Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.34 KB, 23 trang )

Trình bày ngắn gọn về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh (1890-1969) quê làng Kim Liên, Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Người được sinh ra trong gia đình nhà nho yêu nước.
Thân sinh là cụ ông Nguyễn Sinh Sắc và cụ bà Hoàng Thị Loan.
- Thời niên thiếu có tên là Nguyễn Sinh Cung, lúc dạy ở Phan Thiết lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Giai đoạn đầu hoạt động
cách mạng Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Sau 1941 lấy tên là Hồ Chí Minh.
- Hồ Chí Minh sớm có tinh thần yêu nước
- 1911 Người ra đi tìm đường cứu nước
- 1919 Người đưa bản "Yêu sách của nhân dân An Nam về quyền bình đẳng, tự do" gởi đến Hội nghị Vecxay (Pháp).
- 1920 Người dự đại hội Tua (Pháp).
- 1925 Người thành lập: Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội và Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông.
- 1930 Người đứng ra tổ chức hội nghị hiệp nhất 3 tổ chức Đảng thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- 1941 về nước thành lập Mặt trận Việt Minh và trực tiếp lãnh đạo cách mạng đi đến tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.
- 2/9/1945 Người đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" tại quảng trường Ba Đình.
- 1946 sau cuộc tổng tuyển cử đầu tiên Người được bầu là Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Từ đó Người luôn
giữ chức vụ cao nhất để lãnh đạo tòan dân đuổi Pháp đánh Mỹ.
- Năm 1990 được UNESCO ghi nhận và suy tôn Người là "Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn".
2. Trình bày quan điểm sáng tác văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng; góp
phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội. Bài thơ "Cảm tưởng đọc Thiên Gia Thi" đã thể hiện tinh thần đó: "Thơ xưa
thường chuộng thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
- Khi sáng tác, Ngừơi luôn chú ý đến đối tượng thửơng thức. Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quản đại quần
chúng là đối tượng phục vụ, người thường đặt vấn đề: Viết cho ai? Viết Cái gì? Viế t để làm gì?
- Người quan niệm văn chương phải có tính chân thật. Nhà văn phải viết cho hay trong sáng, hùng hồn, đậm đà tính dân tộc.
Tránh lối viết cầu kì xa lạ.
Câu 2: Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh: Là nhà hoạt động chính trị, làm thơ, viết văn là để phục vụ cách mạng,
Bác có một hệ thống quan điểm sáng tác như sau:
- Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, nhà văn
cũng phải ở giữa cuộc đời góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội:


+ “Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”. (Cảm tưởng đọc Thiên gia thi)
+ “ Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. (Thư gửi các họa sĩ, 1951)
- Văn chương phải phục vụ nhân dân, phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Bác nêu kinh nghiệm chung cho
hoạt động báo chí và văn chương: Khi viết phải xác định rõ đối tượng (viết cho ai), mục đích (viết để làm gì), nội dung (viết cái
gì), hình thức nghệ thuật (viết như thế nào).
- Văn chương phải có tính chân thật: Văn nghệ sĩ phải “miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn”; tránh lối viết xa lạ, cầu
kỳ, ngôn ngữ phải trong sáng; nội dung phải sâu sắc, thể hiện được tinh thần dân tộc.
Quan điểm sáng tác văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhận mình là nhà thơ, nhà văn mà chỉ là người bạn của văn nghệ,
người yêu văn nghệ. Những rồi chính hoàn cảnh thôi thúc, nhiệm vụ cách mạng yêu cầu, mội trường xã hội và thiên
nhiên gợi cảm, Người đã viết nhiều áng văn chính luận hào hùng, những truỵên ngắn đặc sắc và hàng trăm bài thơ
hay. Người dã có ý thức và am hiểu sâu sắc quy luật và đặc trưng của hoạt động văn nghệ, từ phương diện tư tưởng
chính trị đến nghệ thuật biếu diễn. Điều đó trước hết được bieiú hiện trực tiếp trong quan điểm sáng tác văn chương
của Người.
Là nhà cách mạng vĩ đai lại rất yêu văn nghệ. Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hạt động tinh thần phong phú
và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Người đã xác định vị trí và vai trò to lớn của nghệ sĩ trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển xà hội. Tinh thần đó đã được Người nói lên trong bài thơ Cảm
tưởng đọc Thiên gia thi:Nay ở trong thơ nên có thépmNhà thơ cũng phải biết xung phong Chất thép ở đây chính là
xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng là cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực của thơ ca. Quan điểm của Hồ
Chí minh là sự tiếp thụ, kế thừa quan điểm dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu trong truyền thống dân tộc và
được nâng cao trong thời đại cách mạng vô sản. Trogn bức thư gửi các họa sĩ trong dịp triển lãm hội hoạ toàn quốc
1951, một lần nữa, Bác khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là mọt mặt trận, anh chị em cũng là chiến sĩ trên mặt
trận ấy”.
Hồ Chi Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn chương. Văn chương trong thời đại
cách mạng pahỉ coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Người nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo
trí avà văn chương, mỗi người khi cầm bút cần xác định rõ: Viết cho ai? (Đối tượng), Viết để làm gì? (Mục đích),
Viết cái gì? (Nội dung) và Viết như thế nào? (Hình thức). Như vậy, đối tượng và mục đích qui định nội dung và
hình thức của tác phẩm. Người viết có xử lý đúng các mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện, giữa phổ cập và
nâng cao, giữa nội dung và hình thức thì mới phát huy được hiệu quả của hoạt động văn học. Các khía cạnh trên

cũng liên quan đến nhau trong ý thức và trách nhiệm của người cầm bút.
Hồ Chí Minh luôn quan niêm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật. Phát biểu trong buổi khai mạc phong
triển lãm hội họa trong năm đầu tiên sau cách mạng, Người uốn nắn một hướng đi “Chất mơ mộng nhiều quá, mà
cái chất thật của sự sinh hoạt rất ít”. Người yêu cấu văn nghệ sĩ phải “miêu tả cho hay, cho chân thật cho hùng hồn”
những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng, phải chú ý nêu gương “ Người tốt, viếc tốt”, uốn nắn và phê bình
cái xấu. Tính chân thật cốn là cái gốc của văn chương xưa và nay.
Nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề. Hình thức của tác phẩm phải
trong sáng, hấp dẫn, ngôn từ phải chọn lọc, bảo đảm sự trong sang của tiếng VIệt. Theo Người, tác phẩm văn
chương phải thể hiện được cái tinh thần của dân tộc, của nhân dân và được nhân dân ưa thích.
3. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
a. Văn chín luận: là những sáng tác phục vụ cho nội dung chính trị. Đấu tranh nhằm tấn công trực diện kẻ thù hoặc thể hiện
những nhiệm vụ cách mạng của dân tộc qua những chặng đường lịch sử.
- Tác phẩm tiêu biểu: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi tòan quốc kháng chiến, Không có gì quí
hơn độc lập tự do.
b. Truyện và kí:
- Tác giả thườg tiến công kẻ thù bằng những mũi nhọn chính luận sắc xảo và sự thật công khai của đời sống.
- Tác phẩm tiêu biểu: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay Varen và Phan Bội Châu, Nhật kí chìm tàu,..
c. Thơ ca:
- Gồm nhữg tác phẩm thơ chữ Hán và Tiếng Việt sáng tác trước Cm tháng 8 và trong kháng chiến.
- Tác phẩm tiêu biểu: Nhật kí trong tù, thơ Hồ Chí Minh, thơ chữ Hán Hồ Chí Minh.
Nêu những nét chính về sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
- Nguyễn ái Quốc- Hồ Chí Minh là một vị lành tụ vĩ đại của dân tộc, là người anh hùng giảI phóng dân tộc Việt
Nam đồng thời là nhà văn hoá lớn. Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người, có một di sản đặc biệt để lại cho
dân tộc, đó là sự nghiệp văn học.
- Sự nghiệp văn học của Nguyễn ái Quốc- Hồ Chí Minh có tầm vóc lớn lao, phong phú, đa dạng về thể loại và đặc
sắc về phong cách sáng tạo. Người đã sáng tác được nhiều tác phẩm văn chương có giá trị. Trong đó có những áng
văn chính luận gìau sức sống thực tế, sắc sảo về chình kiến và ý tưởng những truyện ngắn độc đáo và hiện đại, hàng
trăm bài thơ giàu tình người, tình đời, chứa chan thi vị được viết ra bằng những tài năng và tâm huyết. Do điều kiện
hoạt động cách mạng nhiều năm ở nước ngoài nên các tác phẩm của Người được viết bằng tiếng Pháp, tiếng Hán,
tiếng Việt…

a) Văn chính luận
- Những tác phẩm văn chính luận của Hồ Chí Minh được viết ra chủ yếu với mục đích đấu tranh chính trị nhằm tiến
công trược diệ kẻ thù hoặc thể hiện những nhiệm vụ cách mạng qua những chặng đường lịch sử.
- Từ những năm 20 của thể kỉ, các bài văn chính luận với bút danh Nguyễn ái Quốc đăng trên các tờ báo Người
cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L’Humanite’), Đời sống thợ thuyền (La vie ouvrie`re) đã tác động và ảnh hưởng lớn
đến công chung Pháp và nhân dân nhiều nước thuộc địa. Nổi bật là Bản án chế độ thực dân Pháp, áng văn chính
lụân sắc sảo nói lên một cách thống thiết nỗi đau khổ của người dân bản xứ và tố cáo trực diện chế độ thực dân
Pháp, thức tỉnh, kêu gọi những người nô lệ đứng lên chống áp bức, bóc lột…
- Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện chính trị có giá trị lịch sử lớn lao, phản ánh khát vọng độc lập, tự do và cuộc
đấu trang kiên cường, bền bỉ của nhân dân đã giành được thắng lợi, tuyên bố hùng hồn quyền độc lập của dân tộc
Việt Nam trước nhân dân trong nước và thế giới. Tuên ngôn Độc lập là tác phẩm chính luận có giá trị pháp lí, giá trị
lịch sử, nhân bản và nghệ thuật cao.
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quí hơn độc lập tự do (1966) là những áng văn chính luận
hào hùng, tha thiết làm rung động hàng triệu trái tim yêu nước. Những tác phẩm ấy nói lên những vấn đề thời sự cấp
bách của dân tộc, thể hiện sâu sắc tiếng gọi của non sông đất nước trong những giờ phút thử thách đặc biệt. Trong
những năm tháng cuối đời, Người viết bản Di chúc thiêng liêng mà chan chứa tình cảm. Bản di chúc là lời căn dặn
thiết tha, chân tình với đồng bào, đồng chí, vừa mang tính chiến lược trong hướng phát triển, vừa thấm đượm tình
yêu thương con người.
b) Truyện và kí Khoảng từ năm 1922 đến 1925, Nguyến ái Quốc đã viết một số truyện ngắn và kí bằng tiếng Pháp
rất đặc sắc sắng tạo và hiện đại. Tiêu biểu là các truyện ngắn: Pari (1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922),
Con người biết nùi hun khói (1922), Vi hành (1923), Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu (1925), Con rùa
(1925) Truyện ngắn của NAQ cô đọng, cốt truyệ sáng tạo, kết cấu độc đáo. Mối truyện đều có tư tưởng riêng hấp
dẫn, sáng tỏ ý tưởng thâm thuý, kín đáo, chất trí tuệ toả sáng trong hình tượng và phong cách.
c) Thơ ca Thơ ca là lĩnh vực nổi bật nhất trong giai đoạn sáng tác văn chương của Hồ Chí Minh. Với trên dưới 250
bài thưo có giá trị được tuyển chọn và in trong các tập Nhật ký trong tù (133 bài), Thơ Hồ Chí Minh (86 bài), Thơ
chữ Hán Hồ Chí Minh (36 bài). Hồ Chí Minh đã có nhưũng đóng góp quan trọng trong nền thơ hiện đại.
- Nhật kí trong tù là tập thơ tiêu biểu nhất trong di sản thơ ca của Hồ Chí Minh. Tập thơ Nhật kí trong tù trước hết là
cuốn nhật kí bằng thơ phản ánh tâm hồn và nhân cách cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh nặng
nề và khắc nghiệt nhất. Tập thơ chan chúă tình cảm nhân đạo, luôn hướng về những người lao động. Nhiều bài thơ
biéu hiện lòng yêu nước thiết tha của người chiến sĩ cộng sản, chứa đựng nhữung bài học về nhân sinh, đạo lí, thể

hiện ý chí, nghi lực vượt khó khăn gian khổ để vươn tới tự do. Đồng thời, Nhật lí trong tù là một tác phẩm giàu giá
trị nghệ thuật, Nhiều tứ thơ được thể hiện rất sáng tạo, nhiều hình ảnh gợi cảm, thể thơ tứ tuyệt của nhiều bài thơ
được sử dụng thành thực… Tạo nên vẻ đẹp hàm xũc, ling hoạt, tài hoa, vừa cổ điển vừa hiện đại trong tập thơ.
- Ngoài ra, Hồ Chi Minh còn viết nhiều bài thơ trữ tình độc đáo, và nhữung bài thơ mộc mạc, giản di đẻ tuyen
truyền đường lối cách mạng (Pác Bó hùng vĩ, Tức cảnh Pác Bó, bài ca du kích, Ca sợi chỉ…) Đặc biệt, trong thời kì
chống thực dân Pháp, Người đã bộc lộ những lo láng về vận mệnh non sông và tình cảm tha thiết gắn bó với cảnh
sắc thiên nhiên đất nước (Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh rừng Việt Bắc…) Người ca ngợi sức mạnh
của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến và niềm vui thắng lợi (Rằm tháng Giêng, Tin thắng trận, Đêm thu…).
- Những tác phẩm của NAQ-HCM có phong cách đa dạng và thống nhất, kết hợp sâu sắc mà nhuần nhị mối quan hệ
giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thụât, giữa truyền thống và hịên đại. Dù sáng tác bằng thể loại
nào thì tác phẩm của Người đều có phong cách riêng, độc đáo, hấp dận, có giá trị bền vững.
+Trong Truyện và kí, ngòi bút NAQ rất chủ động và sáng tạo, khi tì lối kể chân thực tạo không khí gần gũi, có khi là
giọng điệu châm biếm sắc sảom thâm thuý, tinh tế. Chất trí tuệ và tính hịên đại là những nét đặc sắc trong truyện
ngắn của Nguyễn ái Quốc.
+ Văn chính luận của Nguyễn ái Quốc- Hồ Chi Minh bộc lộ tư duy sắc sảo, giàu trí thức văn hoá, gắn lí luận vưói
thựuc tiễn, giàu tính luận chiến, vận dụng có hiệu quả nhiều phương thức biếu hiện.
+ Thơ ca Hồ Chí MINh cũng có phong cách đa dạng: Nhiều bài cổ thi hàm xúc, uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về
nghệ thuật, những bài thơ hiện đại được Người vận dụng nhiều thể loại phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách
mạng.
4. Cho biết những nét chính trong phong cách sáng tác của Nguyễn Ái Quốc - HCM
Ở mỗi thể loại, sáng tác của Người đều có phong cách độc đáo riêng.
a. Văn chính luận:
- Bộc lộ tư duy sắc xảo, giàu tri thức văn hóa.
- Gắn lý luận với thực tiễn và giàu tính luận chiến.
- Vận dụng có hiệu quả nhiều phương thức biểu hiện.
b. Truyện, kí:
- Ngòi bút của Người lúc linh hoạt, lúc chân thực tạo không khí gần gũi, lúc châm biếm sắc xảo thâm thúy tinh tế.
- Chất trí tụê và tính hiện đại là nét đặc sắc trong truyện ngắn của Người.
c. Thơ:
Phong cách sáng tác của Người rất đa dạng

- Cổ thi: hàm súc uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật thơ Đường phương Đông
- Thơ hiện đại: vận dụng linh hoạt nhiều thể loại, phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng
Hãy trình bầy những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
Bài làm không yêu cầu trình bầy chi tiết, có sự phân tích kỹ lưỡng .Tuy nhiên, cần chú ý đảm bảo các ý chính sau:
Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, chính trị, nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc, đồng thời Người còn nhà văn, nhà thơ,
đã sáng tác nhiều tác phẩm ở nhều thể loại khác nhau .Vì thế, Người am hiểu sâu sắc quy luật và đặc trưng của văn
nghệ . Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh thể hiện trong hoạt động sáng tạo văn học và trong chính các
tác phẩm của Người.
1. Văn chương phải có tính chiến đấu. Hồ Chí Minh luôn xem văn nghệ là hoạt động tinh thần có tác dụng to
lớn đối với thực tiễn .Vì thế, nhà văn phải góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội:

Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi)

Chất thép trong văn chương chính là xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng, tinh thần đấu tranh xã hội tích cực
.Và, vai trò của người làm văn nghệ là đi đầu trong cuộc đấu tranh đó,trên chính mặt trận của mình.Năm 1951, Hồ
Chí Minh đã nói rõ : Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, canh chi em là chiến sĩ trên mặt trận ấy ( Thư gửi các
hoạ sĩ nhân dịp triển lãm hội hoạ ).

2. Ý thức trách nhiệm của người cầm bút. Theo Hồ Chí Minh, người cầm bút ( viết văn, viết báo ) phải xác định
cho được : Viết cho ai ?( đối tượng sáng tác ),Viết để làm gì ? ( mục đích sáng tác ), Viết cái gì ? ( nội dung sáng tác
) và Cách viết như thế nào ? ( hình thức viết ). Đối tượng và mục đích sẽ góp phần quy đinh nội dung và cách viết
.Trong suốt quá trình hoạt động sáng tác của mình, Hồ Chí Minh luôn xác định rõ các vấn đề trên, đặc biệt xử lý tốt
mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện, giữa tuyên truyền và nghệ thuật, dân tộc và hiện đại…

3. Tính chân thật của văn chương. Hồ Chí Minh từng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong sáng tác văn nghệ
khi “chất mơ mộng qua nhiều”. Người yêu cầu, văn nghệ sĩ phải miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn hiện
thực cách mạng . Đấy là sự phát huy quan niêm của cha ông ta xưa về vái gốc của văn chương trong thời đại mới.
Đối với Hồ Chí Minh, cái đẹp của hình thức văn chương chính là sự trong sáng, hấp dẫn, ngôn từ chọn lọc chứ

không phải lối viết cầu kỳ, xa lạ với nhân dân.
Dựa vào sự nghiệp văn chương Hồ Chí Minh, hãy giải thích và chứng minh ý kiến sau:
Văn thơ Hồ Chí Minh có một phong cách nghệ thuật hết sức phong phú và đa dạng.
Phân tích đề:
- Về nội dung :Văn thơ Hồ Chí Minh có một phong cách nghệ thuật hết sức phong phú và đa dạng . Đây là một
vấn đề nghệ thuật ở một tác phẩm văn chương, nhưng lại là khía cạnh tương đối khó.
- Về thể loại: Giải thích và chứng minh một nhận định có sẵn.
- Phạm vi tư liệu: Về lý luận, là vấn đề phong cách nghệ thuật của một nhà văn.Về tư liệu, bao quát toàn bộ sự
nghiệp văn chương Hồ Chí Minh.
Gợi ý làm bài:
1. Hiểu đúng về phong cách nghệ thuật của một tác giả là gì? Có thể giải thích ngắn gọn :Phong cách nghệ thuật
là cái nhìn độc đáo, mang tính phát hiệnc của nhà văn ( nhà thơ ) trước cuộc đời va con người, được thể hiện thông
qua một hệ thống những phương tiện, hình thức nghệ thuật mang tính lặp đi, lặp lại . thống nhất trong các tác phẩm.
2. Từ cách hiểu vê phong cách nghệ thuật của nhà văn, khắng định trong văn chương, có một phong cách nghệ
thuật Hồ Chí Minh.Không những thế, đó còn là một phong cách nghệ thuật phong phú và mang tính hiện đại, vừa
đậm đà bản sắc dân tộc lại vừa mang những giá trị văn hoá thế giới…Tuy nhiên, tất cả các phong cách khác nhau ấy
đã có sự kết hợp sâu sắc và nhuần nhuyễn, thống nhất, làm thành phong cách Hồ Chí Minh.
Phong cách ấy được thể hiện ở những khía cạnh sau ( bên cạnh việc chứng minh, nên có sự phân tích để sáng tỏ
vấn đề ).
3. Hồ Chí Minh dung nhiều thể loại văn chương khác nhau :thơ, vắn xuôi, kịch, ca kịch, vè…Ở từng thể loại,
đều có nhiều thể tài.Chẳng hạn, thơ có : thơ luật Đường, lục bát ; thơ chữ Quốc ngữ …Nếu xét ở khía cạnh nội
dung, Hồ Chí Minh tưng viết :thơ ngụ ngôn, thơ vịnh cảnh, thơ tả thực, thơ lịch sử.Tương tự, ở văn xuôi cũng
vậy.Người viết truyện ngắn, tiểu thuyết ( Nhật ký chìm tàu ), văn chính luận (Tuyên ngôn độc lập .Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến… ), ký ( Vừa đi đường vừa kể chuyện ).Ngay trong một thể tài, như truyện ngắn, Hồ Chí Minh có
truyện lấy đề tài của cuộc sống đuơng thời ( Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu… ),có truyện dã
sử ( Lời than vãn của Bà Trưng Trắc ).
4. Kiểu sáng tác rất đa dạng :khi thì lãng mạn, khi hiện thực ;có khi kết hợp cả hai . Điều này rõ nhất là ở tác
phẩm Nhật ký trong tù.
5. Về bút pháp: Nét phong cách tiêu biểu là tác phẩm Hồ Chí Minh luôn có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa
tính hiện đại và màu sắc cổ điển.

Nhiều bài thơ ở Nhật ký trong tù, tác giả khai thác thi liệu và cách chấm phá của thơ ca cổ điển phương Đông để
thể hiện những hình ảnh hiện thực, đặc biệt là hình tuợng thơ luôn tươi sáng .Thơ ca Hồ Chí Minh nói chung, luôn
hàm súc, uyên thâm, đạt trình độ cổ điển trong các sáng tác luật Đường ;giản dị, gần gũi với quần chúng, phục vụ
tuyên truyền cách mạng trong các bài thơ hiện đại .
Trong truyện và ký, một mặt Hồ Chí Moinh khá rành rẽ bút pháp nghệ thuật hiện đại châu Âu, mặt khác đã kế
thừa rất sáng tạo những mô típ dân gian.Vì thế, văn xuôi nghệ thuật Hồ Chí Minh luôn sinh động, chân thực, linh
hoạt, biến hoá, giàu chất châm biếm, thâm thuý và tinh tế.Còn văn chính luận thường ngắn gọn, trong sáng, tư duy
sắc sảo, giàu trí tuệ, mang tính luận chiến
5. Hoàn cảnh sáng tác và tóm tắt truyện ngắn "Vi hành" của Nguyễ n Ái Quốc
a. Hòan cảnh sáng tác:
- Năm 1922 Pháp đưa Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Mac-Xây nhằm lừa bịp dân Pháp rằng tình hình
"khai hóa" đang thuận lời và kêu gọi mọi người đầu tư vào Đông Dương.
- Năm 1923 Nguyễn Ái Quốc viết truyện ngắn "Vi hành" bằng tiếng Pháp, đăng trên Báo Nhân Đạo nhằm đập tan âm mưu,
thủ đoạn xảo trá của thực dân Pháp, đồng thời vạch trần bộ mặt tên vua Khải Định bù nhìn bất tài, vô dụng và nhố nhăng
b. Tóm tắt:
Tác phẩm được viết dưới dạng một bức thư tác giả gởi cho cô em họ ở quê nhà. Tác giả tưởng tượng một câu chuyện trên
chuyến tàu điện ngầm ở Pháp và tình huống là đôi thanh niên Pháp nhầm tưởng tác giả là tên vua bù nhìn Khải Định. Qua đó
chân dung Khải Định lần lượt hiện rõ từ ngoại hình cho đến tính cách đều nhố nhăng, xấu xa, đê tiện. Đồng thời thông qua việ
khắc họa tên vua Khải Định, tác giả cũng vạch trần thủ đoạn và chính sách dã man, giả dối của thực dân Pháp đối với thuộc
địa.
6. Nội dung và giá trị nghệ thuật của "Vi hành"
a. Nội dung tác phẩm:
- Vạch trần, phê phán, châm biếm bộ mặt bù nhìn xấu xa của Khải Định qua: hình dáng, phục sức kì quái, lòe loẹt.. Khải Định
chỉ là một tên hề, một món giải trí rẻ tiền.
- Phê phán bộ mặt xảo quyệt, thâm độc của thực dân Pháp: dối trá, bịp bợm, áp bức bốc lột dân ta bằng chích sách thuế khóa
nặng nề, chế độ ngu dân độc ác, chế độ phân biệt chủng tộc, chế độc mật thám ngay ở chính quốc.
- Thể hiện lòng yêu nước thầm kín của tác giả.
b. Giá trị nghệ thuật:
- Nghệ thuật tạo tình huống độc đáo: tình huống nhầm lẫn.
- Nghệ thuật châm biếm sắc xảo, mỉa mai thâm thúy qua việc khắc họa chân dung Khải Định trong cách suy nghĩ của đôi

thanh niên Pháp. Dùng hình thức viết thu độc đáo: thay đổi linh hoạt bút pháp, đổi giọng, chuyển cảnh nên đạt được hiệu quả
châm biếm, đả kích.
- Kết hợp văn tự sự với đối thoại, trào phúng và trữ tình.
Phân tích và bình luận những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Ái Quốc trong truyện ngắn Vi
Hành.A- Gợi ý chung Chúng ta đều biết: Vi hành là một truyện ngắn tiêu biểu cho bút pháp văn xuôi hiện đại,
tài châm biếm đặc sắc- nét đặc trưng của những truyện ký mà Nguyễn Ái Quốc sáng tác đầu những năm 20 ở Pháp.
Tác phẩm có nhiều tầng nội dung, ý nghĩa, nhiều giá trị. Đề văn không yêu cầu khai thác nội dung ý nghĩa mà
hướng về “nghệ thuật châm biếm đả kích đặc sắc”. Đó là nội dung cơ bản mà bài làm cần tập trung giải quyết. Về
phương pháp, người viết cần sử dụng thao tác “Phân tích và bình giảng…” Như vậy, bài làm có thể theo hướng sau:
1. Phân tích bình giảng một vài thủ pháp nghệ thuật châm biếm, đả kích đặc sắc trong tác phẩm bằng những dẫn
chứng và lý lẽ cụ thể tiêu biểu.
2. Sau khi phân tích những nét nổi bật trong nghệ thuật châm biếm nêu khái quất đánh giá nêu tác dụng- nhấn
mạnh tính chiến đấu, mục đích cách mạng của tác phẩm…
Ngoài ra, có thể liên hệ, so sánh với nghệ thuật dựng hình ảnh trong kịch Con rồng tre; giọng kể, ngôn ngữ trong
chuyện Lời than vãn của bà Trưng Trắc và nêu cảm nghĩ riêng của mình về phong cách nghệ thuật, tài văn chương
và quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
B- Gợi ý cụ thể
I. Đặt vấn đề
- Nếu thời gian và mục đích sáng táctác phẩm: năm 1922, vua bù nhìn Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc
địa. Nhân sự kiện này, Nguyễn ái Quốc đã viết một số tác phẩm văn xuôi- bằng tiếng Pháp- đăng trên các báo công
khai ở Pari, nhằm châm biếm, đả kích Khải Định. Trong đó tiêu biểu nhất là truyện ngắn Vi Hành.
- Vào vấn đề, nêu luận đề: Vi Hành- như chúng ta đều biết, là áng văn xuôi của Châu Âu hiện đại có những tầng nội
dung, ý nghĩa, nhiều giá trị. Giá trị nổi bật nhất của Vi Hành phải chăng đã được biểu hiện rất rõ nét, vô cùng hấp
dẫn, thú vị ở nghệ thuật châm biếm, đả kích đặc sắc.
II. Giải quyết vấn đềNhững đặc sắc của nghệ thuật châm biếm, đả kích của truyện ngắn Vi Hành:1. Phân tích
và bình giảng ba thủ pháp nghệ thuật
a) Thủ pháp nghệ thuật thứ nhất: Tạo tình huống bất ngờ, thú vị. Sự nhầm lẫn người dân thường thành đức vua,
hoàng đế vi hành. Cũng là nghệ thuật miêu tả gián tiếp, khách quan, có tác dụng châm biếm hóm hỉnh, đả kích sâu
sắc: - Sự nhầm lẫn tăng tiến trong không gian và số lượng:
+Phần đầu: Đôi thanh niên Pháp trên toa xe điện ngầm nhầm “tôi”- tác giả với hoàng đếvà họ cũng tưởng nhầm

người ngồi cạnh họ, nghe họ nói không hiểu tiếng Pháp. Sự nhầm lẫn song trùng đáng nực cười ấy khiến ngôn ngữ
nhân vật càng tự nhiên, phóng túng…Ngoại hình hoàng đế- “anh vua”- cứ hiện rõ dần, rõ dần: “mũi tẹt, mắt xếch,
cái mặt bủng như vỏ chanh…khoác trên người đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm…Các ngón tay đeo đầy nhẫn, có
cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn…”. Cử chỉ của hoàng đế cũng được nhắc lại: “Trông hắn có vẻ nhút
nhát, lúng ta lúng túng…”Và giá trị của “ngài” thì rẻ tiền hơn những trò tiêu khiển của người Pari- “Nghe nói ông
bầu nhà hát múa rối định ký giao kèo”. Nghĩa là vị hoàng đế của xứ An Nam ấy- dưới con mắt đôi bạn trẻ người
Pháp chẳng khác gì một con rối để họ được mua vui, thoả chí tò mò.
+Phần sau: Ra đường phố- không gian mở rộng- dưới cái nhìn nhầm lấn của người dân, của nhân viên nhà nước,
cảu chính phủ- số lượng người nhầm lẫn tăng nhiều “Đến nay… tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành
hoàng đế…”. Quân chúng thì tự phát biểu nhiệt tình bằng những tiếng nói, cái chỉ tay “hắn đấy, xam hắn kìa”. Các
nhân viên chính phủ thì “đối đãi tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa… bàm lấy đế giày như hình với
bóng…” Rõ ràng, “hoàng đế An Nam” đã thành trò vui, thoả chí tò mò của tất cả người Pháp, cả dân thường và nhà
chức trách.
+ý nghĩa, tác dụng: trào lộng, châm biếm thật hóm hỉnh.
-Sự nhầm lẫn tăng theo thời gian và chất lượng:
+Lúc đầu đôi thanh niên hình dung dáng vẻ bên ngoài của hoàng đế- khiến hoàng đế trở thành một kẻ lố bịch, hợm
của, diêm dúa, nhút nhát, đáng cười.
+Sau, ở tất cả mọi lúc người ta nhìn nhận. Suy nghĩ và đối xử với hoàng đế như một kẻ tầm thường: họ gọi “hắn
đấy, xam hắn kìa”; họ rình “như người mẹ rình đứa con thơ chập chững bước đi…”.
- Sơ kết: Nhờ tình huống nhầm lẫn, câu chuyện trở nên trớ trêu, hài hước, khách quan, ngỡ như tác giả không cố
tình mà chỉ chép lại sự thật. Tác dụng: vừa phê phán đả kích vua bù nhìn Khải Định- kẻ lố bịch, con rối, đứa trẻ tầm
thường dứơi cái nhìn và thái độ đối xử của người Pháp- vừa châm biếm nhẹ nhàng, hóm hình thói tò mò, hiếu kỳ
của người dân Pháp; cũng như tác phong quan liêu bất nhã, tuy tiện của nhân viên chính phủ Pháp, và cả chủ trương
theo dõi, kiểm soát chặt chẽ những người Việt Nam trên đất Pháp lúc ấy của chính phủ Pháp.
b) Thủ pháp nghệ thuật thứ hai: Tác giả dùng hình thức viết thư.
Không bị gò ép bởi bố cục, quy tắc, mà có chỗ tạt ngang, nói tiếng nói và suy nghĩ của mình. Đặc sắc nhất là khi
“tôi”- Nguyễn ái Quốc- gợi nhớ những vị hoàng đế chân chính thực hiện những chuyến vi hànhvĩ đại như vua
Thuấn (Trung Quốc), vua Pie (nước Nga)…Đối chiếu rồi đưa ra những lưòi chất vấn nghiêm khắc: “Phải chăng
ngài muốn… Phải chăng ngài muốn… hay la ngài lại muốn…”Những câu hỏi không lời đáp vừa như lời luận tội,
vừa lột trần chuyến đi mờ ám của Khải Định.

- Vì là thư cho “cô em họ”nên tác giả dùng nhiều giọng văn, không bị trói buộc, rất tự nhiên, nhớ đâu kể đấy… như
đùa như bịa mà là thật, rất thật.
Tác dụng: Tạo giá trị hiện thực, đùa vui nhưng nghiêm túc, khiến “cô em” nói riêng và người đọc nói chung được
cười thoải mái, không phải cười xoà mà cười ra nước mắt “cười ruồi”, cười giễu, “giễu chết tươI”- như nhận xét của
giáo sư Phạm Huy Thông: vừa khinh ghét kẻ lố bịch vừa ngậm ngùi chua xót cho thân phận một dân tộc mất nước,
bị sỉ nhục từ hoàng đế xuống mỗi người dân.
c) Thủ pháp nghệ thuật thứ ba: Dùng từ, viết câu đạt hiệu quả châm biếm, đả kích.
- Dùng từ, viết câu tả thực sống động: “Họ ngấu nghiến trông tôi… rình rập con thơ…bám lấy đế giày tôi…” có tác
dụng gợi hình, đả kích, châm biếm mạnh.
- Dùng từ, viết câu theo nghĩa ngựơc, theo lối chơi chữ của văn Pháp,hóm hình,đầy tính kịch, đẫn chất chất trí tuệ:
+ “Quần chúng cứ tự phát mà biểu lộ nhiệt tình…đón tiếp tôt đẹp…” Ngỡ như họ “chào mừng”, “kính trọng”- song
kính trọng bằng cách chỉ trỏ và xưng hô “hắng đấy, xem hắng kìa”.
+Câu văn cuối “Tôi không sao che giấu nổi sự tự hào đựoc là một người An Nam và sự kiêu hãnh có một vị hoàng
đế…” Niềm tự hào hay xấu hổ? Sự kiêu hãnh có một vị hoàng đế hay điều quốc xỉ đến ê chề, đau xót?
2. Khái quát, bình luận
a) Những thủ pháp nghệ thuật trong Vi hành: sự kết hợp hài hoà giữa phong cách văn xuôi Châu Âu hiện đại
(những nhầm lẫn kiểu hội hoá trang Carnavan, từ ngữ vui đùa kiểu “Đôn Kihotê”…) với lối đùa vui hóm hỉnh mà
thâm trầm á Đông (tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến…) Đó cũng là nét phong cách trong một số tác phẩm cùng chủ
đề: Con rồng tre, Lời than vãn của bà Trưng Trắc…
b) Tác dụng của thủ pháp: Qua các câu chữ (dù qua bản dịch), qua các chi tiết… ta thấy rõ ý nghĩa châm biếm, đả
kích sâu sắc mà nhẹ nhàng, nghiêm tuac nhưng hóm hỉnh, giàu trí tuệ mà thấm thía tình cảm. Đây la thứ trí tuệ, tình
cảm của một tâm hồn yêu nước, thấm nỗi đau dân tộc bị nô lệ.
III. Kết thúc vấn đề
- Cho ta thấy sống lại một thời kỳ lịch sử khi nhân dân bị nô lệ, vua chúa là bù nhìn của thực dân Pháp.
- Vi Hành là minh chứng cho tài hoa cũng như quan điểm sáng tạo vì mục đíach chính trị của Nghuyễn ái Quốc. Ta
thấy càng thêm kình trọng Hồ Chí Minh.
* Có thể tham khảo cách viết thứ 2:
A- Gợi ý chung:
Bài văn phải nêu được sáng tạo nghệ thuật độc đáo và bút pháp mỉa mai, châm biếm bậc thầy của tác giả.
Vi hành được viết vào năm 1923, sau sự kiện Khải Định sang Pháp một năm, sau các tác phẩm như Lời than vãn

của bà Trưng Trắc và Con rồng tre, cùng viết về một chủ đề. Điều này đòi hỏi tác giả Nguyễn ái Quốc phải vượt lên
chính mình, không lặp lại một cách nhàm chán, từ đó mà tạo thành một sáng tạo độc đáo.
Nói tới bút pháp là nói tới cách viết, các biện pháp nghệ thuật, ở đây là biện pháp mỉa mai, châm biếm.
B- Dàn bài sơ lược
A) Mở bài
- Vị trí của nghệ thuật trào phúng trong sáng tác văn học của Nguyễn ái Quốc.
- Vi hành- Một sáng tạo mới trong nghệ thuật trào phúng của Nguyễn ái Quốc.
B) Thân bài
Tình huống truyện mở ra hai hướng:
+ Chế giễu Khải Định mà vắng mặt Khải Định;
+ Một chuyện nhận lầm để hoá không thành có.
- Đàm tiếu của kẻ nhận lầm:
+ Đôi nam nữ người Pháp cà sự nhận lầm ngộ nghĩnh;
+ Khải Định trở thành một trò mua vui rẻ tiền;
+ Những so sánh với các cuộc vi hành của các vi nhân nhằm vạch mặt Khải Định.
+ Những nghi vấn giả định nhằm mỉa mai Khải Định với quan thầy;
+ Tiếp tục biện pháp “quá mù ra mưa” để chế giễu sự mẫn cán của mật thám Pháp.
- Kết luận về tình huống truyện độc đáo;
- Bút pháp mỉa mai, châm biếm của tác giả:
+ Những ví von ngộ nghĩnh;
+ Những nghi vấn giả định;
+ Tính chất chính luận sắc bén.
C) Kết bài
Truyện ngắn Vi hành là:
- Một thành tựu xuất sắc của văn học cách mạng.
Bài làm
Ra đời vào năm 1923, truyện ngắn Vi hành được xem là một sáng tác nghệ thuật độc đáo cảu Nguyễn ái Quốc
với lối châm biếm mỉa mai sâu sắc và thâm thuý. Bằng cách vận dụng cách nói hóm hỉnh của người Pháp và cách
nói thâm trầm cảu người Việt, tác giả đã dựng nên hình ảnh tên vua bù nhìn Khải Định ngu dốt, hèn hạ và đốn mạt
đến lố bịch.

Nói đến “Vi hành”, ta liên tưởng đến hành động của những bậc minh quân cải trang làm thường dân để đi tìm
hiểu sự thật về dân tình. Thế nhưng nội dung của tác phẩm Vi hành dưòng như phảm đề với tựa của nó. Khải Định
không phải là một vị minh quân, không phải cải trang để lo cho đời sống nhân dân mà “vi hành” sang Pháp với
những cuộc đI lén lút, ám muội nhằm thực hiện những mục đích riêng tư. Nhờ cách đặt tựa đề như thế, nó làm cho
tác phẩm tăng thêm phần hóm hỉnh, trí tuệ và đặc biệt, nó có tác dụng rất lớn trong việc đả kích không thương tiếc
nhưũng hành vi hén hạ của tên vua Khải. Định khi du hành sang Pháp.
Truyện ngắn đựơc viết với hình thức một bức thư gửi cho cô em họ. Thực ra, hình thức viết thư chẳng có gì
mới mẻ, điều độc đáo ở đay là hình thức viết thư này đã được Nguyễn ái Quốc sử dụng một cách linh hoạt, thích
hợp nhằm đạt được những hiệu quả nghệ thuật cao nhất.Trước hết, văn viết thư thuộc phong cách hội thoại nên
người viết có thể viết tự nhiên, thoải mái. Điều này giúp Nguyễn ái Quốc có thể chuyển đề tài raast linh hoạt từ cảnh
ga tàu điện ngầm ở Pari sang cảnh quê nhà; từ chuyện vua Thuấn ở bên Tàu sang chuyện vua Pie ở nước Nga; từ
chỗ châm biếm Khải Định đến chỗ đả kích bọn thực dân và mật thám Pháp. Hơn nữa, sử dụng bút pháp viết thư
giúp tác giả không cần đi theo logic, có thể đả kích được cùng một lúc nhiều đối tượng bằng nhiều giọng điệu khác
nhau. Vì thế, trong một khuôn khổ rất ngắn gọn, truyện ngắn có thể chứa đựng một nội dung rất lớn, đồng thời tạo
nên sức hấp dẫn đối với người đọc. Ngoài ra, đọc tác phẩm dưới hình thức một bức thư có thể gây cho người ta ảo
tưởng rằng đây là một câu chuyện có thật. Nhưng những yếu tố hài hước và những sự nhầm lẫn kỳ lạ, có tính
khuyếch đại lại làm cho người đọc nghĩ rằng đây là một câu chuyện bịa Chính nờ sự lẫn lộn bịa thật này đã gieo vào
đầu người đọc những suy nghĩ, thắc mắc, giúp họ có thể hấp thu được nhiều nội dung mà Nguyễn ái Quốc muốn
truyền đạt.
Thế nhưng, nói đến những sáng tạo độc đáo của Nguyễn ái Quốc, trước tiên phải kể đến sự thành công của tác
giả trong việc tạo những tình huống nhầm lẫn độc đáo, đặc biệt nhân việc vua Khải Định được thực dân Pháp mời
sang dự cuộc đấu xảo ở Macxay, Nguyễn ái Quốc đã dựa vào một sự việc có thật hư cấu thêm, tạo cho truyện Vi
hành một sức hấp dẫn lạ kỳ. Đó là sự nhầm lẫn tác giả với Khải Định đi “vi hành”. Việc tạo tình huống mày làm tác
phẩm mang tính châm biêm sâu sắc đồng thời, tạo sức thuyết phục cao đối với người đọc. Hơn nữa, giá trị tố cáo
của truyện vì thế mà mang tính khách quan hơn vì những lời thoá mạ Khải Định là do sự ghi lại những nhận xét,
đánh giá của dân chúng Pháp đối với vị vua bù nhìn này mà nhân vật tôI hoàn toàn “vô can”, không cố ý lố bịch hoá
“quốc vương” của mình.
Trước hết là sự nhầm lẫn của đôi tình nhân Pháp tường tác giả là quốc vương An Nam. Nghĩ rằng quốc vương
không biết tiếng Pháp, họ đã thoải mái bình phẩm về Khải Định. Cái hay của Nguyễn ái Quốc là không hề mô tả
trực tiếp nhân vật nhưng qua những cuộc nói chuyện chắp nối rời rạc, chân dung Khải Định lại hiện lên thật sinh

động, rõ nét. Đó là một Khải Định với “cái mũi tẹt”, “đôi mắt xếch”, “cái mặt bủng như vỏ chanh”; thái độ thì “nhút
nhát”, “lúng ta lúng túng”; cách ăn mặc thì khôi hài lạ lẫm “có cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn, các ngón
tay thì đeo đầy những nhẫn, đeo lên người cả bộ lụa là, cả bộ hạt cườm”. Quả thật, trong con mắt của đôi tình nhân
ấy, vua Khải Định chỉ là trò lạ mắt, thứ đồ chơi: “Họ ngấu nghiến trông tôi với cặp mắt ma mãnh, tò mò nhưng lại
ra bộ không nhìn tôi gì cả.” Và tệ hại hơn nữa, từ chỗ được xem như một thứ đồ cổ, Khải Định- Quốc vương An
Nam- giờ đây lại được xem như một kẻ làm trò hề giải trí cho người Pháp giữa lúc mà kho giải trí ở đây “sắp cạn
ráo như cái nhà băng Đông Dương”. Hắn được đạt ngang hàng với Saclo, vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên hay tụi làm
trò leo trèo nhào lộn của sư thành xứ Cônggô. Đặt Khải Định trước con mắt của những người thanh niên Pari đang
háo hức xem trò giải trí mới lạ khiến cho bộ dạng tên vua bù nhìn đã lố bịch lại càng trở nên hài hước lố bịch hơn.
Đặc biệt, chi tiết Khải Định mang đồ đạc nữ trang của mình đi cầm ở hiệu cầm đồ càng làm tăng thêm nét sắc sảo
trong nghệ thuật châm biếm của tác giả. Vả lại, ta thấy rất hợp logic và hoàn toàn không có gì quá đáng khi những
lời nhận xét này phát ra từ miệng những người thanh niên Pháp, đang sống trong chế độ dân chủ, những người mà
đối với họ, vua chúa chỉ là đồ cổ, không có giá trị. Lời bình ấy nếu đặt vào miệng người Việt Nam, sẽ trở thành lời
thoá mạ hằn học, thiếu tự nhiên.
Trong không gian rộng- Thủ đô Pari, nhân vật tôi lại trở thành đối tượng nhầm lẫn của nhân dân Pháp. Thái độ
của họ đối với Khải Định là một sự khinh bỉ qua cách gọi “hắn đấy” hay “xem hắn kìa”.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×