Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Ẩm thực ngày tết của người Mường xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.67 KB, 42 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 3
2. Lịch sử nghiên cứu ......................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................ 5
6. Bố cục tiểu luận .............................................................................................. 5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI MƢỜNG XÃ NGỌC LÂU, HUYỆN
LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH ........................................................................... 6
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên xã Ngọc Lâu ........................................ 6
1.1.1 Vị trí địa lý .......................................................................................... 6
1.1.2. Điều kiện tự nhiên .............................................................................. 6
1.2. Nguồn gốc dân cƣ..................................................................................... 6
1.3. Tập quán mƣu sinh ................................................................................... 8
1.4. Đặc điểm văn hóa tộc ngƣời ..................................................................... 9
1.4.1. Văn hóa vật chất ................................................................................. 9
1.4.2. V ăn hóa tinh thần ............................................................................ 13
Chƣơng 2: ẨM THỰC TRONG NGÀY TẾT CỦA NGƢỜI MƢỜNG Ở XÃ
NGỌC LÂU, HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH ..................................... 15
2.1. Khái quát về ẩm thực của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu ......................... 15
2.2. Những món ăn trong ngày Tết của ngƣời Mƣờng ở Ngọc Lâu................ 15
2.2.1. Những món được chế biến từ gạo ..................................................... 16
2.2.2 Những món ăn chế biến từ thịt........................................................... 19
2.2.3. Những món ăn chế biến từ cá ........................................................... 21
2.3. Đồ uống.................................................................................................. 22
2.4. Tục ăn trầu cau ....................................................................................... 23
2.5 Truyền dạy tri thức ẩm thực trong cộng đồng .......................................... 23
2.6. Những giá trị văn hóa trong ẩm thực ngày Tết của ngƣời Mƣờng........... 24
2.6.1. Gía trị tâm linh ................................................................................. 24
2.6.2. Gía trị xã hội .................................................................................... 25


1


Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ ẨM THỰC TRONG NGÀY TẾT CỦA NGƢỜI MƢỜNG Ở XÃ NGỌC
LÂU, HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH ................................................. 26
3.1. Những biến đổi về ẩm thực ở xã Ngọc Lâu hiện nay .............................. 26
3.1.1. Biến đổi về nguyên liệu..................................................................... 26
3.1.2. Biến đổi cách thức chế biến .............................................................. 27
3.1.3. Biến đổi về cách thức sử dụng .......................................................... 27
3.2. Nguyên nhân biến đổi ẩm thực trong ngày Tết của ngƣời Mƣờng ở xã
Ngọc Lâu ...................................................................................................... 28
3.2.1. Giao lưu văn hóa .............................................................................. 28
3.2.2. Môi trường xã hội thay đổi ............................................................... 28
3.2.3. Môi trường tự nhiên thay đổi ............................................................ 28
3.2.4. Biến đổi các hoạt động kinh tế.......................................................... 29
3.3. Bảo tồn và phát huy các giá trị của ẩm thực trong ngày tết của ngƣời
Mƣờng ở Ngọc Lâu ....................................................................................... 29
3.3.1. Nâng cao nhận thức cho người dân .................................................. 29
3.3.2. Tăng cường thông tin, tuyên truyền, quảng bá về ẩm thực của người
Mường ....................................................................................................... 30
3.3.3. Giải pháp đầu tư, triển khai, thực hiện ............................................. 31
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 33
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 34

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Mƣờng có quan hệ mật
thiết với các dân tộc anh em khác. Văn hóa Mƣờng là nền văn hóa bản địa,
phong phú, đa dạng, giàu bản sắc và rất độc đáo thể hiện qua nếp nhà, trang
phục truyền thống... cùng với quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc, ngƣời
Mƣờng đã xây dựng nên nền văn hóa tộc ngƣời đặc sắc góp phần tạo nên
tính đa dạng trong văn hóa Việt Nam.
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa Mƣờng, tuy nhiên
các công trình vẫn chƣa nghiên cứu một cách thấu đáo về từng nhóm địa
phƣơng. Trong số đó có nhóm Mƣờng ở Hòa Bình. Mặc dù có nhiều điểm tƣơng
đồng , song do quá trình tụ cƣ, quy mô, mức độ giao tiếp văn hóa với khu vực
lân cận... mà có nhiều điểm khác biệt. Ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc
Sơn, tỉnh Hòa Bình là một trong những trƣờng hợp nhƣ vậy.
Đối với ngƣời Mƣờng, tết Nguyên Đán là cái tết quan trọng nhất trong
năm. Bởi vậy các món ăn cũng đƣợc làm cầu kì và đặc sắc hơn để dâng cúng lên
tổ tiên thần thánh. Điều này phản ánh truyền thống và đặc trƣng của cƣ dân
Mƣờng. Vì vậy tìm hiểu ẩm thực của ngƣời Mƣờng nói chung và ngƣời Mƣờng
ở xã Ngọc Lâu nói riêng không chỉ để hiểu biết về đặc điểm các món ăn mà
thông qua đó để hiểu về tín ngƣỡng, văn hóa của ngƣời Mƣờng hơn. Không
những thế, nghiên cứu đồ ăn uống, hút truyền thống còn góp phần xác định tiềm
năng, nguồn lực phát triển du lịch, văn hóa. Bởi vậy nghiên cứu ẩm thực trong
ngày tết Nguyên Đán của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh
Hòa Bình là nhu cầu thực tiễn hiện nay. Từ những lí do trên em chọn đề tài “Ẩm
thực ngày tết của người Mường xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa
Bình” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Cho đến nay, việc nghiên cứu về ngƣời Mƣờng đã trở thành vấn đề nghiên
cứu của không ít nhà nghiên cứu, nhà khoa học và đã đƣợc đề cập đến trong một
số công trình nghiên cứu sau:


3


Từ xƣa, ăn uống đã đƣợc đề cập trong các công trình nghiên cứu Dân tộc
học ở cả trong và ngoài nƣớc. Về ẩm thực truyền thống trong ngày tết dân tộc
của ngƣời Mƣờng ở Việt Nam đƣợc đề cập trong các công trình nhƣ Từ Chi với
Văn hóa Mường, Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình; Nguyễn Thị
Thanh Nga (chủ biên) với Người Mường ở Tân Lạc, Hòa Bình…
Tuy vậy, việc nghiên cứu về ẩm thực trong ngày tết cổ truyền của ngƣời
Mƣờng ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình vẫn chƣa phải đã quan
tâm đúng mức, chƣa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách cụ thể về vấn
đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những vấn đề về điều kiện tự nhiên, xã hội liên quan đến ẩm thực
trong ngày tết cổ truyền của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh
Hòa Bình.
Nâng cao hiểu biết về ẩm thực trong ngày tết của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc
Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Tìm hiểu về ẩm thực trong ngày tết cổ truyền của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc
Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình và những biến đổi của nó trong giai đoạn
hiện nay.
Đề xuất giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của ẩm thực trong ngày
tết cổ truyện của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chính của bài tiêu luận là ẩm thực trong ngày tết
Nguyên Đán của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Bên cạnh đó bài tiểu luận cũng đề cập đến một số yếu tố liên quan đến ngƣời
Mƣờng nhƣ văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, những yếu tố ảnh hƣởng đến ẩm
thực của ngƣời Mƣờng trong đời sống thƣờng ngày cũng nhƣ trong ngày tết

Nguyên Đán.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình
- Thời gian: Từ năm 2000 trở lại đây
4


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận chung là dựa trên Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh. Đó là đặt nội dung nghiên cứu trong bối cảnh môi trƣờng tự nhiên,
kinh tế, xã hội và văn hóa tộc ngƣời mà cụ thể là dân tộc Mƣờng và của vùng,
đặt ẩm thực Mƣờng trong một hệ thống với nhiều thành tố có mối quan hệ và sự
tác động qua lại, và đặt trong xu thế vận động và phát triển.
Phƣơng pháp chính đƣợc sử dụng là nghiên cứu điền dã ở thực địa,với các
kĩ thuật chủ yếu nhƣ: quan sát, phỏng vấn, hỏi chuyện, chụp ảnh, ghi âm...
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phƣơng pháp thống kê, tổng hợp để thu
thập những tài liệu hiện có của địa phƣơng nơi nghiên cứu về những nội dung
liên quan tới đề tài, nhƣ các báo cáo và số liệu thống kê. Ngoài ra còn tham khảo
tài liệu từ những công trình, các tạp chí chuyên nghành đã công bố về ẩm thực ,
đặc biệt là ẩm thực Mƣờng.
Để bổ sung tƣ liệu, tác giả còn nghiên cứu tài liệu thứ cấp, tham khảo các
sách, các tạp chí chuyên ngành, cũng đƣợc chú trọng thực hiện.
6. Bố cục tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung chính của tiểu luận đƣợc
trình bày trong 3 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan về người Mường xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn,
tỉnh Hòa Bình
Chương 2: Ẩm thực trong ngày tết của người Mường ở xã Ngọc Lâu,
huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình
Chương 3: Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị ẩm thực

trong ngày tết của người Mường ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tình Hòa
Bình

5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI MƢỜNG XÃ NGỌC LÂU,
HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên xã Ngọc Lâu
1.1.1 Vị trí địa lý
Xã Ngọc Lâu nằm ở phía Nam huyện Lạc Sơn, cách trung tâm huyện lỵ
16km. Chiều dài từ Tây sang Đông 9km; chiều rộng từ Bắc xuống Nam 3,7km
Xã Ngọc Lâu có vị trí giáp ranh với xã Ngọc Sơn ở phía Tây, giáp ở xã Tân
Mỹ ở phía Đông, phía Mam giáp xã Tự Do, phía bắc giáp xã Thƣơng Nhƣợng.
Hiện nay xã Ngọc Lâu có 13 xóm, gồm: Xóm Chiềng 1; Chiềng 2; Hầu 1;
Hầu 2; Hầu 3; Đầm; Băng; Khộp 1; Khộp 2; Xê 1; Xê 2; Xê 3.
Với vị trí địa lý nhƣ vậy, xã Ngọc Lâu có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế-xã hội giữa các làng và khu vực lân cận.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Tổng diện tích đất tự nhiên: 5.788,92ha.
Ngọc Lâu có địa hình núi cao hiểm trở, bị chia cắt mạnh và đƣợc phân hóa
thành 3 dang địa hình cơ bản:
Dạng địa hình đồi núi cao là dạng địa hình chủ yếu, có diện tích nhiều nhất
chiếm 70% tổng diện tích của xã, chủ yếu ở các thôn Hầu 1, Xê1, Xê2, Xê 3,
dạng địa hình này phần lớn là đồi núi đất cao, có lùm cây thich hợp khoanh
nuôi, rừng sinh thái tự nhiên của xã.
Dạng địa hình đồi núi thấp phân bố nhiều ở các xóm khộp, xóm đèn, xóm
băng, xóm chiềng diện ích ruộng chiếm 20% diện tích tự nhiên, phù hợp với
phát triển trồng cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc.

Dạng địa hình bằng phẳng phân bố ở trung tâm và phía đông bắc của xã.
Thuộc các xóm Hầu 3, Đầm, một phần của xóm băng, xóm Xê và xóm Khộp.
Diện tích khoảng 10% diện ích của xã, thích hợp với phát triển nông nghiệp và
dich vụ.
6


Khu vực địa hình đồi núi thấp thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp, địa hình
đồng ruộng phát triển trồng cây lƣơng thực thực phẩm, phát triển chăn nuôi gia
súc, gia cầm. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi phát triển kinh tế nông nghiệp lúa
nƣớc, trồng cây lâm nghiệp, chăn nuôi đồng thời phát triển giao thông liên xã
giao lƣu trao đổi buôn bán giữa các vùng.
Về khí hậu, thủy văn, khí hậu của Ngọc Lâu cũng nhƣ là huyện Lạc Sơn
thuộc vùng khí hậu ôn hòa, mát mẻ, có mùa đông lạnh, mùa mƣa trữ lƣợng
không cao. Nhiệt độ trung bình năm là 220 C. Các tháng mùa hè nhiệt độ từ 27
đến 280 C, có ngày lên đến 30, 400 C. Mùa đông nhiệt độ thấp, có ngày rét nhiệt
độ xuống sáu đến mƣời độ C. Lƣợng mƣa trung bình năm là 1986mm, tập trung
vào các tháng 5,6,7,8,9. Các tháng mùa đông lƣợng mƣa ít nhƣng hạn không gay
gắt lắm, độ ẩm tung bình là tám mƣơi lăm phần trăm.
1.2. Nguồn gốc dân cƣ
Cũng nhƣ ngƣời Mƣờng ở nhiều địa phƣơng khác, tộc danh của ngƣời
Mƣờng ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn đƣợc nhà nƣớc chính thức công nhận là
Mƣờng. Trong thực tế họ còn đƣợc gọi là Mon, Mọi, Mual, Mƣờng Ngọc
Lâu,…..
Ở Việt Nam ngƣời Mƣờng sống nhiều ở Hòa Bình, Hòa Bình, Phú
Thọ…Hiện nay tổng số dân tộc Mƣờng ở Việt Nam là 1.268.963 (2009), trong
đó ở Hòa Bình là 328.744 (1999) chiếm 9,5% dân số của tỉnh Hòa Bình.
Tổ tiên ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình cƣ
trú ở quê hƣơng của họ hiện nay đã từ rất lâu đời. Theo các tài liệu đã công bố,
tổ tiên của họ đã có mặt ở Lạc Sơn, ngay từ giai đoạn Đồ đá mới, và là chủ nhân

của văn hóa Hòa Bình .
Hiện nay, ngƣời Mƣờng cƣ trú ở khắp các xóm, bản ở xã Ngọc Lâu, họ
cũng cƣ trú xen kẽ cùng ngƣời Thái, ngƣời Kinh (Việt) từ đã lâu đời. Đây chính
là tiền đề cho giao tiếp văn hóa giữa ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu, huyện Lạc
Sơn, tỉnh Hòa Bình đã và đang diễn ra khá mạnh mẽ, sâu sắc.
7


1.3. Tập quán mƣu sinh
Với đặc điểm cƣ trú ở những thung lũng ven núi nên ngƣời Mƣờng ở xã
Ngọc Lâu lấy trồng trọt lúa ở ruộng nƣớc và ruộng bậc thang làm hoạt đông
kinh tế chủ đạo. Từ xa xƣa ngƣời Mƣờng ở Ngọc Lâu đã biết phát nƣơng làm
rẫy bên cạnh những thửa ruộng nƣớc. Kỹ thuật canh tác lúa nƣơng của họ khá
phát triển, ngƣời Mƣờng có kinh nghiệm quý báu trong việc chọn đất làm nƣơng
rẫy; họ thƣờng chọn những những mảng rừng có giang , nứa mọc dày, trồng
mùn màu mỡ hay những vạt đất đen ven đồi. Ngoài việc trồng lúa nƣớc, lúa
nƣơng, ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu còn trồng thêm các loại cây hoa màu và
cây lƣơng thực khác trên nƣơng.
Hoạt động trồng trọt rất quan trọng đối với ngƣời Mƣờng ở đây, việc trồng
trọt đáp ứng nhu cầu lƣơng thực mà còn là hàng hóa trao đổi mua bán. Vì thế có
nhiều nghi lễ , tục lệ nông nghiệp nhƣ: lễ cầu mùa, lễ mừng cơm mới... kèm theo
kiêng kị mang tính chất ling thiêng.
Ngƣời Mƣờng đƣợc đánh giá là một trong những tộc ngƣời có tài về chăn
nuôi với nhiều động vật khác nhau nhƣng chủ yếu nuôi trâu bò, (chăn nuôi theo
kiểu thả rông). Ngoài việc cung cấp sức kéo thì trâu bò còn là nguồn cung cấp
thực phẩm trong những ngày hội trọng đại của cộng đồng và gia đình.Đối với
ngƣời Mƣờng , trâu bò có vị trí đặc biệt trong đời sống thƣờng ngày vì đối với
họ chúng là cả tài sản, cơ nghiệp, phản ánh tiềm lực kinh tế từng nhà trong bản
và bản này với bản khác.
Bên cạnh đó ngƣời Mƣờng còn nuôi lợn, gà để lấy thịt, trứng. Chúng cũng

đƣợc ngƣời Mƣờng nuôi thả thành bầy. Ngoài ra ngƣời Mƣờng còn biết tận
dụng ao, hồ, sông ngòi để nuôi thả cá.
Trong các nghề thủ công truyền thống của ngƣời Mƣờng thì đan lát và dệt
vải là hai nghề phổ biến nhất.
Ngƣời Mƣờng đặc biệt khéo tay trong việc đan lát các vật dụng dùng trong
gia đình từ nguyên liệu tự nhiên là tre, nứa, giang mây nhƣ: rổ, rá, thúng, nia,
giỏ..
8


Nghề dệt vải cũng khá phổ biến. Trong mỗi gia đình ngƣời Mƣờng đều có
các khung cửi dùng để dệt vải bông, phục vụ may mặc cho các thành viên. Công
việc trông bông và dệt vải chủ yếu do nữ giới đảm nhiệm. Nguyên liệu dùng để
dệt vải ngoài bông, còn có tơ tằm, .
Bên cạnh đó nghề mộc cũng tƣơng đối phát triển.Hầu nhƣ bản làng nào của
ngƣời Mƣờng cũng có một đội mộc riêng của mình để phục vụ trong xây dựng
nhà cửa, đình miếu ....
Chợ đối với ngƣời Mƣờng ở Ngọc Lâu có vai trò quan trọng , đây không
chỉ là nơi gặp gỡ của mọi ngƣời mà quan trọng hơn cả là nơi trao đổi buôn bán.
Các mặt hàng ở đây rất phong phú đa dạng từ lƣơng thực, thực phẩm hằng ngày,
các nông cụ để sản xuất....
Những sản phẩm ngƣời Mƣờng thu đƣợc từ rừng không chỉ đủ dùng trong
gia đình mà còn đƣợc dùng để trao đổi nhƣ: măng, mộc nhĩ, nấm. Ngƣời Mƣờng
trao đổi những sản phẩm khai thác từ rừng về và đổi lấy những vật dụng dùng
trong gia đình nhƣ : muối , dầu thắp, bát đĩa, xoong nồi....
Hoạt động buôn bán ngày càng len lỏi vào tận các bản Mƣờng xa của xã
Ngọc Lâu, từng bƣớc tạo nên mối quan hệ giữ miền xuôi và miền ngƣợc, giữa
ngƣời Mƣờng và các dân tộc khác góp phần vào giao lƣu văn hóa – kinh tế giữa
các tộc ngƣời gần gũi nhau.
1.4. Đặc điểm văn hóa tộc ngƣời

1.4.1. Văn hóa vật chất
1.4.1.1. Nhà cửa
Trƣớc đây ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu ở nhà sàn. Nhà sàn của họ nhìn
bên ngoài không khác gì nhà sàn của ngƣời Tày, ngƣời Thái, nhƣng nhỏ bé và
xây cất đơn giản, mộc mạc hơn. Nhà của họ đều đƣợc làm bằng gỗ, tre, nữa, lớp
bằng cỏ tranh hay lá cỏ. Ngôi nhà cổ xƣa thƣờng chôn cột xuống đất, nay chân
cột đều kê táng. Thiết kế nhà truyền thống của họ theo kiểu vì kèo, liên kết chủ
yêu là buộc, gá ... Những ngôi nhà cổ của họ thƣờng nhỏ và thấp, vách làm bằng
phên nứa, mái chảy xuống gần hết cửa sổ. Cửa sổ thƣờng thiết kế ở đầu hồi và
9


vách phía sau. Cầu thang phía gian ngoài dành cho nam giới, cầu thang phía
gian trong dành cho nữ giới. Cách bố trí nơi ăn ở trong nhà của họ tƣơng đối
thống nhất. Nửa sàn phía trên (giáp voong tong) thƣờng dùng để ngủ, nghỉ, nửa
phía dƣới đặt bếp, là nơi sinh hoạt của gia đình. Nếu tính theo chiều ngang sàn
nhà, phần bên ngoài dành cho nam giới, phần bên trong (voong khƣa) là khu vực
của phụ nữ. Bên ngoài liền với phần dành cho phụ nữ là sàn phơi và để nƣớc ăn.
Hiện nay nhà ở của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu đã thay đổi rõ nét, không
còn những ngôi nhà sàn truyền thống mà thay vào đó là các ngôi nhà cao tầng,
nhà mái bằng, nhà xây lợp ngói. Tổ hợp kiến trúc nhà ở của họ có nhiều thay đổi
. Nhà ở, nhà bếp và chuồng trại gia súc đƣợc thiết kế, xây dựng thành khu riêng
biệt. Khuôn viên cƣ trú đều đƣợc thu hẹp lại.
1.4.1.2. Trang phục
- Trang phục nữ giới
Trang phục của ngƣời Mƣờng không chỉ đơn thuần mang chức năng xã hội
mà nó còn mang nhiều giá trị văn hóa thẩm mỹ cao. Một bộ trang phục hoàn
chỉnh gồm rất nhiều bộ phận khác nhau hợp thành một thể thống nhất trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Ngoài ra các phụ kiện kèm theo là đồ trang sức:
vòng tay, xà tích…cũng đƣợc sử dụng.

-Khăn đội đầu: Đƣợc dệt bằng vải thô, màu đen,không có viền,ở hai đầu
khăn có hoa văn,khi đội trùm lên đầu và buộc ở đằng sau gáy. Hiện nay phụ nữ
Mƣờng ở một số vùng có xu hƣớng buông tóc dài nhiều hơn là đội khăn ,còn
tầng lớp trung niên và những ngƣời cao tuổi thì chiếc bít tlốk truyền thống vẫn
thƣờng xuyên đƣợc dùng và trở thành vẻ đẹp riêng của ngƣời phụ nữ Mƣờng.
- Áo (gọi là áo khóm): cắt thẳng không có eo, ngắn hơn áo cánh của ngƣời
Kinh(Việt), cổ tròn không có khuy, tay nối với thân áo đằng sau cổ có hai dây
buộc, áo khóm đƣợc may bằng vải tơ tằm, vải bông dệt màu trắng, xanh,
hồng…Với hình dáng áo nhƣ vậy tạo nên vẻ đẹp giản dị của ngƣời phụ nữ
Mƣờng. Tuy áo không thêu hoa văn nhƣng vẫn mang nét dịu dàng mà đầy quyến
rũ của ngƣời phụ nữ Mƣờng.
10


- Váy và cạp váy: Sau khi dệt thành tấm vải, váy đƣợc may thành hình ống
tròn, màu đen, phần cạp váy che ngực đƣợc dệt từ sợi tơ tằm và thƣờng đƣợc dệt
thành các đƣờng ngang trang trí rất cầu kỳ, trên cạp váy chủ yếu khắc họa các ô
vuông trong tự nhiên với đƣờng nét tinh tế. Về thân váy, eo rộng về chiều ngang
nên khi mặc họ thƣờng quấn xung quanh thân, phần thừa quấn lại thành nếp
chạy dài thân váy dọc xuống phía trƣớc rất gọn gàng tạo cho bƣớc đi của họ rất
tự tin không có cảm giác vƣớng víu khi di chuyển.
Cùng với áo và váy đƣợc mặc vào làm tăng thêm vẻ dịu dàng hiền lành
và chất phác,đảm đang của ngƣời phụ nữ Mƣờng. Khi mặc váy đƣợc quấn chặt
phần ngực thừa gấp nếp cho ra phía trƣớc,buộc một sợi dây nhỏ trƣớc ngực giữ
cho váy không bị tuột,cách mặc nhƣ trên vừa đơn giản vừa đáp ứng nhu cầu,phù
hợp với chức năng sinh hoạt đi lại trong nếp sống truyền thống của ngƣời phụ
nữ Mƣờng.Họ thƣờng mặc váy dài đến chấm gót,lối mặc váy này bây giờ chỉ
còn thấy ở cụ già.Phụ nữ Mƣờng thƣờng kiêng kỵ việc mặc lộn đầu xuống dƣới
gấu váy lên trên,bởi vì váy chỉ đƣợc mặc nhƣ vậy khi chồng chết chƣa kịp phát
tang,váy phụ nữ Mƣờng tiện lợi trong sinh hoạt.

Chiếc váy nào cũng có cạp, nhƣng bộ váy Mƣờng ở đây đƣợc xem là
khác biệt so với bộ váy Mƣờng ở nơi khác nhƣ ở Thanh Hóa hay Phú Thọ, ngay
cả bộ váy Mƣờng của ngƣời Mƣờng giáp biên giới Hòa Bình và Lào cũng đã
thấy sự khác biệt, bởi cạp váy của họ bị ảnh hƣởng của văn hóa Thái.
-Thắt lưng: Thắt lƣng là băng vải có chức năng giữ cho cạp váy quấn vào
cơ thể của ngƣời mặc, thắt lƣng truyền thống của ngƣời phụ nữ Mƣờng thƣờng
làm bằng vải tơ tằm. Thắt lƣng của ngƣời Mƣờng ở Ngọc Lâu có hai chiếc đƣợc
gọi là dây tênh, một dây tênh trắng và một dây tênh xanh đó là sự khác biệt đối
với ngƣời Mƣờng ở các nơi khác.Bên cạnh đó phục nữ Mƣờng còn đeo thêm cái
rón,cái rỏ ở bên hông do chính họ làm ra.Trong rón có một con dai và một chiếc
khăn mùi xoa nhƣng chỉ khi con gái về nhà chồng mẹ mới giao cho,cán dao
đƣợc làm bằng báng sừng hƣơu có bịt bằng bạc.Con dao thƣờng đƣợc gọi là vật

11


kỉ niệm thiêng liêng nhất và luôn gắn với bàn tay ngƣời con gái đƣợc ví nhƣ tình
mẫu tử không bao giờ lìa xa,ngay cả khi mang thai,sinh đẻ.
- Đồ trang sức: Đa số phụ nữ đều đeo hoa tai, khi chƣa lấy chồng các cô
gái đeo hoa tai do bố mẹ cho, lấy chồng thì đeo hoa tai do bố mẹ chồng mua
tặng. Từ khi sinh ra đƣợc 10 ngày các bà mẹ đã bấm lỗ tai cho con gái, từ 7-10
tuổi thì đeo.
- Trang phục truyền thống của nam giới
Trang phục truyền thống của nam giới Mƣờng thì đơn giản hơn chỉ có
khăn, áo và quần, không chỉ phụ nữ mà nam giới Mƣờng cũng có khăn, thắt
khăn, đội khăn. Tuy nhiên khăn của nam giới không thêu hoa văn giống của nữ
giới mà chỉ là một miếng vải đen màu chàm, khăn của nam giới thƣờng có một
màu, dài hơn 1m. Đàn ông Mƣờng thƣờng quấn khăn trên đầu khi đi xa hoặc khi
đi làm nƣơng,trong các dịp hội hè, lễ tết. Khăn của nam giới cũng giống của nữ
giới có tác dụng che nắng, mƣa, tránh rét.

-Áo cánh: Đƣợc khâu kiểu 4 thân, may từ chất liệu bông hay lụa tơ tằm,
thƣờng là màu nâu hoặc tối. Vạt áo dài gần chấm mông, hai bên hông xẻ tà, áo
đơm khuy, cài cúc. Áo thƣờng đƣợc may có túi nhỏ ở trên ngực, hai túi to ở phía
trƣớc hai vạt áo, toát lên vẻ đẹp mạnh mẽ và khỏe khắn của các chàng trai
Mƣờng.
-Quần vải: Đƣợc may rộng, dài tới mắt cá chân, cạp quần đƣợc may to. Khi
mặc họ thƣờng lấy dây vải buộc chặt lại dây vải này đƣợc xem là chiếc thắt
lƣng, hiện nay đƣợc thay bằng dải rút có thuận lợi hơn.
Có thể thấy cùng với việ sử dụng chất liệu vải, thƣờng là vải bông tự trồng
và bằng tơ tằm, cùng với quá trình cắt may hết sức bình thƣờng, thủ công đơn
giản tạo nên trang phục nam của ngƣời Mƣờng mang dáng dấp khỏe khoắn và
mạnh mẽ. Tạo nét khác biệt và một phong cách riêng trong trang phục nam giữa
các thành phần dân tộc khác.
Trong quá trình phát triển của lịch sử, quá trình giao lƣu văn hóa giữa các
dân tộc có những nét thay đổi, trang phục nam không còn giữ đƣợc nét truyền

12


thống, hiện nay nam giới Mƣờng không còn mặc chiếc quần truyền thống nữa.
Tuy nhiên vẫn có ngƣời mặc quần áo truyền thống trong các dịp lễ tết.
1.4.2. Văn hóa tinh thần
1.4.2.1. Tôn giáo, tín ngưỡng
Ngƣời Mƣờng ở Ngọc Lâu theo quan niệm vạn vật hữu linh. Chính vì vậy
mà họ cầu cúng tất cả các loại thần thánh, ma quỷ, một khi cảm thấy cần thiết.
Họ cho rằng con ngƣời chết đi cũng biến thành ma, và ma tổ tiên có thể phù hộ
đƣợc con cháu. Vì thế thơ cúng tổ tiên (thờ hùy, chiềng thờ, thổm thắm,…) có
tầm quan trọng số một trong đời sống tâm linh của họ. Ngoài việc thờ cúng tổ
tiên dòng bố (bố mẹ, ông bà nội, các cụ nội, các kỵ nội/ bác mạng, pố tá-mệ tá,
pố mệ hƣợn), ngƣời Mƣờng còn thờ cúng cả tổ tiên bên vợ (pố mộng, mộng

hạm,…).Việc thờ cúng tổ tiên đƣợc thực hiện ngay tại bàn thờ ở (voong tong)
trong nhà. Đối với ngƣời Mƣờng Ngọc Lâu, ngày giỗ là ngày chôn cất, chứ
không phải là ngày ngƣời thân qua đời. Tuy thế việc cúng bái tổ tiên của họ chỉ
diễn ra vào ngày lễ tết cổ truyền, các dịp gia đình tiến hành các nghi lễ thuộc
chu kỳ vòng đời cho các thành viên, hoặc khi dựng nhà mới. Lễ vật cúng tổ tiên
của họ thƣờng chỉ là cơm nếp đồ, cá nƣớng, canh và thit luộc. Ngoài việc thờ
cúng tổ tiên, họ còn có tục: thờ đá, cúng bí đỏ (lễ lên nhà mới), thờ cây si (chu
rồng), thờ mó nƣớc, thờ vật tổ dòng họ (Tô tem), thờ thổ công, ông Tùng, ông
Keo Heng, Ải Lý, Ải Lo, ông Chàng Vàng,…)
1.4.2.2. Lễ hội
Lễ hội là một trong những nét văn hóa tiêu biểu của ngƣời Mƣờng. Có
nhiều lễ hội diễn ra trong năm, mà chủ yếu tập trung vào tháng giêng. Và đáng
chú nhất là các lễ hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp, và mang ý nghĩa cầu
mùa. Những nghi thức cầu mùa đó đều thể hiện một cách sinh động bởi tín
ngƣỡng phồn thực. Lễ hội của ngƣời Mƣơng tiêu biểu là Tết nguyên Đán, lễ hội
sắc bùa, lễ hội xuống đồng, lễ hội cơm mới...
1.4.2.3. Văn học nghệ thuật dân gian
Ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu có kho tàng văn học, nghệ thuật dân gian khá
phong phú. Đáng chú ý nhất phải kể tới các truyền thuyết về Ông Tùng, Sự tích
13


chim páng pang pỏi pỏi, Sử tích ve sầu, Nàng Nga Hai Mối, Con côi, Đẻ đất Đẻ
nƣớc…Đó là những tài liệu có giá trị lớn giúp hiểu đƣợc phần nào về vũ trụ
quan, nhân sinh quan, lịch sử của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu. Đặc biệt hơn,
Sách Đoi của họ làm bằng 12 mảnh tre, trên đó khắc vạch, đánh dấu tiết thời,
hoặc những hiện tƣợng thời tiết đặc biệt.
Múa dân gian của ngƣời Mƣờng Ngọc Lâu khá đặc biệt, trong đó các điệu
múa đã ăn sâu vào phong cách sống của họ phải kể tới: múa cờ, múa quạt ma,
múa dâng lễ vật, múa mặt nạ (trong các đám tang). Biểu diễn cồng chiêng là

hoạt động biểu diễn dân gian đặc biệt của họ. Cồng chiêng đƣợc diễn tấu trong
các đám rƣớc (đón dâu, rƣớc cơm mới, rƣớc thần nƣớc…), trong các cuộc lễ, hội
hè, đình đám. Đặc biết nhất là chiêng sắc bùa, chiêng đám cưới, chiêng tang lễ,
chiêng đi săn, Trò chơi dân gian ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu khá nhiều. Đó là:
Đánh căl (đánh gậy), đánh chó (đẩy bƣởi vào lỗ), đánh mảng (chơi nhảy cò),
chám chi, chám chán (ú tìm)….

14


Chƣơng 2
ẨM THỰC TRONG NGÀY TẾT CỦA NGƢỜI MƢỜNG
Ở XÃ NGỌC LÂU, HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
2.1. Khái quát về ẩm thực của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu
Những món ăn của ngƣời Mƣờng chủ yếu là khai thác tự nhiên và chăn
nuôi. Với các sản vật mà thiên nhiên mang lại nhƣ rau rừng, măng rừng, đánh
bắt cá ở sông suối, săn bắt động vật….
Cách chế biến món ăn của ngƣời Mƣờng khá đa dạng nhƣng chủ yếu sử
dụng cách chế biến các món đồ và xào. Ngƣời Mƣờng thích ăn các món ăn có
khậu vị chua. Có lẽ do điều kiện khí hậu nóng ẩm qui định, những thức ăn dễ
chuyển hóa hơn, dễ ăn và cũng ngon miệng hơn, chẳng hạn các món cá muối củ
kiệu và quả cà dại; rau cải muối dƣa, đu đủ muối dƣa ép; rau sắn muối dƣa nấu
cá….
Đồ ăn chế biến từ các loại thịt của ngƣời Mƣờng xã Ngọc Lâu tƣơng đối
phong phú. Chế biến từ lợn có: giò lụa làm bằng thịt nạc, giò đầu (trlốc) làm
bằng thịt thủ, giò chân (gio bỏi) làm bằng thịt nạc ở chân lợn, chả lá bƣởi, chả
sƣờn, mọc đồ, mọc luộc... Chế biến từ thịt gà có: gà luộc, gà nấu gừng, gà nấu
măng chua.... Chế biến từ thịt trâu có: trâu xào tiêu rừng, thịt trâu nấu lá lồm...
Chế biến từ các loại thủy sản có: cá rán, cá nƣớng, cá đồ, ếch nấu măng chua,
băm viên gói lá lốt và rán...

Ngƣời Mƣờng không chỉ coi ăn uống là việc nuôi sống bản thân mà còn là
những giá trị văn hóa cần đƣợc giữ gìn và phát huy.
2.2. Những món ăn trong ngày Tết của ngƣời Mƣờng ở Ngọc Lâu
Tết Nguyên Đán là những ngày quan trọng nhất trong năm, là ngày mà đất
trời chuyển giao năm cũ sang năm mới. Vì vậy gia đình nào cũng dọn dẹp nhà
cửa sạch sẽ và có tập quán là dựng cây nêu ở ngoài cổng. Theo phong tục, ngƣời
Mƣờng không ăn tết Ông Công, Ông Táo mà sắm Tết bắt đầu từ 27 tết, trong dịp
tết đồng bào sẽ chuẩn bị các nguồn lƣơng thực, thực phẩm chủ yếu là khai thác ở
rừng và nhà tự sản xuất lấy để phục vụ cho ngày Tết cổ truyền.
15


Đại diện gia đình đi mời các bác, các chú, anh em tổ tiên, họ hàng, xóm
giềng đến tham dự và cùng chế biến các món ăn truyền thống của dân tộc. Trƣớc
khi ăn con cháu phải xếp hàng ngay phía dƣới lấy kính các tuổi các cụ, ông bà,
cha mẹ. Ngƣời già đứng lên trên cảm ơn con cháu và chúc con cháu sang năm
mới khẻo mạnh, làm ăn phát đạt. Tiếp đó ngƣời ta mời nhau rựa tay trong chậu
nƣớc đƣợc con cháu đặt sẵn ở phía ngoài cửa, rồi ngồi vào mâm cố theo thứ tự
phụ nữ ngồi với nhau ở mâm trong, còn nam giới ngồi mâm phía ngoài, trẻ con
thì ngồi với nhau ở những mâm giữa hoặc phía dƣới.
Theo tập quán thì vào dịp tết cổ truyền, mỗi gia đình ngƣời Mƣờng phải có
một mâm cơm mặn cúng tổ tiên bắt đầu vào sáng mùng một tết. Cỗ dâng cúng
phải đƣợc soạn đầy đủ các món là bánh chƣng, bánh uôi, thịt lợn luộc, thịt gà
luộc để cả con, xôi nếp đồ, rƣợu chai, một bát nƣớc lã, tăm, trầu, cau, nƣớc mắt
ớt, muối rồi bƣng lên đặt vào vị trí định sẵn trên bàn thờ. Bàn thờ tổ tiên đƣợc
đặt ba mâm: mâm ngoài cùng thờ bố mẹ, mâm thứ hai ở giữa thờ ông bà, mâm
thứ ba thờ các cụ kỵ ở trong cùng. Ở mâm thờ các cụ kỵ thì cơm không đong
bằng bát, đũa không tính bằng đôi mà đƣợc nắm bằng một nắm thật to, đũa để
đƣợc hàng chục đôi. Điều này biểu thị mâm đó thờ rất nhiều các cụ tổ tiên mà
con cháu không thể nhớ hết.

2.2.1. Những món được chế biến từ gạo
2.2.1.1. Bánh chưng
Bánh chƣng là lễ vật không thể thiếu trong ngày tết Nguyên Đán, đó là món
ăn trang trọng nhất, cao quý nhất thể hiện lòng tƣởng nhớ, biết ơn của con cháu
đối với vua Lang của dân tộc Mƣờng. Gia đình nào cúng bao nhiêu ngƣời thì
làm bao nhiêu cái bánh chƣng.
- Nguyên liệu chế biến
Gạo nếp: thƣờng dùng loại gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này thƣờng hạt
to, tròn, dẻo, đều hơn các vụ khác.
Đỗ xanh: đỗ thƣờng đƣợc lựa chọn rất công phu, đỗ phải mẩy và màu vàng
tƣơi, có mùi thơm.
16


Hạt tiêu rừng : là loại có gia vị cay, mùi thơm
Thịt : thƣờng là thịt lợn , và loại thịt dùng để gói là thịt ba chỉ
Lá để gói bánh : thƣờng là lá dong tƣơi. Lá dong chọ lá dong rừng bánh tẻ,
to bản, đều nhau, không bị rách , màu xanh mƣớt.
Lạt buộc : Bánh Chƣng thƣờng dùng lạt giang đƣợc làm từ ống cây giang
chẻ mảnh. Lạt có thể đƣợc ngâm với nƣớc muối hay hấp mềm để gói bánh.
- Quy trình gói bánh
Lá dong đƣợc rửa từng lá thật sạch hai mặt và lâu thật khô. Rửa càng sạch
bánh càng đỡ mốc về sau. Trƣớc khi gói, lá dong đƣợc ngƣời ta gói bánh dùng
dao bài mài thật sắc (loại dao nhỏ chuyên để gọt) cắt lột bỏ bớt cuống dọc sống
lƣng lá để bớt cứng để ráo nƣớc (nếu lá quá già có thể hấp một chút cho lá mềm
dễ gói).
Gạo nếp: nhặt bỏ hết những hạt khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo trong
nƣớc cùng 0,3% muối trong khoảng thời gian 12-14 tiếng tùy loại gạo và tùy
thời tiết sau đố vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì
ngâm nƣớc muối.

Đỗ xanh: giã nhuyễn ngâm nƣớc ấm 40° trong 2 tiếng cho mềm và nở, đãi
bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo.
Thịt lợn: thịt lợn đem rửa thật ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2,5-3cm
sau đó ƣớp với muối tiêu, hành tím để khoảng 2 giờ cho thịt ngấm.
Rải lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập. Đặt hai chiếc lá dong lên trên
lạt, nằm chồng ½ theo chiều lá lên nhau. Chú ý phải quay mặt hai trên của lá ra
phía ngoài và mặt kém xanh hơn vào bên trong. Tiếp theo là hai lá nhƣ lƣợt đầu
nhƣng vuông góc với lƣợt đầu, chú ý đợt này phải làm ngƣợc lại, mặt lá kém
xanh hơn phải đặt úp xuống dƣới và mặt lá xanh tƣơi hơn đặt lên trên hình chữ
thập, dùng tay gạt đều, tạo hình vuông mỗi cảnh 20cm. Lấy một nắm đỗ xanh
bóp nhẹ giải đều vuông gạo đến gần hết bìa gạo. Lấy thịt đã thái rải đều vào giữa
bánh. Lấy tiếp một nắm đỗ xanh giải đều và phu kín thịt. Xúc một bát gạo nếp
đổ lên trên và phủ kín hết thịt và đỗ xanh. Gấp đồng thời hai lá dong lớp trên
17


vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình khối vuông, gấp tiếp đồng thời hai lá dong
ở lớp dƣới vào nhƣ lớp trên, vừa gấp vừa lén chặt nhẹ tay. Dùng lạt buộc xoắn
lại tạo hình chữ thập. Hai bánh chƣng buộc úp vào nhau thành một cặp.
- Với cách gói có khuôn các giai đoạn đƣợc tiến hành nhƣ trên. Tuy nhiên,
ngƣời ta cắt tỉa bớt lá dong cho vừa kích thƣớc khuôn và đặt trƣớc các lớp lá xen
kẽ nhau vào trong khuôn (3 hoăc 4 lá, nếu gói 4 lá sẽ vuông và đẹp hơn. Khi đó
thƣờng thì 2 lá xanh quay ra ngoài xếp tại hai góc đối xứng nhau, và hai lá xanh
quay vào trong để tạo mù cho bánh), sau khi đã cho nhân vào trong, các lớp lá
lần lƣợt đƣợc gập lại và sau đó đƣợc buộc lạt.
Cách gói bánh có khuôn thì bánh đều nhau hơn và chắc hơn do đƣợc vỗ
đều gạo, nén chặt còn gói không khuôn đƣợc gói nhanh hơn do đỡ mất công đo
cắt lá theo kích thƣớc khuôn.
- Luộc bánh
Khi luộc cần lấy nồi to tùy theo số lƣợng bánh đƣợc gói, rải cuộng lá dong

thừa xuống đáy nhằm mục đích tránh bánh bị cháy. Xếp lần lƣợt từng lớp bánh
đến đầy xoong và xen kẽ các cuộng lá thừa cho kín rồi đổ ngập nƣớc nồi và đậy
vung đun. Ngƣời nấu bánh phải canh giờ tính từ thời điểm nƣớc sôi trong nồi và
duy trì nƣớc sôi liên tục trong 10 đến 12 giờ, trong quá trình đun phải bổ sung
nƣớc để đảm bảo nƣớc luôn ngập bánh.
Khi luộc bánh xong vớt ra rửa lá dong trong nƣớc lạnh cho hết nhựa để ráo.
Sau đó đƣợc treo lên chỗ khô ráo trong nhà để bảo quản.
Bánh Chƣng đƣợc dùng trong thờ cúng tổ tiên, đây là lễ vật quan trọng nhất
nhằm bày tỏ tình cảm chân thành của gia đình mình với tổ tiên.
2.2.1.2. Món cơm nếp đồ
Cơm nếp đồ là món ăn truyền thống của ngƣời Mƣờng. Ngƣời Mƣờng có
câu rằng: “cơm đồ, nhà gác, nƣớc vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới” có thể thấy
rằng món cơm nếp đồ gắn bó với ngƣời Mƣờng nhƣ thế nào. Đó không đơn
thuần là một món ăn mà là lễ vật dâng cúng tổ tiên. Khi dâng cúng tổ tiên phải

18


để trong một cái đĩa to để cầu mong tổ tiên phù hộ cho năm tới mƣa thuận gió
hòa để đƣợc mùa tốt tƣơi.
- Nguyên liệu chế biến
Nguyên liệu chế biến boa gồm gạo nếp: gạo nếp nƣơng là giống lúa nếp
cái.Giống lúa này hạt gạo nhỏ, tròn và đƣợc trồng vào vụ mùa.
- Cách chế biến
Phƣơng pháp nấu của món này chủ yếu là bằng phƣơng pháp đồ. Đồ là
cách làm chín thức ăn phổ biến nhất của vùng ngƣời Mƣờng. Đồng bào thƣờng
đồ rất nhiều loại thức ăn nhƣ: đồ cơm, đồ bánh, đồ khoai... khi đồ ngƣời ta cho
thức ăn vào “ hông” (chõ bằng gỗ khoét) rồi đặt lên “biểng” (nồi đun nƣớc sôi
để lấy nƣớc đồ) . Cái nồi này có hình cao dong dỏng và trên miệng có mộng để
đặt vừa khít cái “hông”. Trên miệng “hông” có cái nắp đậy bằng nan tre cho

kín “ hông” và không bị ngƣng tụ hơi nƣớc rơi trở lại. Tác dụng của đồ là khi
chín, thức ăn không bị nát và có vị đậm đà hơn.
Trƣớc khi đồ, đồng bào ngâm gạo trong nƣớc lã khoảng 5 đến 6 giờ, rồi vớt
gạo ra để ráo nƣớc. Sau đó bỏ gạo vào “hông” và đặt lên “biểng”, đun cho tới
khi cơm chín dẻo. Sau đó ngƣời ta dỡ cơm ra một cái mâm.
Cũng nhƣ ngƣời Kinh (Việt) ngƣời Mƣờng thích ăn cơm nếp với thịt gà.
Đồng bào có câu “ cơm móc chóc ca” ( cơm nếp thịt gà ).
Có nghĩa là: “Cơm nếp nhƣ cái bờ ruộng, đùi gà nhƣ cái cọc đóng vào bờ
ruộng cho chắc”. Điều đó một mặt nói lên sự “sành ăn” của ngƣời Mƣờng và
mặt khác cũng thể hiện ƣớc mơ về cuộc sống no đủ của đồng bào.
2.2.2 Những món ăn chế biến từ thịt
2.2.2.1. Món thịt gà luộc
Thịt gà luộc không chỉ là món ăn bình dân mà quan trọng hơn cả đó là lễ
vật cúng tổ tiên. Khi dâng cúng tổ tiên gà phải để cả con không đƣợc thái ra
từng miếng. Ngƣời Mƣờng còn có tục bói chân gà, khi nhìn chân gà có thể đoán
định đƣợc về gia đình mình năm sau nhƣ thế nao.
- Nguyên liệu chế biến
19


Lá chanh có vị cay và mùi thơm rất đặc trƣng hay đƣợc cho vào các món
thịt gà, thịt ngan, thịt vịt.
Gà là vật nuôi không thể thiếu trong mỗi gia đình ngƣời Mƣờng , bởi nó là
nguồn cung cấp nguồn thực phẩm tại chỗ, thƣờng xuyên là nguồn thực phẩm
tuwoi sống và là lễ vật dâng cúng tổ tiên. Con gà đƣợc chọn dâng cúng lên tổ
tiên phải là con gà Trống, không quá to cũng không quá nhỏ, chân phải cao, màu
vàng tƣơi, bộ lông gà nhìn đẹp mắt. Gà phải đƣợc chăn thả, không chăn các loại
cám công nghiệp.
- Cách chế biến
Thịt gà luộc phải làm sao cho thịt gà không chín kĩ nhƣ vậy da của thịt gà

sẽ bị bong ra trông không đẹp mắt nhƣng cũng không qua loa thịt gà sẽ dai và
còn sống vì nhƣ vậy các cụ già và trẻ em sẽ không ăn đƣợc. Gà khi luộc chín
phải có màu vàng óng và có hƣơng vị thơm ngon. Khi dâng cúng tổ tiên phải để
cả con, gà đƣợc để lên trên chiếc đĩa đặt ở chiếc lá chuối đƣợc xếp ở giữa gian
để gà sao cho đẹp mắt, đầu gà hƣớng lên trên, mào gà không có màu tía, chân gà
phải vàng óng.
2.2.2.2. Món thịt lợn thui luộc
Thịt lợn luộc tuy là món ăn đơn giản nhƣng nó cũng không thể thiếu trong
ngày tết của ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu đồng thời cũng là món ăn làm lễ vật
dâng cúng tổ tiên. Món thịt lợn thui của ngƣời Mƣờng đƣợc luộc chín, thái ra,
chấm muối, nƣớc mắm. Tuy có cách thái thịt có khác nhau nhƣng cũng là miếng
thịt ba chỉ thái mỏng hình chữ nhật bằng hai ngón tay cặp đôi
- Nguyên liệu chế biến
Nguyên liệu chính chế biến là thịt lợn. Lợn hầu hết các gia đình nuôi bở
chúng là nguồn thực phẩm quan trọng phần kinh tế tự cấp tự túc, trƣớc đây mỗi
gia đình đều nuôi một vài ba con, có nhà nuôi đến hàng chục con. Ở vùng ngƣời
Mƣờng giống lợn khá phổ biến gọi là Lợn chèo hay Lợn Lủng (ngƣời Kinh gọi
là Lợn Mường) đây là giống lợn chỉ có ở vùng ngƣời Mƣờng, thƣờng đƣợc thả
rông cả năm và chỉ nặng khoảng 10-15 kg.
20


- Cách chế biến
Đồng bào làm sạch lông lợn, sau đó phải thui rơm hoặc gianh lợp mái nhà,
nhƣ vậy sẽ giữ đƣợc nguyên hƣơng vị tự nhiên của thịt mà không nhạt, đồng
thời làm cho da lợn có màu vàng nhƣ màu mật ong. Tiếp đến, thịt lợn đƣợc xe
thành từng phần thịt nhỏ , rửa sạch và cho vào nồi luộc chín. Khi thịt lợn chín
nhìn màu thịt rất tƣơi ngon, có mùi thơm ngậy. Đồng bào thƣờng xếp xuống lá
chuối hoặc đặt vào đĩa. Món ăn này đƣợc dâng cúng lên tổ tiên nhằm bày tỏ tình
cảm của con cháu đối với tổ tiên và đã phù hộ cho năm cũ chăn nuôi thuận lợi,

càng xếp nhiều thịt càng chứng tỏ năm đó làm ăn tốt. Món này khi ăn đồng bào
thƣờng thái mỏng, chấm với nƣớc ớt để ăn không bị ngấy, hƣơng vị thơm của lá
chanh, vị chua của kiệu, vị cay của ớt.
2.2.3. Những món ăn chế biến từ cá
2.2.3.1. Món cá ướp chua
Đồng bào quan niệm món ăn này phải để ngƣời phụ nữ trong gia đình làm
vì họ rất khéo léo, nếu món này làm không cẩn thận thì cá sẽ bị nát, mùi cá bốc
lên rất nồng nặc. Món này có nhiều cách thƣởng thức khác nhau nhƣ: cá ƣớp
chua để từ 3-6 tháng thì ăn ngay không cần qua chế biến; cá ƣớp chua gói vào lá
cây thầu dầu kẹp vào que tre rồi nƣớng bằng than củi; cá ƣớp chua đem nấu
canh.....
- Nguyên liệu chế biến: Nguyên liệu chuẩn bị bao gồm: cá trôi, ngô nếp, lá
chuối, hành.
- Cách chế biến
Đầu tiên phải đem cá mổ bụng moi ruột cho sạch, con to cắt thành hai, ba
miếng. Sau khi cá ráo nƣớc thì đổ vào chậu, rắc muối hơi đậm một chút thêm
vào một ít cơm nguội, một ít men rƣợu. Tất cả trộn đều cho vào hũ, lấy lá chuối
tƣơi hơ lửa, bịt kín miệng hũ và lấy lạt buộc miệng hũ thật kín. Thƣờng xuyên
kiểm tra, nếu lá rách, hở thì phải lấy lá khác bịt vào đó. Khoảng 10 ngày, mở hũ
ra xem, nếu cá có mùi chua thì bỏ thính vào, nếu chƣa có mùi thì lấy muối hòa
nƣớc ấm đổ vào để gần lửa. Rang ngô nếp, gãi nhỏ để nguộ. Riềng rửa sạch, thái
21


lát. Hành cắt dài rửa sạch. Đổ cá ra trộn đều các gia vị nói trên rồi lại bỏ vào hũ,
lấy lá chuối bịt kín, buộc chặt miệng hũ cho thật kín. Cá ƣớp chua để bao lâu tùy
theo gia đình.
2.2.3.2. Món cá đồ
Đây là món ăn quý trong ngày Tết đƣợc dùng để con rể biếu bố mẹ vợ, khi
ngƣời con rể muốn lấy lòng cha mẹ thì phải biếu món này, đặc biệt là món trong

các lễ cúng thờ tổ tiên. Món ăn này đƣợc ngƣời già và trẻ con rất ƣa chuộng.
- Nguyên liệu chế biến: gồm cá Chép, măng bƣơng, lá chuối, gừng, củ xả.
- Cách chế biến
Làm sạch cá và chặt cá thành nhiều khúc, củ xạ thái mỏng, củ gừng đập
nhỏ và măng bƣơng ngâm chua trộn đều và tra muối vừa phải, lá chuối đƣợc hơ
qua lửa cho mềm dẻo. Họ xếp ba lần lá chuối rồi bỏ cá và các nguyên liệu khác
vào, lấy lạt giang buộc túm lại rồi bỏ vào hông đồ khoảng hai tiếng là chín.
Khúc cá ngấm có vị chua của măng cứng xoăn, vẩy dộp lên nhƣ rán. Yêu cầu
của món này là cá phải vàng ròn mềm, không có màu đỏ của máu.
2.3. Đồ uống
Trong ngày lễ Tết Nguyên Đán ngƣời Mƣờng ở xã Ngọc Lâu có tục uống
rƣợu cần từ xa xƣa. Rƣợu cần là loại sản phẩm đã sử dụng phƣơng pháp ủ chua
để chế biến trở thành thứ uống hấp dẫn cho nhiều ngƣời.
Gạo làm rƣợu chỉ cần xay tróc vỏ trấu ra chứ không phải rã, để giữu
nguyên chất vốn có của gạo, khi đồ cơm và ủ trong vò rƣợu hạt sẽ không bị nát,
khi uống không bị tắc cần. Gạo ngâm trong nƣớc lã một đêm cho mềm rồi trộn
với trấu xay đem đồ cho chín kĩ , rỡ cƣơm ra nia cho nguội, khi cơm còn hơi ấm
giã nhỏ men và trộn đều với cơm rồi ủ trong nong. Miệng hũ đƣợc bịt kín bằng
lá chuối , ngoài cùng gắn một lớp tro ƣớt cho thật kĩ, ủ rƣợu trong hũ càng lâu
chất lƣợng càng tốt. Rƣợu ủ trong 5 ngày là có thể uống đƣợc nhƣng chƣa ngấu
kĩ, rƣợu ngấu kĩ phải ủ 3 tháng trở lên có khi phải 3 năm mới đem ra uống.
Rƣợu cần ủ 3 năm là ngon nhất, nƣớc rƣợu khi còn non có màu vàng đục, đến 3
năm đã chuyển thành màu nâu sẫm, hơi sánh nhấp có cảm giác dính môi. Đối
22


với họ, rƣợu cần ba năm trở lên là rƣợu cần ngon nhất. Theo tục lệ ngƣời
Mƣờng xã Ngọc Lâu, rƣợu cần không chỉ đƣợc dùng nhiều trong các ngày lễ tết,
mà còn là thứ rƣợu không thể thiếu ở các đám cƣới (Nhà trai, Nhà gái thiết
nhau), đám ma (cúng ngƣời quá cố), khi tiếp khách hội hè, và những dịp tụ tập

đông ngƣời thân thích. Đối với ngƣời Mƣờng văn hóa rƣợu cần còn là văn hóa
tâm linh.
2.4. Tục ăn trầu cau
Từ xa xƣa ngƣời Mƣờng đã biết ăn trầu và cau. Cũng nhƣ ngƣời Kinh
(Việt), ngƣời Mƣờng cũng coi “miếng trầu là đầu câu chuyện”, họ mời nhau
miếng trầu trƣớc khi câu chuyện chính diễn ra. Trong ngày Tết, lễ cúng tổ tiên
không thể thiếu đƣợc một đĩa Trầu. Trầu cau đã đi vào đời sống văn hó của
ngƣời Mƣờng khá sâu đậm. Trong ngày Tết khi ăn miếng trầu cau các cụ, bố mẹ
thƣờng nhắc nhở con cháu trong nhà phải sống đoàn kết, tình nghĩa và yêu
thƣơng lẫn nhau.
Đồng bào ăn trầu kèm với quả cau, vôi đã tôi, vỏ hay rễ cay then, lá mứt.
Xƣa kia và giờ đây trong ngày Tết mỗi gia đình Mƣờng không thể thiếu
đƣợc dĩa trầu cau. Những ngƣời già, dù gãy hết răng họ vẫn giã trầu để ăn.
Trầu và các thành phần phụ gia để nhai có vị ngon, gây nóng , có tác động
đến các cơ quan cảm giác. Ăn trầu có nhiều tác dụng nhƣ: kích thích tuyến nƣớc
bọt tiết đều đặn, các vị cay, vị chát, vị nồng của nó có tác dụng chống sâu răng
và hôi miệng, trong nƣớc trầu có nhiều vitamin sẽ kích thích tiêu hóa , nƣớc trầu
đỏ có tác dụng với chất thuốc nhuộm răng làm cho răng thêm đen chắc và làm
môi đỏ thắm.
Trầu cau là lễ vật không thể thiếu cùng với rƣợu trong việc thờ cúng tổ
tiên trong ngày Tết Nguyên Đán. Trầu cau đã đi vào đời sống văn hóa Mƣờng
khá sâu đậm.
2.5 Truyền dạy tri thức ẩm thực trong cộng đồng
Với ngƣời Mƣờng việc lo bƣ̃a ăn hằng ngày là do ngƣời phụ nƣ̃ đảm
nhiệm. Sáng sớm khi m ọi thành viên trong gia đình còn ngon giấc thì họ đã phải
23


dậy sớm lo bƣ̃a sáng cho cả gia đì nh . Điều này nói lên sƣ̣ đảm đang , chu đáo ,
chịu khó của ngƣời phụ nữ Mƣờng nói chung và phụ nữ Mƣờng


ở xã Ngọc Lâu

nói riêng . Nhƣng cũng thể hiện gánh nặng trong gia đình mà ngƣời phụ nữ phải
đảm nhiệm .
Ngoài việc lo bữa ăn hằng ngày cho gia đình

, họ còn có vai trò rất quan

trọng trong việc truyền dạy cho thế hệ con cái biết về ẩm thực truyền thố

ng các

món ăn và cách chế biến sao cho hợp khẩu vị . Hầu nhƣ trong bƣ̃a ăn hằng ngày
không thể thiếu đƣợc món ăn có vị chua

, trong đó măng và nƣớc măng là

nguyên liệu chủ yếu . Còn trong dịp lễ tết , măng đắng đƣợc coi là món quý, là đồ
biếu trong dị p đầu xuân .
Còn vào các dịp lễ tết , lễ hội thì do ngƣời đàn ông đảm nhiệm

, họ sẽ là

ngƣời sắp xếp và chế biến các món ăn .
2.6. Những giá trị văn hóa trong ẩm thực ngày Tết của ngƣời Mƣờng
2.6.1. Gía trị tâm linh
Khi chế biến xong, các món ăn đƣợc bày trí lên lên chiếc lá chuối đƣợc xếp
ở gian giữa nơi linh thiêng nhất của gia đình, gia chủ trong gia đình sẽ thực hiện
nghi lẫ cúng tổ tiên. Qua các món ăn nhƣ một cầu nối giữa con cháu và tổ tiên

làm tăng thêm sự gắn bó với nhau. Đến giờ phút linh thiêng của đất trời gia chủ
cùng các thành viên trong gia đình bày tỏ lòng biết ơn của con cháu đới với tổ
tiên.
Những món ăn trong ngày Tết khi cúng phải cúng lễ thƣờng phải sắp xếp
sao cho hợp lý, khoa học và có một quy tắc chuẩn mực riêng. Đối với món thịt
gà luộc khi cúng lễ phải là gà trống và để cả con không đƣợc chặt ra từng miếng,
đầu gà hƣớng lên trên, chân gà đƣợc đặt lên mình gà, thầy cúng khi nhìn chân gà
là có thể biết đƣợc sang năm mới gia đình gặp những chuyện gì. Bánh chƣng
phải để theo cặp nhằm biểu thị âm dƣơng hài hòa, cầu sinh sôi nảy nở.
Trong mâm cơm ngày Tết, đồng bào quan niệm phải đầy đủ các vị chua
cay mặn ngọt, nó nhƣ là cung bậc của cuộc sống có khó khăn, vui buồn và hạnh
phúc hay để cân bằng âm dƣơng hài hòa với tự nhiên.
24


2.6.2. Gía trị xã hội
Gia chủ trong gia đình ngƣời Mƣờng là ngƣời đàn ông, họ sẽ thực hiện
nghi lễ cúng tổ tiên cầu mong những điều tốt lành nhất cho gia đình mình.
Ngƣời Mƣờng rất coi trọng bữa ăn ngày Tết, khi các thành viên trong gia đình
họp mặt đầy đủ họ mới bắt đầu ăn, khi ăn ngƣời lớn tuổi trong gia đình sẽ dặn
dò con cháu chuyện ăn uống phải từ tốn , không tham lam, dạy bảo những việc
có nhân đức. Con cháu trong gia đình rất kính trọng những ngƣời lớn tuổi, trƣớc
khi ăn họ phải chủ động so đũa cho mọi ngƣời , mời ông bà bố mẹ ăn trƣớc sau
đó họ mới bắt đầu ăn.
Khi gia đình có khách họ sẽ đối xử rất trọng thị và chu đáo, những món ăn
ngon nhất sẽ đƣợc bày ra cùng nhau thƣởng thức , gia chủ sẽ gắp nhiều cho vị
khách. Mọi ngƣời cùng nhau nói chuyện rất vui vẻ, thƣởng thức rƣợu cần. Gia
chủ và các thành viên trong gia đình cùng nhau chúc các vị khách những điều tốt
đẹp nhất trong năm mới. Khách cũng đáp lại tình cảm của gia đình và chúc cho
gia đình sang năm mới sức khỏe, làm ăn phát đạt.


25


×