại
nhằm phối hợp với chính quyền địa phương về các phương pháp, các chiến lược và
dịch vụ quốc gia (phòng ngừa, chăm sóc phục hồi chức năng; hòa nhập kinh tế và
xã hội, nhân quyền) để đảm bảo tính bền vững của mô hình can thiệp mang lại lợi
ích cho các nhóm dễ bị tổn thương nhất Handicap International là tổ chức phi
chính thủ hoạt động trong lĩnh vực phòng ngừa và hạn chế hậu quả của khuyết tật
thông qua việc hỗ trợ người khuyết tật hoặc người có nguy cơ khuyết tật, giúp họ
hướng tới sự nỗ lực tự lập và hòa nhập xã hội.
* Bên cạnh các tổ chức trên thì còn có một số các TCPCPNN hỗ trợ người
khuyết tật Việt Nam như: Hội trợ giúp người tàn tật Việt Nam( VNAH- Hoa Kỳ);
Mạng lưới tình nguyện viên toàn cầu ( Global Volunteer Network); Quỹ cựu chiến
binh Hoa Kỳ tại Việt Nam (VVAF- Hoa kỳ).
Trên đây là một số các hoạt động nổi bật của TCPCPNN hỗ trợ người
khuyết tật Việt Nam, mặc dù các chương tình hỗ trợ người khuyết tật chưa được
nhiều... nhưng đã phần nào đóng góp tích cực vào công tác hỗ trợ, nâng cao nghị
lực sống cho người khuyết tật, tạo cơ hội việc làm, dần xóa bỏ sự kỳ thị của cộng
đồng đối với những người yếu thế trong xã hội.

13


II. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TCPCPNN

TỚI NHÓM KHUYẾT TẬT VIỆT NAM
Thứ nhất, đã có những người thuộc TCPCPNN vào Việt Nam hoạt động
thiếu thiện chí, vi phạm chủ quyền Việt Nam. Họ lợi dụng tổ chức của mình để
truyền bá những tư tưởng phản động vào trong nước.
Thứ hai, một số TCPCPNN chưa thật sự hoạt động có hiệu quả, chưa có
những chính sách phù hợp cho đối tượng người khuyết tật ở Việt Nam. Do sự khác
nhau về văn hóa và lối tư duy nên có những chính sách của họ đưa ra không có ích
cho hoạt động của người khuyết tật ở nước ta.
Thứ ba, nhiều tổ chức triển khai các dự án viện trợ khi chưa được các cấp
có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ tư, có những hoạt động vượt quá giới hạn được phép, không đúng với
giấy đăng kí được cấp
Thứ năm, đôi lúc hoạt động của các tổ chức này chưa có sự liên kết với Nhà
nước Việt Nam, một số hoạt động không sát với thực tế nhu cầu người khuyết tật
nước ta. Việc báo cáo kết quả hoạt động của một số TCPCPNN trong lĩnh vực
người khuyết tật chưa được gửi cho Nhà nước ta một cách thường xuyên.
III. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ
1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên
mức độ giải ngân nguồn vốn theo cam kết của phần lớn các chương trình, dự án có
phần giảm xuống hoặc tiến độ triển khai chậm so kế hoạch đề ra.
Thứ hai, tỉ lệ số lượng người khuyết tật ở Việt Nam quá lớn dẫn đến
khôngthể bao quát hết, chất lượng quan tâm bị giảm sút đi.
2. Nguyên nhân chủ quan
14


Thứ nhất, đội ngũ cán bộ, nhân viên của các TCPCPNN hoạt động trong
lĩnh vực còn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận với người khuyết tật. Ví dụ: Bất đồng
ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán và tâm lí e ngại giao tiếp với người khác

của người khuyết tật.
Thứ hai, một số cán bộ, nhân viên chưa thực sự hiểu rõ về tình hình thực tế
của người khuyết tật đang gặp phải. Việc tuyển chọn cán bộ, nhân viên của các tổ
chức phi chính phủ chưa kĩ càng nên vẫn còn có hiện tượng làm việc chưa hiệu
quả.
Thứ ba, số lượng dự án nhiều, quy mô phần lớn là nhỏ và vừa; việc giám sát
và đánh giá cá dự án do các TCPCPNN tài trợ chưa được tiến hành thường xuyên,
việc đánh giá hiệu quả của các dự án còn hạn chế; chưa đánh giá được chính xác
hiệu quả thực tế của các dự án, phát hiện ra những mặt cần phát huy và những mặt
hạn chế cần khắc phục. Một số dự án vào giai đoạn cuối, kinh phí không đủ cho
một số hoạt động, gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, tình trạng thụ động, trông chờ trong vận động và khai thác viện trợ
PCPNN vẫn còn là tâm lý phổ biến, tính chủ động trong quan hệ với các
TCPCPNN của nhiều ngành và địa phương trong thành phố chưa cao. Công tác
vận động mới chỉ tập trung ở một số ngành, đoàn thể nhưng chưa tiếp cận được
những TCPCPNN có nguồn kinh phí lớn.
Thứ năm, cơ chế phối hợp giữa các ngành liên quan đến hoạt động viện trợ
TCPCPNN chưa thật cụ thể, rõ ràng, chưa có quy chế phối hợp quản lý đồng bộ từ
khâu vận động, tiếp nhận, sử dụng viện trợ PCPNN.
Thứ sáu, tại một số địa bàn hoạt động của dự án đời sống của người dân còn
nghèo, năng lực tiếp nhận và quản lý dự án của cán bộ địa phương còn yếu, trình
độ dân trí thấp, nguồn vốn đối ứng còn hạn hẹp. Hầu hết các địa phương đều thụ
động trong việc chờ đợi nguồn viện trợ dự án PCPNN mang lại, chưa tự chủ động
đánh giá nhu cầu, xây dựng hồ sơ dự án căn cứ trên tình hình thực tế của địa
15


phương để kêu gọi thu hút nguồn vốn PCPNN.
Thứ bảy, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ trong việc tiếp cận, xây dựng
hồ sơ dự án, chương trình đầu tư, đặc biệt về năng lực tiếp nhận dự án, năng lực vận

động viện trợ và ngoại ngữ còn hạn chế. Hoạt động kiểm tra, giám sát đánh giá dự
án tại cơ sở còn yếu do lực lượng cán bộ mỏng và thiếu về kinh phí, cán bộ làm
công tác vận động viện trợ thiếu đào tạo chuyên sâu, lại phải kiêm nghiệm nhiều
công tác khác nhau, do vậy ít có kinh nghiệm và thực tiễn về hoạt động với các
TCPCPNN.
Thứ tám, hệ thống pháp luật còn gặp nhiều khó khăn chưa hợp lí dẫn đến thủ
tục hành chính rườm rà, gây ra trở ngại nhất định. Các TCPCPNN e ngại khi mất
quá nhiều thời gian cho hàng rào hành chính thay vào đó họ muốn tiếp cận trực tiếp
đối tượng để thực hiện công việc hiệu quả nhất.
Thứ chín, việc áp dụng Nghị định của Thủ tướng Chính phủ về quản lý và
sử dụng viện trợ PCPNN vào thực tiễn vẫn còn gặp nhiều lúng túng; một số dự án
được trình đến khi được phê duyệt mất khá nhiều thời gian.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT
ĐỘNG CỦA TCPCPNN TẠI VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÓM KHUYẾT TẬT
TẠI VIỆT NAM
I. NHỮNG GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Một là, xây dựng và hoàn thiện thể chế, hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật cho hoạt động của các TCPCPNN tại Việt Nam. Các văn bản này phải qui
định rõ ràng các điều kiện, thủ tục, lĩnh vực hoạt động mà các TCPCPNN được
phép hoạt động, hướng hoạt động của các TCPCPNN vào mục tiêu chung của nhà
nước đối với nhóm khuyết tật. Tránh tình trạng nhiều hệ thống văn bản luật ban
hành nhưng lại không có sự trùng khớp gây khó khăn cho các TCPCPNN. Hệ
thống pháp luật về TCPCPNN phải phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế, để
16


không đưa đến những khó khăn đối với các tổ chức mang tính quốc tế. Từ đó, đơn
giản hóa các thủ tục hồ sơ, rút ngắn thời gian trong việc cấp phép hoạt động cho
các TCPCPNN.
Hai là, kiện toàn hệ thống bộ máy quản lý các TCPCPNN. Thành lập tại

mỗi địa phương một ủy ban công tác với các TCPCPNN nước ngoài. Uỷ ban đó
phải bao gồm những người có đầy đủ năng lực quản lý cũng như năng lực về
chuyên môn nghiệp vụ. Xây dựng cơ chế trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng đối với
các cấp chính quyền ở trung ương và địa phương trong việc cho phép, phối hợp và
kiểm tra các hoạt động của các TCPCPNN.
Ba là, nâng cao năng lực, ý thức và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ công chức như: Mở các lớp đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ để nâng cao trình độ
quản lý cho đội ngũ cán bộ công chức, đặc biệt là ở cấp cơ sở về quản lý
TCPCPNN.Tích cực đào tạo đội ngũ công chức trẻ, kĩ thuật viên có trình độ cao
nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác quản lý.
Bốn là, ban hành một số chính sách phù hợp nhằm tăng cường hiệu quả
quản lí như chính sách xã hội, chính sách kinh tế, và một số chính sách nhằm phối
hợp hoạt động để TCPCPNN hoạt động tại nước ta được thuận lợi.
Năm là, mở rộng quyền tự quản, tự chủ cho các TCPCPNN nước ngoài,
khắc phục dần tình trạng Nhà nước can thiệp quá sâu vào công tác quản lý cũng
như hoạt động của các TCPCPNN.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các
TCPCPNN trong các lĩnh vực. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động là công tác
trọng yếu đề kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hoạt động trá hình dưới lốt các
hoạt động tình nguyện, nhân đạo để chống phá chính quyền, chống lại khối đại
đoàn kết dân tộc. Kiểm tra hồ sơ xin cấp phép hoạt động của các TCPCPNN. Tìm
hiểu kĩ hoạt động của các tổ chức này từ mục tiêu đến hình thức hoạt động. Tại
mỗi địa phương có TCPCPNN tới, thành lập các ban thanh tra, kiểm tra để kịp thời
17


phát hiện những sai phạm và xử lý. Đình chỉ hoạt động của các TCPCPNN khi
phát hiện những hành vi phạm pháp hoặc tước giấy phép hoạt động của các tổ chức
này.
Bảy là, tổng kết, đánh giá hoạt động của các TCPCPNN nước ngoài trên

mọi lĩnh vực nói chung theo quý, nửa năm, một năm hoặc trong một giai đoạn thực
hiện chương trình, dự án.
Tám là, cần phát triển hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa chính quyền
- người dân - TCPCPNN nhằm tạo ra sự gắn bó khăng khít giữa các bên,
cùng giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện. Khi mối quan hệ này được củng
cố, cũng giúp cho TCPCPNN vào Việt Nam hoạt động một cách dễ dàng
hơn, tránh những cản trở không đáng có từ phía chính quyền đến tổ chức.

II. NHỮNG GIẢI PHÁP TỪ PHÍA CÁC TCPCPNN
Một là, các TCPCPNN tìm hiểu đúng đối tượng mà chương trình, dự án của
mình hướng tới. Tìm hiểu nguyện vọng của nhóm khuyết tật để có thể đạt được
hiệu quả cao nhất khi đưa dự án, chương trình đó vào thực hiện. Khi đã lên thành
chương trình, dự án thì các tổ chức nhanh chóng đưa chúng vào thực hiện trong
thực tế. Tiến hành các dự án đối với những đối tượng thực sự cần sự giúp đỡ. Có
một cơ chế quản lý nguồn vốn chuyên biệt, giàu kinh nghiệm chuyên môn.
Hai là, tăng cường kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham
gia quyên góp ủng hộ cho người khuyết tật, đặc biệt là các nhà đầu tư nước
ngoài.
Ba là, tăng cường sự liên kết và chia sẻ thông tin, bài học kinh
nghiệm giữa các TCPCPNN làm việc trong việc chăm sóc người khuyết tật,
18


tổ chức các sự kiện, tập huấn và các buổi hội thảo về các vấn đề liên quan
đến lĩnh vực này.
Bốn là, tiếp tục kêu gọi các tình nguyện viên Việt Nam và quốc tế để
hỗ trợ người khuyết tật tại Việt nam và quan tâm hơn nữa đến các vấn đề về
môi trường.
Năm là, mở rộng mối quan hệ hợp tác với nhiều đối tác trong và
ngoài nước để thực hiện các dự án từ thiện có ích như các trường học, các

trung tâm hỗ trợ, các hiệp hội cũng như các TCPCP quốc tế nhằm gây quỹ từ
thiện.
Sáu là, đào tạo những kỹ năng cơ bản cho người khuyết tật và người
cần cứu trợ, giúp họ có khả năng tìm việc làm trong tương lai ( công việc liên
quan đến tiếng anh, công nghệ thông tin, dịch vụ chăm sóc khách hàng,…)
Bảy là, cân đối nguồn viện trợ và quản lý chặt chẽ nguồn viện trợ, đầu
tư tập trung, tận dụng tối đa nguồn viện trợ đó, không nên đầu tư dàn trải,
không mang lại kết quả.
Tám là, tuân thủ các nguyên tắc quản lý tài chính dự án một cách chặt
chẽ nhằm tránh những sai xót không đáng có trong qua trình thực hiện, nắm
bắt và quản lý được nguồn viện trợ cho các hoạt động.
Chín là, huy động tất cả các nguồn lực dành cho dự án vào những hoạt
động chính, tác động và ảnh hưởng trực tiếp tới sự thành công của dự án, chương
trình chứ không phải dành cho bộ máy hành chính, quản lý những dự án, chương
trình đó.
19


Mười là, chủ động phối hợp với các ban ngành tại các địa phương mà
chương trình, dự án đó được thực hiện để nguồn vốn được đảm bảo được sử dụng
một cách có hiệu quả.
Như vậy, để hoạt động có hiệu quả hơn thì không chỉ cần sự cố gắng từ
phía Nhà nước mà bản thân các TCPCPNN cũng cần có sự chuẩn bị về các kế
hoạch hay chiến lược và mục tiêu cụ thể, xây dựng các chương trình mang tầm cỡ
quốc tế nhằm thu hút sự quan tâm, ủng hộ của đông đảo người dân trân thế giới đối
với các hoạt động từ thiện, đặc biệt là hỗ trợ, giúp đỡ những người tàn tật, giúp họ
có một cuộc sống ổn định và tốt đẹp hơn, đó chính là mục tiêu mà các TCPCP
hướng đến.

PHẦN KẾT LUẬN

Như vậy có thể thấy rằng trong những năm qua hoạt động của các
TCPCPNN đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong việc giúp đỡ những người khuyết
tật. Bên cạnh các cơ sở bảo trợ xã hội của nhà nước rất nhiều các tổ chức, cá nhân
đã bằng nhiều hình thức quyên góp, huy động nguồn lực để thực hiện nhiều dự án,
chương trình với giá trị hàng triệu USD. Có thể nói, đây là đóng góp rất to lớn của
các TCPCPNN tại Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu quá trình hoạt động của
TCPCPNN đối với nhóm khuyết tật để chúng ta thấy được tầm quan trọng, sự đóng
góp to lớn của các TCPCP trong lĩnh vực trên và từ đó đưa ra những biện pháp
thiết yếu nhằm tăng cường sự quản lý nhà nước với loại hình tổ chức này đồng thời
phát huy vai trò của nó trong sự phát triển đất nước.

20



×