Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tìm hiểu về hồi giáo và sự phát triển hồi giáo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.92 KB, 17 trang )

CHƯƠNG I: VÀI NÉT VỀ ĐẠO HỒI
I.

Nguồn gốc ra đời của Đạo Hồi

Hồi giáo tiếng Ả Rậpcòn gọi là đạo Islamb có nghĩa là "vâng mệnh, quy phục
Thượng Đế"., là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham. Đây là
tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Kitô giáo, và là tôn giáo đang phát triển
nhanh nhất, với số tín đồ hiện nay là 1,57 tỷ, chiếm 23% dân số thế giới.
Đối với người ngoài, đạo Hồi giáo ra đời vào thế kỷ 7 tại bán đảo Ả Rập, do
Thiên Sứ Muhammad nhận mặc khải của thượng đế truyền lại cho con người qua
thiên thần Jibrael. Đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah Đấng Tối Cao, Đấng Duy Nhất .Đối
với tín đồ, Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng được Allah mặc khải Thiên Kinh
Qur'an (còn viết là Koran) qua Thiên thần Jibrael. Sự ra đời của đạo Hồi gắn liền
với tên tuổi của Mohamet.
Chia làm 2 ..lớn: Suni và Shina
Nguyên nhân ra đời: Do hàng loạt các nguyên nhân kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn
liền với sự chuyển biến từ chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội của các tộc
người vùng trung cận đông. Và trước yêu cầu thống nhất các bộ lạc trong bán đảo
Ả Rập thành một mối, hay chính là nhu cầu đòi hỏi phải có một sức mạnh thống
nhất các tộc người Ả Rập.
II . Đặc điểm của đạo Hồi.
1. Nhất thần
Đạo Hồi là một tôn giáo nhất thần. Vị thần duy nhất mà đạo Hồi tôn thờ đó là vị
thánh Ala.Tín đồ Hồi giáo tin rằng: ngoài chúa Ala không có vị thần nào khác.Tất
cả trên trời dưới đất đều thuộc về Ala.Ala đã dựng nên vòm trời mà không dùng
cột, chế ngự được mặt trời, mặt trăng, tạo ra mặt đất rồi đặt trên đó, đây là núi, kia
là sông. Ala cũng sinh ra loài người và biết linh hồn mỗi người ra sao.Ala có một
số thiên thần giúp việc làm thư kí ghi chép những hành vi thiện ác của mỗi người



và làm sứ giả.Còn Mohamet là người được Ala giao cho sứ mệnh truyền bá tôn
giáo nên chỉ là sứ giả của Ala và lá tiên tri của tín đồ
2. Không thờ tượng , tranh ảnh
Đạo Hồi không giống với nhiều tôn giáo khác ở chỗ: tuyệt đối không thờ tượng
thần. Vì đạo Hồi cho rằng thánh Ala là chúa duy nhất của vũ trụ, ngoài ra không có
chúa nào khác. Thánh Ala là đấng kiến tạo ra tất cả trời đất và vạn vật, điều khiển
mọi sự sinh tồn trong vũ trụ. Sức mạnh của Thánh Ala toả khắp nơi, không có một
hình tượng nào có thể thể hiện được Ala, nếu dám so sánh công trình của con
người với công trình của Thiên Chúa sẽ là mắc trọng tội, xúc phạm Thánh. Bởi
vậy, nếu đi vào trong các kiến trúc của đạo Phật ta thấy có thờ tượng Phật, trong
nhà thờ Thiên Chúa giáo có hình tượng Chúa Giê su, thì trong các nhà thờ Hồi giáo
tuyệt nhiên không có tượng và tranh ảnh. Thánh đường Hồi giáo chỉ trang trí bằng
dòng chữ Arập được trích từ kinh Coran và một chỗ lõm khoét sâu vào tường đặt
kinh Coran và một số sách thánh khác. Riêng nhà thờ chính ở Mécca- nơi được coi
là đất thánh của đạo Hồi- có thờ một phiến đá đen (thánh vật) được giữ lại từ thời
Môhamét truyền đạo.
3. Kinh Qu’ran “ Tôn chỉ của Đạo Hồi và giáo lí của đạo Hồi”
KHÁI QUÁT: Giáo lý cơ bản của đạo Hồi là kinh Koran. Tuy cùng một hệ thống
nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham nhưng giáo lý Hồi giáo không
chịu ảnh hưởng tư tưởng của Ki tô giáo và Do Thái giáo.
Thể hiện rõ trong kinh Koran (trong 6219 câu của kinh này đã thể hiện nội dung
của kinh Cựu Ước và Tân Ước). Không như những tôn giáo bạn, đạo Hồi chỉ có
duy nhất một quyển thiên kinh Qur'an, gồm có 114 chương, 6236 tiết. Đối với các
tín đồ Hồi giáo, thiên kinh Qur'an là một vật linh thiêng, vì đó chính là lời phán của
Allah Đấng Toàn Năng.
Allah là Đấng Tạo Thiên Lập Địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không
hề có người bạn đường? Chính Ngài là Đấng đã sáng tạo và thông hiểu tất
cả mọi vật." (trích 6:101)
 Đặc điểm giáo lý của Hồi giáo là rất đơn giản nhưng luật lệ và lễ nghi rất
phức tạp và nghiêm khắc thậm chí đến mức khắt khe và nhiều khi nó vượt ra



khỏi phạm vi tôn giáo và trở thành một chuẩn mực pháp lý của xã hội. Trong
Hồi giáo khó thấy ranh giới giữa cái thiêng và cái tục.
*Giáo lý Hồi giáo gồm các điểm cơ bản sau:
+ Allah là đấng tối cao sinh ra trời đất.
+ Allah là đấng tối cao sinh ra muôn loài trong đó có con người.
+ Con người là bình đẳng trước Allah nhưng số phận và tài năng tạo nên sự khác
nhau giữa những con người .
+ Số phận con người có tính định mệnh và do Allah sắp đặt.
+ Tín đồ Hồi giáo phải luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo) thì phải
kiên nhẫn chịu đựng, phục tùng Allah, đối với người ngoài thì phải kiên quyết bảo
vệ mọi lợi ích của Hồi giáo và phải có tinh thần thánh chiến.
*Những lời khuyên về đạo lý:
• Tôn thờ thần cao nhất là Allah.
• Sống nhân từ độ lượng.
• Thưởng phạt công minh, trừng phạt chủ yếu đối với kẻ thù.
• Thánh chiến là thiêng liêng và bắt buộc.
• Kiên định và nhẫn nại trong mọi thử thách.
• Tin vào định mệnh và sự công minh của Allah.
• Cấm một số thức ăn: thịt heo, rượu bia và các chất có men. (Heo là con vật
gắn với khởi nguyên: phát triển là nhờ chăn nuôi).
• Trung thực.
• Không tham của trộm cắp
• Làm lễ và tuân thủ các nghi lễ Hồi giáo.
Đạo Hồi không có Mười điều răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qur'an cũng liệt kê
mười điều tương tự:
1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Á Rập là Allah).
2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
3. Tôn trọng quyền của người khác.

4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
5. Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (*).
6. Cấm ngoại tình.
7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
8. Hãy cư xử công bằng với mọi người.
9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
10.Hãy khiêm tốn
NOTE:
Trường hợp đặc biệt được phép giết người mà không bị trọng tội là:
1) Trong khi kháng cự hoặc chiến đấu chống lại những kẻ lùng giết người đạo
mình nhằm cưỡng bách bỏ đạo. Nhưng nếu chiến thắng, phải noi gương thiên sứ
Muhammad, tha thứ và đối xử nhân đạo với phần đông kẻ bại trận.


2) Giết những tên sát nhân để trừ hại cho dân lành.
III. PHONG TỤC
1.Ăn uống
- Nghiêm cấm ăn máu, thịt con vật đã chết trước khi được cắt tiết theo nghi
thức; không được ăn thịt lợn vì lợn là con vật ô uế.
- Nghiêm cấm uống rượu và các thức uống lên men
- Nghiêm cấm ăn những con vật ăn thịt sống hay ăn tạp (như chó, mèo, chuột,
v.v.)
- Người Hồi giáo chỉ được ăn thịt halal, tức là thịt đã được giết mổ theo nghi
thức của đạo Hồi. Tuy nhiên, trong trường hợp tuyệt đối không có gì ăn, họ
được ăn mọi thứ để duy trì sự sống.
2. Về quan hệ gia đình
- Đạo Hồi thừa nhận chế độ đa thê, nhưng chỉ được lấy nhiều nhất bốn vợ.
Đàn ông Hồi giáo có thể lấy người theo đạo Do Thái hay đạo Kito, không được
lấy vợ theo đa thần giáo. Cấm lấy nàng hầu, trừ riêng Mohamet ( ông có 10 vợ
và 2 nàng hầu). Nghiêm cấm cờ bạc.

3. Nghiêm cấm:
- Cờ bạc, rượu chè.
- Nghiêm cấm gian dâm và trai gái quan hệ xác thịt trước khi cưới hỏi ( đôi
trai gái bị ném đá đến chết or đôi trai đồng tính cũng bị phiến quân ném đá đến
chết sau khi ôm an ủi- trên mạng internet).
- Hồi giáo nghiêm cấm kỳ thị chủng tộc và tôn giáo, tín đồ Hồi giáo không
được phép chỉ trích cũng như phán xét người khác.
4. Nghi thức làm lễ hàng ngày
- Người Hồi giáo phải làm lễ vào lúc bình minh, trưa, hoàng hôn ,tối và đêm.
Dù bất kỳ họ đang làm gì thì đều phải dừng lại và hành lễ. Chán và mặt cúi chạm
đất, mặt quay về hướng thánh địa Meca. Chân tay phải rửa thật sạch.
5. Tháng ăn chay Ramada( nói kỹ hơn về tháng này)
Hàng năm phải thực hiện tháng ăn chay Ramadan để tưởng nhớ và biết thương
xót người nghèo. Tháng này tính theo lịch Mặt Trăng. Trong tháng này, khi còn
ánh sáng Mặt Trời, họ không được ăn và uống, đến đêm thì mới ăn. Cũng trong
tháng này, con người phải tha thứ và sám hối, vợ chồng không được gần nhau


vào ban ngày nhưng ban đêm vẫn có thể ân ái với nhau. Trẻ em và phụ nữ có
mang không phải thực hiện Ramadan.
Trong những ngày này họ đi làm từ thiện để cứu giúp những nguời nghèo khổ
trên đất nước mình thể hiện tình yêu thương lẫn nhau và sự nhân đạo của người
Hồi giáo( chiếu hình ảnh và clip).
6. Hành hương tại Meca 1 lần trong đời
- Thánh đường Hồi giáo là nơi sinh hoạt tập thể và có tính thiêng với các tín đồ.
Thánh đường gồm có Đại Thánh đường và Tiểu Thánh đường. Trong Thánh đường
có bài trí đơn giản, không bàn ghế, không có đồ thờ quý hay nhạc cụ, chỉ có chiếc
gậy mà theo truyền thuyết là của giáo chủ Môhammet đã dùng nó để đi truyền
đạo.
-Triều: Các tín đồ có nghĩa vụ hành hương về Mecca ít nhất 1 lần trong cuộc

đời, để triều bái Kabah trong tháng 12 theo lịch Hồi (hành hương Haji). Cuộc lễ
triều bái kéo dài trong 10 ngày. Ngày cuối cùng tín đồ sẽ hiến lễ là một con cừu
hoặc lạc đà, hoặc một con vật có sừng. Triều bái Mecca trong dịp này là chính
triều. Còn phó triều thì diễn ra trong thời gian bất kỳ của năm và ít nghi lễ hơn.
Ngoài ra, Hồi giáo còn có nhiều quy định cụ thể về hành vi của tín đồ trong các
mối quan hệ xã hội.
-Với dân số 1.700.000 (2008), thành phố có vị trí 73 km (45 dặm) từ nội địa
Jeddah trong một thung lũng hẹp ở độ cao 277 m (909 ft) trên mực nước biển.
Mỗi năm, hàng triệu người Hồi giáo thực hiện Hajj hành hương đến Mecca đi bộ
bảy lần quanh Kaaba và hơn 13.000.000 người thăm Mecca hàng năm.

IV. NHỮNG ĐIỀU HOANG ĐƯỜNG CỦA HỒI GIÁO.
1. Trang phục phụ nữ
2. Phân biệt giới tính
3. Bạo lực
4.

CHƯƠNG II:HỒI GIÁO TẠI VIỆT NAM
1.Con đườngHồi giáo vào Việt Nam
Ở Việt Nam cộng đồng Hồi giáo chỉ chiếm một tỷ lệ rất thấp so với toàn thể
dân số Việt Nam (0.075%).


Người Chăm bắt đầu tiếp nhận đạo Hồi từ cuối thế kỷ 10 sang đầu thế kỷ 11, bên
cạnh tôn giáo chính là Ấn Độ giáo và một thiểu số theo đạo Phật. Số tín đồ tăng
dần qua liên hệ với vua Hồi xứ Malacca nhưng phải đến thế kỷ 17 sau khi Champa
bị Việt Nam thôn tính thì đạo Hồi mới trở nên thịnh hành với người Chăm, do tình
hình chiến tranh liên miên và thất bại, vương triều dần suy yếu và niềm tin vào đạo
Hinđu dần giảm sút nên đạo Hồi đã bám rễ được vào một bộ phận người Chăm.
Nhiều nhóm Chăm Hồi giáo đã di cư sang Cao Miên cư trú (nay là An Giang, Việt

Nam hoặc Kong pong Chàm, Campuchia), thậm chí sang Malaysia;
2.Sự phát triển của Hồi giáo ở Việt Nam
Vào giữa thế kỷ 19, với sự thống trị của người Pháp ở Đông Dương, nhiều tín đồ
đạo Hồi người Chăm đã di cư ngược từ Cao Miên vào vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, phát triển cộng đồng Hồi giáo ở Việt Nam. Điều này lý giải vì sao các tín đồ
Hồi giáo tại Việt Nam tập trung chủ yếu từ miền Trung đổ vào miền Nam Việt
Nam.
Do vị trí địa lý và hoàn cảnh truyền đạo, điều kiện sống và sự giao lưu của người
dân tộc Chăm với bên ngoài nhất là với thế giới Hồi giáo mà ở Việt Nam hình
thành 2 khối Hồi giáo với nhiều khác biệt đáng kể:




Hồi giáo miền Trung Việt Nam gọi là Hồi giáo Chăm Bani. Đây là nhóm Hồi
giáo không chính thống vì đã pha lẫn với yếu tố sinh hoạt và tôn giáo bản địa.
Các lễ thức được tiếp biến cho phù hợp với chế độ gia đình mẫu hệ và các lễ
liên quan đến chu kỳ đời sống của con người và các lễ thức nông nghiệp, không
có liên hệ với Hồi giáo thế giới. Có thể nói rằng, Hồi giáo Bàni ở Việt Nam là
tôn giáo đặc trưng chỉ có ở Việt Nam, nó gắn chặt với dân tộc Chăm, là một
phần tạo nên bản sắc văn hoá tôn giáo của người Chăm, mặt khác chính bản sắc
văn hoá của người Chăm đã có tác động làm "mềm hoá" tính cứng nhắc của
Hồi giáo, làm cho hệ phái Hồi giáo ở Việt Nam phong phú và đa dạng.
Hồi giáo ở miền Nam Việt Nam là Hồi giáo Chăm Islam, theo Hồi giáo chính
thống, thuộc hệ phái Safi'i dòng Sunni, không bị pha trộn với phong tục, tập
quán, tín ngưỡng cũ và thường xuyên liên hệ với thế giới Hồi giáo Campuchia
và Malaysia.

Hồi giáo Mã Lai có ảnh hưởng lớn với cộng đồng người Chăm qua những
bài khutba soạn bằng tiếng Mã Lai. Người Chăm cũng thường tìm

sang Malaysia tu học giáo lý và tiếp nhận tư tưởng đạo Hồi qua sự diễn dịch của
người Hồi Mã Lai.
Tuy có sự khác nhau nhưng giữa hai khối Hồi giáo này không có sự kỳ thị mà hòa
hợp với nhau.
Từ thời Pháp thuộc, tại Nam Kỳ đã có tổ chức Saykhon Islam đại diện cộng đồng
Hồi giáo cho người Chăm và Mã Lai. Năm 1960, dưới thời Tổng thống Ngô Đình


Diệm, cộng đồng người Chăm Hồi giáo lập ra "Hiệp hội Chăm Hồi giáo Việt Nam"
có văn phòng đặt tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hoà. Năm 1966, có thêm tổ chức
"Hội đồng giáo cả các Thánh đường Hồi giáo Việt Nam" đặt văn phòng tại Châu
Đốc. Cả 2 tổ chức này cùng tồn tại cho đến tận năm 1975.
3.Đặc điểm Hồi giáo của người Chăm ở Việt Nam
3.1 Sự khác biệt giữa 2 nhánh Hồi giáo của người Chăm ở Việt Nam
Nguời Chăm theo đạo Hồi ở Việt Nam chia thành hai nhánh: Chăm Bàni
(một bộ phận Chăm Islam) ở miền Trung và Chăm Islam ở Nam Bộ.
• Người Chăm theo Hồi giáo ở Ninh Thuận và Bình Thuận là những người
“Hồi sớm”, tức là đến sớm mà không sâu, căn bản vẫn là Chăm, lưu giữ
và pha trộn nhiều tập tục Hindu trong tín ngưỡng và cấm kị Hồi giáo. Họ
không theo đầy đủ, không đúng quy tắc và không liên hệ gì với thế giới
Hồi giáo cũng như với những đồng đạo của mình ở miền Nam. Họ không
biết giáo lý Hồi giáo, không biết chữ Arab, không thông hiểu kinh Coran
(chỉ một vài người đứng đầu có thể đọc được kinh Coran bằng tiếng Arab
nhưng không phải tiếng Arab hiện đại).
Cộng đồng người Chăm ở miền Trung hình thành hai thực thể khác nhau,
sống bên cạnh nhau. Người Chăm theo tôn giáo truyền thống (Hindu giáo) tự gọi
mình là Chăm Bàlamôn hay chăm Jat (tiếng Phạn Jati = gốc, nguồn gốc), còn
người Chăm theo Hồi giáo tự gọi mình là Chăm Bàni (tiếng Arab thì Beni = con,
tức là con cháu của thánh Allah) và gọi người Chăm Jat là Chăm Kaphir “vô
đạo”… Mỗi nhóm theo những phong tục, tập quán, quy tắc khác nhau… Tuy

nhiên, họ không có thái độ kỳ thị nhau, cùng tổ chức và tham dự lễ hội cổ truyền:
lễ Kate, Chabun và các nghi lễ truyền thống khác.
• Còn lại người Chăm ở Nam Bộ là những tín đồ Hồi giáo nhiệt thành.
Mỗi làng hay mỗi cụm làng là một giáo khu, có một thánh thất, nhiều
khi chỉ là một căn nhà lớn hơn nhà bình thường một chút. Cả vùng có
một thánh đường và một lớp học xây gạch. Mỗi khu có một trưởng
giáo khu, một số phó giáo khu (kalik) và một số giảng sư (hadii),
chừng 10 người, còn gọi là Guru (vốn là cách gọi pháp sư Hindu giáo
đã được chuyển nghĩa, mà âm địa phương gọi là Ong Khù). Những vị
này được đào tạo cẩn thận, học tại Kelantan (Malaysia) hay Mecca
(Arap Seut), trở thành những người Monomat Koruan, thông thuộc và
giải thích được kinh Coran. Ngoài ra, có một số vị tư tế (Imân) và một
số vị phó tư tế (Ketip/Katip) là những người trông coi tín đồ trong
phạm vi hẹp hơn, cũng có thể theo dõi và hướng dẫn nghi lễ Hồi giáo.
Người Chăm Hồi giáo Nam Bộ còn giữ được nhiều nghi lễ và quy tắc của
đạo Hồi chính thống hơn so với đồng đạo của họ ở miền Trung, đặc biệt là những
kiêng kị và tâm nguyện hành hương đến thánh địa Mecca. Hiện nay họ có khuynh
hướng giao lưu với các tín đồ Hồi giáo chính thống ở các quốc gia Đông Nam Á


như Indonexia, Malaixia… và có quan hệ khá gắn bó với cộng đồng Islam trên thế
giới.
3.2. Tính bản địa trong Hồi giáo của người Chăm ở Việt Nam
Đạo Hồi được đánh giá là một tôn giáo khắc nghiệt, với hàng loạt các điều
kiêng kỵ và quy tắc đối với các tín đồ, đòi hỏi họ phải thực hiện triệt để. Tuy nhiên,
đạo Hồi du nhập và tồn tại trong cộng đồng người Chăm đã bị cải biến và đơn giản
hoá rất nhiều để dung hoà với văn hoá của cư dân sở tại. Do vậy, đạo Hồi của
người Chăm ở Việt Nam mang nhiều yếu tố bản địa. Nó thể hiện ở các điểm sau:
2.1. Về giáo lý Hồi giáo
Giáo lý và các quy định của đạo Hồi rất nghiêm ngặt cho toàn thể tín đồ Hồi

giáo trên thế giới. Đối với một tín đồ Hồi giáo thì “năm hành vi tôn giáo” có tính
bắt buộc để mỗi tín đồ chứng minh mình là người Hồi giáo - người có niềm tin duy
nhất vào thánh Alla. Năm hành vi tôn giáo bắt buộc đó là: Lễ nguyện Salat (Mỗi
tín đồ cầu nguyện 5 lần một ngày); Tháng chay Ramanda; Zakah (Bố thí); Haji
(Hành hương về thánh địa Mecca); Jihad (Thánh chiến để bảo vệ Hồi giáo)
Người Chăm Hồi giáo ở Việt Nam, kể cả những tín đồ Chăm Hồi giáo nhiệt
thành ở Nam Bộ, do ảnh hưởng truyền thống chuộng hoà bình của dân tộc và các
chính sách phù hợp đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước nên việc thực hiện năm
hành vi tôn giáo đã được cải biến:
-Tin tưởng Thượng đế Allah là tối cao duy nhất, và Muhammad là sứ giả cuối cùng
của Allah, là người khai sáng Islam.
- Mỗi ngày đêm phải cầu nguyện đủ 5 lần.
- Phải ăn chay trọn tháng Ramadan.
- Phải bố thí để giúp đỡ người khó khăn hơn mình.
- Nếu có khả năng thì ít nhất một lần trong đời hành hương về thánh địa
Mecca (Saudi Arabia) để làm lễ Haji (4).
Người Chăm Hồi giáo ở Việt Nam đặc biệt là những người Chăm Hồi giáo ở
Nam Bộ tuân thủ khá chặt chẽ những giáo lý, giáo luật của Hồi giáo chính thống.
Họ đã thay đức tin “Thánh chiến để bảo vệ Hồi giáo” bằng đức tin “Tin tưởng
Thượng đế Allah là tối cao duy nhất, và Muhammad là sứ giả cuối cùng của Allah,
là người khai sáng Islam”.
Khác với người Chăm Islam ở Nam Bộ, người Chăm Bàni ở Ninh Thuận và
Bình Thuận tin vào Allah như một đấng tối cao nhưng không phải là duy nhất. Họ
vẫn tôn thờ các vị thần trong tín ngưỡng truyền thống như Thần Mưa, Thần Núi,
Thần biển... Họ vẫn thực hiện các nghi lễ nông nghiệp theo tín ngưỡng dân gian
như lễ cầu xin thần Mẹ Xứ Sở (Rija Nưgar), lễ cầu mưa (Yor Yang), lễ cầu thần
Sóng Biển (Plao Pasah), lễ chặn dầu nguồn (Kap Hlâu Krong)... Người Chăm Bàni
cầu nguyện 3 lần/ ngày; không nhịn ăn ban ngày vào tháng Ramưwan mà chỉ có
giáo sĩ nhịn ăn ba ngày đầu tháng mà thôi. Họ cũng không hành hương tới thánh



địa La Mecque. Tính bản địa trong Hồi giáo của người Chăm ở nước ta được xuất
phát và gìn giữ bởi nền tảng văn hoá truyền thống Chămpa cổ.
2.2. Về hôn nhân, gia đình
Giáo lý Hồi giáo giành quyền ưu thế tuyệt đối cho đàn ông trong quan hệ
hôn nhân. Kinh Koran xác nhận uy quyền của đàn ông đối với đàn bà: "Đàn ông
có quyền đối với đàn bà vì Chúa sinh ra đàn ông cao quí hơn đàn bà…. Đối với
những phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có quyền ruồng bỏ, không cho nằm
chung giường và có quyền đánh đập" (Koran 4:34). Đàn ông có quyền lấy nhiều
vợ nhưng đàn bà chỉ được lấy một chồng. Người đàn bà ngoại tình sẽ bị đem ra nơi
công cộng để mọi người ném đá đến chết. Một quy định khác của Hồi giáo thường
được các tín đồ hết sức coi trọng và tuân thủ nghiêm ngặt là hôn nhân đồng đạo.
Không có hôn nhân ngoài Hồi giáo. Nếu có xảy ra cuộc hôn nhân này thì người
ngoại đạo phải cải theo đạo Hồi trước khi cử hành hôn lễ.
Tuy nhiên, trong xã hội Chăm truyền thống cũng như hiện tại ở nước
ta vấn đề hôn nhân và gia đình của người Chăm Hồi giáo (đặc biệt là Chăm
Bàni ở miền Trung Việt Nam) có rất nhiều cải biến để phù hợp với truyền
thống dân tộc và luật pháp Việt Nam, thập chí có những tác động để cải biến
các giáo lý Hồi giáo khắt khe.
Người Chăm ở Việt Nam theo mẫu hệ, con cái tính theo dòng mẹ,
người phụ nữ trong nhà nắm giữ nhiều của cải, quyết định mọi hình thức
cưới hỏi. Đạo Hồi đã đem phụ hệ, phụ quyền vào đời sống Chăm nhưng đã
dung hoà với phong tục truyền thống Chăm:
+ Trong hôn nhân có sự bình quyền tương đối giữa nhà trai và nhà gái,
cho tự do tìm hiểu giữa nam nữ trước hôn nhân.
+ Cho phép kết hôn con chú, con gì.
+ Cho phép con mang cả họ mẹ và họ cha.
+ Chú rể – chồng bắt buộc phải ở lại nhà vợ 2 - 3 tháng (ở nông thôn) hay 3
- 4 ngày ở thành thị sau ngày cưới. Người Chăm theo mẫu hệ, họ chỉ có tục đưa rể
chứ không đón dâu. Chú rể được đưa sang nhà cô dâu và mọi thủ tục, nghi lễ được

thực hiện bên nhà gái.
+ Con trai có thể đi hỏi vợ nhưng phải mang theo 2, 3 bà chị hoặc bạn
của mẹ.
+ Khi ly hôn, theo luật pháp người đàn ông được chia tài sản nhưng
phần lớn họ ra đi tay không.
+ Người đàn ông có quyền lấy 4 vợ nhưng rất hiếm trường hợp người
đàn ông Chăm lấy hơn một vợ (6) (Luật pháp Việt Nam không cho phép).
+ Người Chăm có thể tục huyền khi vợ hoặc chồng chết, tuy nhiên người
đàn bà phải ở vậy trong 10 tháng để xác định dòng máu của đứa con sau này (có
nơi người ta chỉ bắt buộc người phụ nữ ở vậy trong 3 tháng để xác định có thai hay


không). Mặc dù có sự ngự trị của chế độ phụ hệ nhưng gia đình mẹ vợ (nếu như có
điều kiện kinh ế) giúp đỡ người con gái xây dựng nhà cửa bên cạnh nhà mình, nhất
là với người con gái út (huyết thống theo dòng mẹ và theo đằng con gái út).
Đối với người Chăm Bàni, trước đây họ cũng tuân thủ nguyên tắc hôn nhân
đồng tôn giáo. Những năm gần đây, người Chăm Bàni ở Bình Thuận đã có những
cuộc hôn nhân không cùng tôn giáo, được cộng đồng và các chức sắc chấp nhận.
Tuy nhiên, trong những cuộc hôn nhân như thế, người ngoại đạo không phải cải
thành đạo Hồi nhưng phải đáp ứng 3 điều kiện: phải biết tiếng và chữ Chăm cổ
truyền; phải chịu lễ Katat (nếu là đàn ông) hoặc lễ Karơh (nếu là phụ nữ) và phải
tuân thủ đầy đủ các nghi lễ Hồi giáo Bàni; khi chết không được chôn chung vào
nghĩa địa của dòng họ mà phải chôn riêng.
2.3. Đối với người phụ nữ
Giáo lý Hồi giáo có những quy định khắt khe đối với phụ nữ trong hôn nhân
và vai trò của họ trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo trong cộng
đồng người Chăm ở Việt Nam đối với người phụ nữ khá dung hoà trong quan hệ
giới và quan hệ xã hội.
Tùy theo luật pháp và phong tục tập quán của mỗi dân tộc, cũng như do sự
biến chuyển của lịch sử, số phận của phụ nữ Hồi Giáo cũng thay đổi nhưng đạo

Hồi vẫn quyết định phần lớn số phận của họ. Họ phải che kín toàn thân khi ra
đường, chỉ được hưởng ½ tài sản so với đàn ông, giá trị phụ nữ trước pháp luật chỉ
bằng ½ so với đàn ông, không được ngoại tình …. Tuy nhiên phụ nữ Chăm theo Hồi
giáo ở Việt Nam không bị những quy định quá ngặt nghèo chi phối như phụ nữ ở các
quốc gia Hồi giáo khác, kể cả là những người Chăm ở Nam Bộ được coi là những người
Chăm Hồi giáo chính thống.
Trong gia đình, người phụ nữ lớn tuổi vẫn rất được coi trọng. Nó thể hiện
truyền thống mẫu hệ còn ảnh hưởng khá mạnh đến đời sống tộc người. Ở đây,
người phụ nữ không chỉ giữ vai trò chủ đạo trong quản lý kinh tế và điều phối các
hoạt động trong gia đình mà còn có vai trò trụ cột trong đời sống tâm linh và tinh
thần nói chung. Người phụ nữ Chăm Hồi giáo ở thành phố Hồ Chí Minh không chỉ
là người nội trợ mà còn là người buôn bán rất giỏi, là công nhân, ca sĩ, giáo viên,
giảng kinh Qur,an ở thánh đường và nhà riêng. Họ không phải cấm cung, được học
hành và giao tiếp rộng rãi, không phải mang mạng che mặt, mặc áo dài tay hay có
người lớn đi kèm khi ra đường... như phụ nữ ở các quốc gia Hồi giáo khác (7). Các
quy định của giáo lý Hồi giáo trong người Chăm ở Việt Nam đã bị bản địa hoá
nhiều, có hướng mở cho phụ nữ Chăm trong quan hệ gia đình và xã hội.
2.4. Kiến trúc thánh đường
Đại diện nổi bật của kiến trúc Hồi giáo trước hết là các thánh đường. Điều
mà mọi người để ý đến đầu tiên ở một thánh đường Hồi giáo là các ngọn tháp cao
với mái vòm bên cạnh thánh đường, thường gắn một ngôi sao và vành trăng lưỡi
liềm vốn là biểu tượng của đạo Hồi, vào trong là một cái sân cầu nguyện rộng rãi.
Ở đó thường có một bể nước để dùng vào việc thanh tẩy trước khi cầu nguyện, và


đó cũng là nơi hội họp ưa thích của cộng đồng. Nội thất thánh đường đơn giản. Với
kiến trúc như vậy, thánh đường Hồi giáo thể hiện rất rõ hai định hướng của đạo
Hồi, hướng đến Thượng đế và hướng đến cộng đồng tín đồ, được biểu tượng bằng
Mecca là trung tâm trên trần thế. Tất cả mọi kiến trúc thánh đường đều hướng về
thánh địa Mecca.

Trong khu vực sinh sống của người Chăm Bàni ở miền Trung, mỗi làng cũng
có một thánh đường (tiếng Chăm là Thang Mưgik – nhà làm lễ cầu nguyện, Thang
Pô - nhà thánh hay thánh đường, Thang Dhat – nhà phước), Tuy nhiên, kiến trúc
thánh đường Bàni khác với Islam. Thánh đường Bani gọi là Chùa, có kiến trúc gần
với nhà tục (thang Yơ) truyền thống nhưng mở ở đầu hồi hướng đông (hướng thần
thánh trong tín ngưỡng của Hindu giáo) và không xuất hiện tháp đỉnh vòm trên nóc
thánh đường. Thánh đường của người Chăm không chỉ nơi cầu nguyện mà còn là
nơi hội họp các việc làng, là nơi tấn phong của các tu sĩ…
2.5. Một số nghi lễ tôn giáo
Một số nghi lễ tôn giáo Hồi giáo của người Chăm ở Việt Nam đã bị bản địa
hoá, giản lược và mang nhiều yếu tố tín ngưỡng cổ truyền:
2.5.1. Nghi lễ thành niên
Hồi giáo quy định nghi lễ thành niên đối với mọi thành viên trong xã hội.
Nghi lễ này nhằm chứng nhận một người đã đến tuổi trưởng thành hay có quyền
kết hôn. Đối với nam giới phải thực hiện nghi lễ làm cuộc tiểu phẩu ở bộ phận sinh
dục là cắt bao quy đầu bằng dao sắc (lễ Khotan), đối với nữ giới cũng phải chịu lễ
rạch màng trinh bằng dao sắc có sát trùng (lễ Karơh). Tuy nhiên, khi đạo Hồi
truyền bá vào người Chăm ở Việt Nam nó đã bị giản lược đi nhiều, chỉ còn mang
tính tượng trưng kể cả với cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ gần gũi với
Islam chính thống.
Người Chăm theo Hồi giáo ở Việt Nam quy định con trai, con gái đến 15
tuổi là coi như bước vào tuổi trưởng thành. Họ phải thực hiện nghi lễ thành đinh.
Khi thực hiện nghi lễ Khotan cho nam giới (Nghi lễ này đã được dịch là Katat đối
với người Chăm Bani ở Bình Thuận), nhiều chàng trai thực hiện một lần. Họ phải
dựng một chiếc lều đơn giản ở khu vực khuất nẻo trong làng, trải chiếu trên đó bày
một bộ đồ pha trà, một ít trà khô và thuốc lá, một tô to đầy nước và trứng vịt để
thày Achar làm lễ. Đến giờ hành lễ, các chàng trai phải tập trung trước cửa lều,
thầy Achar gọi lần lượt từng người vào làm lễ. Ông cầu kinh, một tay cầm bao quy
đầu của chàng trai, một tay cầm thanh tre cật đã được chuốt mỏng hoặc một con
dao đưa qua đưa lại ở đầu dương vật của người chịu lễ. Sau đó, thày Achar lấy một

quả trứng vịt xoa vào chỗ vừa giả vờ cắt. Đây chỉ là nghi lễ tượng trưng, mô phỏng
động tác thực sự cắt bao quy đầu của người chịu lễ Khotan truyền thống Hồi giáo.
Qua nghi lễ này, có thể thấy quá trình đạo Hồi chính thống bị pha loãng trong xã
hội truyền thống của người Chăm để trở thành Hồi giáo Bani, nghi lễ Khotan hà
khắc của Hồi giáo chính thống (cắt da bao quy đầu thật sự) đã thích nghi với xã hội
Chăm và trở thành một nghi thức mang tính tượng trưng (8).


Nữ giới cũng phải tham gia nghi lễ thành niên gọi là Karơh. Nghi thức này
đối với nữ giới cũng mang tính tượng trưng so với các quốc gia Hồi giáo chính
thống. Lễ này cũng được làm tập thể cho các cô gái trong vùng. Họ phải làm hai
cái rạp: Cái lớn thờ thánh Allah, cái nhỏ để các cô gái chịu lễ thay quần áo và ở đó
trong suốt thời kỳ làm lễ. Các thiếu nữ không được ra ngoài với bất kỳ lý do gì.
Người làm lễ này gồm có thầy chính gọi là Po Grù, hai thầy phụ gọi là Imưn. Sau
một đêm trôi qua, các cô gái mặc quần áo chỉnh tề mới bước ra rạp nhỏ. Họ sang
rạp lớn chờ các thầy ban phép. Chỗ các thầy làm lễ ban phép có một cái bát lớn
đựng nước phép và một cành lá thơm, một cái kéo. Đến giờ làm lễ, các thầy đọc
kinh, rồi ra hiệu cho từng người một vào quỳ đối diện với thầy chính (Pô-Grù).
Thầy để vào lưỡi người thiếu nữ vài hạt muối, rồi lấy kéo cắt một ít tóc trên đỉnh
đầu và cho uống một ngụm nước phép. Sau đó người nhà dâng lễ ăn sáng cho các
thầy. Khi vào dâng lễ, người nhà và họ hàng phải mặc toàn đồ trắng tượng trưng
cho sự trinh bạch đến chào người thiếu nữ vừa chịu lễ xong.
2.5.2. Tục thờ cúng tổ tiên
Người theo Hồi giáo chỉ có một niềm tin duy nhất là: “Tin tưởng Thượng đế
Allah là tối cao duy nhất, và Muhammad là sứ giả cuối cùng của Allah, là người
khai sáng Islam”. Tuy nhiên, người Chăm ở Việt Nam (đặc biệt là người Chăm
Bàni ở miền Trung Việt Nam) vẫn còn lữu giữ và coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên. Họ quan niệm những người trong gia đình, khi mất đi vẫn có ảnh hưởng rất
nhiều tới những người còn sống. Trách nhiệm này người Chăm giao cho người đàn
ông đã thành niên (đã trải qua lễ Katat). Cùng với những người anh em trai của

mình và những người đàn ông là anh em ruột của mẹ mình, họ chịu trách nhiệm
chăm lo đời sống tâm linh và xử lý mọi công việc của gia đình cha mẹ và gia đình
những người chị gái ruột đã tách hộ ở riêng nhưng vẫn giữ việc thờ cúng tổ tiên
chung tại gia đình mẹ. Người đàn ông thành niên chịu trách nhiệm trình báo, xin
phép tổ tiên của gia đình mẹ mình khi có những việc lớn trong nhà như làm nhà,
dựng vợ gả chồng, ma chay hay trong các dịp lễ tết cổ truyền. Cho dù sau này lập
gia đình, sang ở nhà vợ thì người đàn ông Chăm Hồi giáo Bani vẫn phải có trách
nhiệm với việc cúng tế tại gia đình mẹ và gia đình các chị em gái mình mỗi khi có
việc cần.
Lễ Tảo mộ là một trong 5 nghi thức của chuỗi lễ hội Ramưwan, nó giống
như tiết thanh minh của người Việt.
Lễ hội tảo mộ diễn ra trước tháng ăn chay Ramưwan 3 ngày, bắt đầu từ ngày
mùng Một tháng Chín của lịch Hồi giáo. Tảo mộ là nghi thức cúng viếng ông bà,
tổ tiên. Trước đó từ ngày 25 tháng 8 lịch Islam, các làng Chăm Bani bắt đầu đi rãy
mả (tảo mộ), rước vong linh ông bà tổ tiên về nhà, lập bàn thờ tạm, tổ chức lễ cúng
ông bà trước khi đưa lên Chùa (Thánh đường Hồi giáo). Tháng Ramưwan kết thúc
bằng lễ ra chùa, còn gọi là lễ xả chay. Từ nghi lễ tưởng nhớ trong đạo Hồi, đến với
cộng đồng người Chăm, nó trở thành nghi lễ tưởng nhớ và thờ cúng tổ tiên mạng
đậm văn hoá truyền thống bản địa Đông Nam Á.


Dưới mức độ ảnh hưởng đậm hay nhạt của văn hoá Hồi giáo ở hai cộng
đồng người Chăm Bàni ở miền Trung hay Chăm Islam ở Nam Bộ, văn hoá bản địa
và Bàlamôn giáo của người Chăm vẫn được lưu truyền trong nhiều trạng thái của
nghi lễ Hồi giáo. Nó thể hiện sức sống dẻo dai và mãnh liệt của văn hoá truyền
thống của người Chăm, tạo dựng nền văn hoá Việt Nam hiện đại thống nhất trong
đa dạng, mang đậm bản sắc văn hóa tộc người.
=>Người Chăm theo Hồi giáo đều phải đến thánh đường làm lễ. Có khi một số
người còn mang theo thực phẩm đến và chia đều cho mọi người có mặt. Người
Chăm tin rằng, những lễ vật này chính là phúc lộc mà Thượng Đế ban tặng cho họ.

Trong tháng chay Ramadan, diễn ra vào tháng 9 lịch Hồi giáo, người Chăm luôn
phải giữ mình trong sạch, phải chịu thử thách. Người Chăm phải nhịn mọi thứ vào
ban ngày và chỉ được phép ăn uống vào ban đêm. Vào mồng 1 tháng 10 lịch Hồi
giáo, nghi lễ được người Chăm tổ chức trọng thể để mừng cho mình và cộng đồng
đã qua cuộc thử thách trong suốt tháng Ramadan.
Hàng năm, cứ đến ngày 12 tháng Rabiul Awal (tháng 3 lịch Hồi giáo), cộng đồng
theo Hồi giáo tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của Đức Mohamet. Đây cũng là một
trong những ngày hội quan trọng của người Chăm ở Nam Bộ. Sau buổi lễ, người
Chăm cùng nhau sức dầu thơm như để thụ hưởng phúc lộc của Thượng Đế.
Nghi lễ Tolakbala được tổ chức vào tuần thứ tư ngày cuối tháng Safar (tháng 2 lịch
Hồi giáo) hàng năm. Người Chăm tin rằng vào thời gian này, Thượng Đế giáng
những tai họa xuống trần gian, nên họ phải cầu xin Thượng Đế ban cho họ sự bình
an.
Trên đây là một số nghi lễ tôn giáo ở cộng đồng. Đối vời người Chăm, Hồi giáo
còn có ảnh hưởng rất lớn trong các nghi lễ vòng đời và tập quán sinh hoạt thường
nhật.






Nghi lễ đặt tên, cắt tóc cho trẻ sơ sinh: Khi đứa trẻ sinh ra được 7 hoặc 14
ngày, cha mẹ đứa bé làm lễ cắt tóc và đặt tên. Trong buổi lễ, người ta đọc kinh
Coran cầu Thượng Đế ban cho đứa trẻ được bình an. Sau đó, cha mẹ đứa trẻ đặt
tên cho con mình. Đối với bé trai thì có chữ nối là "bin", bé gái có chữ nối là
"binti". Ví dụ: Osama bin Laden, Sarigah binti Hosen.
Nghi lễ thành niên: Nghi lễ này nhằm chứng nhận một người đến tuổi thành
niên. Cả con trai và con gái đều quy định là 15 tuổi. Họ phải chịu tiểu phẫu ở
bộ phận sinh dục.

Hôn nhân: Nhà trai nhờ người đến nhà gái để dạm hỏi, sau khi nhà gái đồng
ý thì nhà trai chuẩn bị lễ hỏi. Lễ hỏi bao gồm các lễ vật như vải vóc, hoa tai,
dây chuyền,… Lễ cưới thực hiện theo đúng nghi thức Rukun Nikah: Thứ nhất,
phải có người đại diện phía nhà gái làm chủ hôn gọi là Wali. Thứ hai, phải có
hai người làm chứng gọi là Saksi. Thứ ba, lễ Kabon tiến hành giữa ông Wali và
chú rể. Ông Wali tuyên bố việc gả người con gái và chú rể chấp nhận việc cưới
cô dâu. Thứ tư, phải có cô dâu. Thứ năm, phải có chú rể. Buổi lễ chính thức
được diễn ra trước sự chứng kiến của nhiều người. Sau lễ cưới ba ngày, chú rể
phải đưa cô dâu về thăm cha mẹ mình và phải mang sang nhà gái các vật dụng


sinh hoạt như nồi, niêu, xoong, chảo, gạo, muối,… Cha mẹ chú rể sẽ đưa vợ
chồng mới cưới đi thăm người thân. Chú rể có thể đưa vợ về ở nhà mình hoặc
đến sống chung cùng với gia đình bên vợ.

Tang chế: Cũng giống như người Kitô giáo, người Chăm quan niệm cuộc
sống hiện tại chỉ là tạm bợ. Vì thế, khi có người mất thì những người trong gia
đình không ai được than khóc, để tang hoặc lập bàn thờ vì coi đó là sự đã an
bài. Sau khi tẩm liệm, người chết được phủ trên mình một tấm khăn lớn có thêu
những đoạn Kinh Coran và được đưa vào thánh đường để làm lễ cầu nguyện
trước khi đem chôn. Khi đưa xuống huyệt, người chết sẽ được lật nghiêng
hướng về phía tây, và cho đất lấp lại. Sau khi chôn cất xong, người ta cầu
nguyện liên tục trong suất ba đêm, rồi ngưng cho đến ngày thứ 7, thứ 40 và thứ
100 sẽ cầu nguyện lại, sau đó là ngưng hẳn không còn bất kỳ hình thức lễ nào
cho người quá cố nữa. Đối với ông bà tổ tiên, người Chăm thường xuyên tưởng
nhớ và tổ chức thăm viếng vào những ngày cuối tháng Ramadan.

Người Chăm Islam có rất nhiều kiêng cữ trong cuộc sống. Trong nhà, họ
không treo hình tượng của người hoặc loài vật kể cả di ảnh của người thân đã
qua đời vì sợ sẽ làm sao lãng đức tin. Trong các bữa ăn thường ngày, người

Chăm Islam không ăn thịt heo vì cho rằng đó là thức ăn dơ bẩn, không ăn thịt
các động vật tự nhiên chết, không uống rượu bia,…

Trang phục: Trang phục của người Chăm ở Nam Bộ là sự tổng hợp của
nhiều yếu tố. Phụ nữ chăm Islam khi tiếp xúc với khách hoặc khi ra đường đều
đội khăn trên đầu để che kín tóc chứ không phải mang mạng như người Hồi
giáo ở các nước Arập.

Hoạt động nghệ thuật: Do bị hạn chế bởi tín ngưỡng Islam nên những hoạt
động nghệ thuật như ca, múa, kịch,… chỉ được cộng đồng Chăm Islam ủng hộ
trong những ngày Raya kết thúc tháng Ramadan, sinh nhật Mohamet, hoặc
nhân dịp cưới hỏi… cộng đồng.
3.Các tổ chức của Hồi giáoở Việt Nam
Đối với Chăm Islam, trước năm 1975, ở miền Nam, Hồi giáo có hai tổ chức chính
thức là: "Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam" và "Hội đồng giáo cả Islam Việt
Nam". Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành của Ban
Quản trị Hiệp hội Trung Ương và Đại hội đồng cơ sở. Nhằm mục đích: không hoạt
động chính trị mà duy trì những tinh hoa đạo đức trong sinh hoạt tôn giáo; thực thi
các tập tục truyền thống và đời sống đạo đã được kinh Qur'an giáo huấn. Tuy
nhiên, cả hai tổ chức này nhất là Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam bị chính quyền
Mỹ và Sài Gòn lợi dụng, sử dụng làm công cụ chống Cộng. Do đó, nó cùng tồn tại
đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì tự giải tán theo sự sụp đổ của chính quyền Sài
Gòn.
Mặt khác, trong cộng đồng Chăm Bàni ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận,
trước năm 1975 đều có tổ chức "Hội đồng giáo cả" tuy chưa được pháp luật thừa
nhận nhưng trên thực tế vẫn hoạt động và tồn tại cho đến nay.
Từ sau năm 1975 đến trước khi có chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác đối với Hồi giáo, ở Việt Nam mới có một tổ chức là Ban Đại diện cộng



đồng Hồi giáo TP. Hồ Chí Minh được thành lập tháng 7 năm 1992. Từ năm 2003
(thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác Hồi giáo), Ban
Tôn giáo Chính phủ phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố có Hồi giáo
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo về mặt tổ chức cho tín đồ. Đến nay, đối với
Chăm Islam, có thêm hai tổ chức Hồi giáo cấp tỉnh ở tỉnh An Giang và Tây Ninh;
đối với Chăm Bàni, có Hội đồng sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Ninh Thuận.
4.Thánh đường Hồi giáo nổi tiếng tại VN
Hiện nay ở Việt Nam có hơn 40 Thánh đường Islam (Masjid) và 25 surao (nơi cầu
nguyện nhỏ hơn thánh đường). Do tín đồ Hồi giáo Islam tại Việt Nam (khoảng
25.000 tín đồ, chiếm khoảng 42% tín đồ Hồi giáo) tập trung chủ yếu ở Thành phố
Hồ Chí Minh và An Giang, nên hầu hết các thánh đường lớn đều tập trung ở đây.

Thánh đường Al Rahman ở 45 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh. Thánh đường này chủ yếu dành cho người Maylaysia và người
Indonesia. Đây là Thánh đường Hồi giáo được xây dựng sớm nhất (1885) tại
Việt Nam.

Thánh đường Jamia Al Noor ở 12 Hàng Lược, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là
thánh đường Hồi giáo duy nhất ở miền Bắc Việt Nam và là thánh đường Hồi
giáo thứ hai được xây dựng tại Việt Nam (1890).

Thánh đường Jamia Al Muslim ở 66 Đông Du, Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh. Thánh đường này được xây dựng vào năm 1935, được xem thánh đường
Hồi giáo lớn nhất tại thành phố Hồ Chí Minh.

Thánh đường Jamiyah Islamic ở 52 Nguyễn Văn Trỗi, Quận Phú
Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một thánh đường của người Chăm và
cũng là Văn phòng Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh.

Thánh đường Jamiul Muslimin ở ấp Đồng Ki, xã Quốc Thái, huyện An Phú,

tỉnh An Giang. Đây là thánh đường Hồi giáo lớn nhất Việt Nam tính đến hết
năm 2009.

Thánh đường Al Mubarak ở xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang,
thường được gọi là "chùa Chăm An Giang", là nơi có cho phép du khách vào
tham quan. Đây cũng là thánh đường Hồi giáo duy nhất có lối thảm cho nữ giới
vào thánh đường. Ngoài ra ở đây có làng Chăm Châu Giang nổi tiếng với nghề
dệt thổ cẩm.


5.Chức sắc Hồi giáo
Chức sắc Chăm Bàni: Tổng số trong cả nước lả 407 người. Các tu sĩ, chức
sắc Bàni cũng như các tu sĩ Islam, họ không được khuyến khích sống độc
thân. Trong đời sống hàng ngày, họ là những người rất am hiểu và có kinh
nghiệm về những lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Do đó, chức sắc Bàni là
những người có uy tín cả bên đạo lẫn bên đời. Họ tham gia vào tất cả những
nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo như cưới hỏi, tang chế,… của các gia đình Bàni
và của cộng đồng. Các chức sắc Bàni đều biết kiêng kỵ những thức ăn như
trong giáo lý quy định. Hiện nay chức sắc Bàni được phân thành bốn cấp.
Cấp thấp nhất là thầy Chang. Cấp thứ hai là Khotip hay Tip. Cấp thứ ba là
Mun, là người điều khiển các buổi lễ tại chùa Bà ni. Cấp cao nhất là Sư Cả
(thầy Gru) - người quyết định hầu hết mọi vấn đề về đời sống tôn giáo của
người Chăm Bàni. Chức sắc Bàni được duy trì theo chế độ cha truyền con
nối. Ngoài ra, mỗi chùa của làng có một ban cai quản có nhiệm vụ truyền đạt
các lễ nghi tôn giáo và giải quyết các vụ tranh chấp, kiện tụng trong làng. Họ
là cầu nối giữa chính quyền và tín đồ, đưa các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đến với quần chúng tín đồ.
Chức sắc Chăm Islam: Người đứng đầu là vị Hakim (Giáo cả). Phụ tá cho
Hakim là Naep (phó Giáo cả). Ahly là người giúp việc cho Hakim. Tuân là thầy
dạy giáo lý cho tín đồ.

=>KL:Hồi giáo truyền bá vào Việt Nam đã đem những văn minh và cả những giáo
luật khắt khe đến với cộng đồng Chăm nước ta. Tuy nhiên quá trình tiếp xúc với
văn hóa bản địa, Hồi giáo trong cộng đồng người Chăm đẫ bị phân hóa làm 2 bộ
phận Chăm Bani và Chăm Islam với những đặc trưng tôn giáo và văn hóa
riêng.Mặc dù có bị phân hóa thành những hình thức nào đi chăng nữa thì Hồi giáo
trong cộng đồng người Chăm ở nước ta vẫn giữ giáo lí sống tốt đời đẹp đạo, đfum
bọc yêu thương nhâu, tuân thủ những chủ trương , chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; phục vụ cho quá
trình xây dựng vá phát triển đất nước




×