Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

tìm hiểu thực trạng và vai trò của hệ thống thông tin kiến thức về nông nghiệp trong sản xuất của người dân xã hưng thuỷ - huyện lệ thuỷ - tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.07 KB, 47 trang )





Luận văn
Tìm hiểu thực trạng và vai trò
của hệ thống thông tin kiến
thức về nông nghiệp trong sản
xuất của người dân xã Hưng
Thuỷ - huyện Lệ Thuỷ - tỉnh
Quảng Bình

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với tiến trình hội nhập, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH,HĐH) đất nước nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn nói
riêng đã tạo cho nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta có bước
chuyển biến sâu sắc. Cơ cấu kinh tế nông thôn có bước chuyển dịch theo
hướng giảm tỷ trọng lao động và hàng hoá trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng
tỷ trọng lao động và hàng hoá trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng và dịch
vụ thương mại. Nền sản xuất nông nghiệp truyền thống, lạc hậu đã dần
chuyển sang nền nông nghiệp hàng hoá, nhiều loại nông sản đã có vị trí trên
thị trường quốc tế như: gạo, tiêu, cà phê…
Những thông tin, kiến thức của nền nông nghiệp thế giới cũng như của
nền nông nghiệp trong nước sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát
triển của hệ thống sản xuất nông nghiệp, tác động trực tiếp đến người mỗi
nông dân. Trong khi đó, trình độ người nông dân còn hạn chế dẫn đến hạn chế
trong việc tiếp cận và ứng dụng các thông tin và kiến thức về nông nghiệp.
Đặc biệt là các kiến thức và thông tin về tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp, về thị
trường và về các chính sách phát triển nông nghiệp của nhà nước.
Xã Hưng Thuỷ là xã nằm phía nam của huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng


Bình, là một xã nghèo bãi ngang thuộc chương trình 135 của chính phủ. Sinh
kế của đại đa số người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên,
sản xuất nông nghiệp ở đây có quy mô sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, trình
độ sản xuất còn lạc hậu, năng suất thấp, sản phẩm không có sức cạnh tranh
trên thị trường hoặc thiếu thị trường tiêu thụ do người dân thiếu các nguồn
thông tin kiến thức về nông nghiệp. Vấn đề cấp thiết hiện nay đối với địa
phương là phải xây dựng được một hệ thống kiến thức thông tin về nông
nghiệp sao cho người dân có thể tiếp cận, trao đổi, khai thác các thông tin
kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau.
Vì vậy cần có những nghiên cứu để đánh giá thực trạng và vai trò của hệ
thống thông tin và kiến thức nông nghiệp hiện có tại địa phương, từ đó sẽ
hình thành những cơ sở thực tiễn để đề ra phương hướng và giải pháp giải
quyết vấn đề trên. Đó cũng chính là lý do tôi tiến hành đề tài: Tìm hiểu thực

trạng và vai trò của hệ thống thông tin kiến thức về nông nghiệp trong sản
xuất của người dân xã Hưng Thuỷ - huyện Lệ Thuỷ - tỉnh Quảng Bình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
 Mô tả hệ thống thông tin kiến thức nông nghiệp của người dân
xã Hưng Thuỷ.
 Vai trò của hệ thống thông tin kiến thức nông nghiệp trong hoạt
động sản xuất nông nghiệp của người dân qua sự nhìn nhận, đánh giá của
người dân và chính quyền địa phương.
 Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức và các giải pháp cho
việc phát triển hệ thống thông tin kiến thức về nông nghiệp cho người dân.

PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Thông tin
Thông tin (Information) là những ý tưởng, những kiến thức, những sự
kiện con người có thể hiểu biết về nó nhờ có sự trao đổi với nhau hoặc do con
người nhận biết bằng các giác quan. Thông tin là điều kiện tất yếu tạo thành

tri thức của con người [3, 14].
Thông tin là phương tiện con người dùng để giao tiếp và phát triển cộng
đồng. Thông tin thúc đẩy sự phát triển xã hội, xã hội càng phát triển nhu cầu
thông tin càng cao. Việc tận dụng các nguồn thông tin sẳn có để áp dụng vào
sản xuất, vào đời sống giúp con người rút ngắn thời gian tìm hiểu, nghiên cứu
và thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh hơn [3, 15].
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam đòi
hỏi tăng cường thông tin chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới đến
nông dân để nông dân áp dụng vào sản xuất nâng cao dân trí và đời sống.
* Tầm quan trọng của thông tin
Theo truyền thống, những bức thông điệp của Khuyến nông thường dựa
vào kinh nghiệm của nông dân hoặc những kết quả của công tác nghiên cứu
khoa học nông nghiệp. Ở nhiều nước, chính sách của nhà nước là rất quan
trọng đối với việc đưa ra các quyết định của nông dân, ví dụ những chính sách
về thuế, chính sách về giá cả
* Nguồn thông tin
Là yếu tố khởi xướng việc thực hiện quá trình truyền thông tin, yếu tố
đó có thể là một cá nhân, một nhóm người hay một tổ chức. Khi sử dụng
thông tin cần quan tâm đến độ tin cậy, sự tín nhiệm và tính chính xác, mới
mẻ, hấp dẫn của thông tin [3, 15].
Người nông dân sử dụng nhiều nguồn khác nhau để thu thập thông tin và
kiến thức cho việc quản lý nông trại của họ. Những nguồn này bao gồm:
 Ở những người nông dân khác
 Những tổ chức Khuyến nông của nhà nước
 Những tư nhân buôn bán vật tư, cung cấp tín dụng và thu mua nông
sản

 Những công ty của nhà nước, văn phòng tiếp thị và nhà làm chính
sách
 Những tổ chức của nông dân và các thành viên của nó

 Các tạp chí nông nghiệp, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, và các
phương tiện thông tin đại chúng khác
Chỉ một ít nông dân có thể liên hệ trực tiếp với các nhà nghiên cứu, nhất
là ở các nước đang phát triển, nơi mà số nhà nghiên cứu tính trên số nông dân
còn ít, giao thông khó khăn và có một khoảng cách xã hội giữa họ. Nghiên
cứu chỉ thực sự có tác động đến sản xuất nông nghiệp khi có những người làm
công tác thông tin giữa các nhà nghiên cứu với nông dân. Việc thông tin
những vấn đề, những kinh nghiệm và tình hình thực tế của nông dân cho các
nhà nghiên cứu cũng là điều quan trọng để nắm được những kết quả nghiên
cứu có thực sự thích hợp và quan trọng cho sự phát triển của nông nghiệp hay
không. Sự phát triển của những kỹ thuật có ích trong một hoàn cảnh nào đó sẽ
yêu cầu một sự tổng hợp những kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau. Sự tổng
hợp này thường phó mặc cho nông dân, mặc dù các nhà nghiên cứu và
Khuyến nông đóng một vai trò quan trọng trong quá trình đó. Việc tổng hợp
là một phần quan trọng trong công việc của những người làm nghiên cứu hệ
thống nông nghiệp (FSR), những người đang cố gắng kết hợp những thông tin
trong nghiên cứu của các chuyên ngành khác nhau với những thông tin về tiến
triẻn thị trường và các chính sách của nhà nước. Những nhà nghiên cứu
chuyên ngành thường không muốn các thông tin của họ kết hợp với các thông
tin từ những nguồn khác trước khi nó trở nên có giá trị đối với việc giúp đỡ
nông dân đưa ra quyết định[2, 28 - 29]
2.2. Kiến thức
* Kiến thức của nông dân
Rất nhiều kiến thức nông nghiệp được phát triển từ những thí nghiệm
đơn giản mà người nông dân thực hiện, ví dụ khi trồng một cây trồng mới ở
địa phương họ, hoặc khi họ thay đổi lịch bón phân. Họ cũng đã cố gắng điều
chỉnh những khuyến cáo của Khuyến nông phù hợp với tình hình nông hộ của
họ. Các nhà nghiên cứu và Khuyến nông có thể hợp tác với nhau bằng việc
giúp cho người nông dân làm tốt các thí nghiệm này và bằng việc giúp họ rút


ra những kết luận chính xác từ những kết quả thu được. Sự hợp tác này sẽ làm
tăng chất lượng của các thông tin và làm giảm đi xác suất nông dân từ chối
làm theo một khuyến cáo nào đó. Họ cũng có thể học được ngay từ những thí
nghiệm của mình rằng một quan điểm hay một kỹ thuật nào đó không có tác
dụng vì họ đã mắc sai lầm trong khi thí nghiệm. Những thí nghiệm do nông
dân làm thường nảy sinh các thông tin về sự cần thiết của lao động và tiền
vốn của các mùa vụ khác nhau cho các kỹ thuật mới, và khả năng đáp ứng
nhu cầu về nguồn lực này. Những thông tin như vậy là cực kỳ quan trọng cho
việc phát triển các kỹ thuật thích hợp[2, 31].
Những kiến thức có giá trị mà nông dân có được, hay còn gọi là những
kiến thức cổ truyền, thường bị các nhà nghiên cứu lãng quên, mặc dù những
thông tin đó có thể khá quan trọng cho những khuyến cáo của một vùng nào
đó và cũng rất quan trọng cho việc phát triển một hệ thống nông nghiệp bền
vững.
2.3. Sự nghiên cứu về AKIS trên thế giới.
Hệ thống thông tin kiến thức nông nghiệp (Agricultural Knowledge and
Information System - AKIS) là: Các cá nhân, các mạng lưới hoạt động, các cơ
quan và những mối tương tác và liên kết giữa họ thu hút hay quản lý việc nảy
sinh, chuyển đổi, chuyển giao, lưu giữ, hồi phục, tổng hợp, truyền bá và sử
dụng những kiến thức và thông tin, và cùng phối hợp hành động để cải thiện
đáng kể sự phù hợp giữa kiến thức và môi trường và kỹ thuật được sử dụng
trong nông nghiệp.[2, 27]
AKIS đã được hình thành từ cuối những năm 1970 bởi các chuyên gia
Khuyến nông hàng đầu thế giới do họ nhận thấy được sự không thích hợp, sự
hạn chế của luồng thông tin/kiến thức một chiều từ trung tâm nghiên cứu đến
nông dân (Nagel 1979). Giữa những năm 1980, Bunting (1986) and Röling
(1987) đã có những bước tiến xa hơn, hai ông đã nhắm vào những chức năng
khác nhau của những nhà nghiên cứu, những người làm công tác Khuyến
nông và sự phối hợp giữa họ. Bản chất của AKIS là sự kết hợp giữa ba hệ
thống kiến thức, chúng được xem như là một phần của hệ thống kiến thức

nông nghiệp tổng hợp (sơ đồ 1) [12].


AKIS được mở rộng dựa trên cơ sở của các tổ chức bao gồm các tổ chức
cung cấp nguồn kiến thức nông nghiệp và tất cả các bên liên quan trong việc
sản sinh và phổ biến kiến thức nông nghiệp. Cơ sở của AKIS được dựa trên
các khái niệm về hệ thống kiến thức nông nghiệp. AKIS được mong đợi có
thể xúc tiến, đẩy mạnh mối liên kết giữa các tổ chức nông nghiệp trong một
vùng và giữa các vùng với nhau, đồng thời nó thúc đẩy mối liên kết giữa các
khâu, mắt xích trong hệ thống. Vào cuối những năm 1990, bản chất của AKIS
được xem xét lại. Nó không gói gọn trong sự phát triển nông nghiệp mà được
xét rộng ra trên cơ sở sự phát triển nông thôn (rural development (RD)), vì
vậy xuất hiện cụm từ AKIS/RD. Đến năm 2000, FAO và WB đã cùng nhau
công bố tài liệu: AKIS/RD: “Strategic vision and guiding principles”, và khái
niệm AKIS/RD được cộng nhận một cách rộng rãi. Một AKIS có hiệu quả
được thừa nhận như sự đáp lại: “công nghệ, kiến thức và thông tin cần thiết
cho người dân nông thôn; giúp cho họ đạt được những am hiểu để đưa ra
những quyết định giúp cho việc quản lý nông trại, gia đình, cộng đồng tốt hơn
(FAO/WB, 2000)”.AKIS được xem như là diện mạo của nông thôn, nó không
chỉ bao gồm nông nghiệp, sự phát triển và mở rộng hệ thống này là sự kế thừa
một tầm nhìn chiến lược và nguyên lý phát triển hệ thống AKIS/RD. Sau khi
xuất bản tài liệu AKIS/RD, FAO đã triệu tập nhiều cuộc hội thảo về
AKIS/RD ở 10 nước khác nhau (từ năm 2000 đến năm 2003), và tiếp theo đến
năm 2004, đã được sự uỷ quyền của 10 nước trong việc nghiên cứu AKIS/RD
[12].
AKIS là một sự đổi mới phương pháp trong quá trình tiếp cận các tổ
chức xã hội. Nó gắn kết các tổ chức, những người liên quan trong mối liên kết
Nhà nghiên
cứu
Nông dân

Khuyến nông

nông nghiệp bao gồm những mối liên kết bà con thân thuộc và sự tương tác
gữa họ; những nảy sinh trong quá trình hình thành, biến đổi, lưu trữ, phục hồi,
tổng hợp, phổ biến và sử dụng thông tin và kiến thức[11].
2.4. Sự nghiên cứu AKIS ở Việt Nam
Cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về AKIS. Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam phối hợp với đại sứ quán
Canada vừa tiến hành dự án Thông tin thị trường nông nghiệp Việt Nam
(VAMIP). Theo VAMIP, có trên 80% hộ sản xuất bán hàng trực tiếp cho
thương lái, dưới 10% hộ tiêu thụ thông qua hợp tác xã, 8% hộ mang sản phẩm
bán trực tiếp tại các chợ địa phương. Lý do là nông dân sản xuất tin tưởng vào
thương lái hơn các thông tin từ ti vi, đài báo,… hầu hết hộ sản xuất các sản
phẩm nông nghiệp đều ở nông thôn nên không được tiếp xúc với nhiều nguồn
thông tin, nếu có nguồn thông tin nào đó thì cũng không có ích với họ.[5]
Đa phần nông dân của chúng ta hiện vẫn đang canh tác theo cách thức
truyền thống, dù nhiều năm nay chúng ta đã áp dụng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật trong canh tác nông nghiệp. Tuy nhiên, hiệu quả của việc này vẫn
chưa phát huy hết và đem lại lợi ích cho nông dân. Lý do lớn nhất của việc
này là nông dân đang bị thiếu thông tin. Vì vậy, việc thiết lập hệ thống thông
tin đến với nông thôn là yêu cầu cần thiết và cấp bách trong bối cảnh này.
Chi phí mà Nhà nước dành cho Khuyến nông mỗi năm lên đến hơn 100
tỉ đồng, tuy nhiên chỉ có 3% trong khoản kinh phí này dành cho việc thông tin
Khuyến nông, đây là khoản kinh phí quá ít ỏi cho một cường quốc về xuất
khẩu nông sản như Việt Nam.[5]
Hệ thống thông tin nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu được chuyển tải
qua các kênh truyền hình quốc gia và địa phương. Tuy nhiên, thực tế thông tin
vẫn còn dàn trải và không tập trung vào lợi ích thiết thực của nông dân. Một
ông chuyên gia nông nghiệp trên đài truyền hình không thể nói tất cả về mọi
lĩnh vực trong nông nghiệp. Điều này vừa không chuyên nghiệp và thiếu

thuyết phục. Chưa kể một phần quan trọng mà nhà đài không để ý đến là việc
nông dân ba miền Bắc, Trung, Nam không thể nghe và hiểu được cùng một
giọng nói mà phát thanh viên chuyên về nông nghiệp nói.(Bùi Chí Bửu, viện
trưởng viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam)[5].

Vấn đề chuyển tải thông tin cho nông dân hiệu quả, cũng được các doanh
nghiệp trong ngành cà phê đem ra “mổ xẻ”. Thông tin chuyển tải cho nông
dân muốn hiệu quả, phải là thông tin trực quan. Đơn giản, khi đưa ra một
thông tin về Khuyến nông, 90% lượng thông tin mà nông dân nhận biết là lợi
ích thiết thực đối với họ, họ mới ghi nhận và thực hành những hướng dẫn này.
(Đặng Lê Nguyên Vũ, tổng giám đốc công ty cà phê Trung Nguyên)[5].
Ngoài ra thông tin phải đồng bộ, chuyên sâu và xuyên suốt, từ đài truyền
hình, phát thanh cho đến tài liệu in ấn về nông nghiệp. Cụ thể, nhà đài khi
phát một chương trình về Khuyến nông, phải nói rõ nơi nào bán tài liệu này
để nông dân mua về. Doanh nghiệp nông sản hoạt động trong ngành nghề,
hoàn toàn có thể phối hợp với đài để mua tài liệu phát miễn phí cho nông dân.
Những trung tâm Khuyến nông ở các địa phương ở xã huyện cũng cần phát
huy tốt vai trò của mình thông qua việc liên kết với doanh nghiệp, các cơ
quan truyền thông để chuyển tải thông tin thiết thực đến người nông dân.
Nhằm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin kiến thức nông
nghiệp mà đặc biệt là thông tin về thị trường và giá cả nông sản cho mọi đối
tượng mà tập trung chủ yếu vào nông dân, Trung tâm Tin học Bộ NN&PTNT
đã triển khai dự án xây dựng mạng lưới thông tin thị trường nông nghiệp, một
trong những mục tiêu quan trọng của dự án là giúp hoạt động sản xuất gắn với
thị trường, hàng hóa làm ra phải phù hợp với tín hiệu của thị trường. Điều này
sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường
thế giới, đồng thời mở rộng chủng loại hàng hóa xuất khẩu(TS. Đặng Kim
Sơn, Giám đốc Trung tâm Tin học Bộ NN&PTNT)[].
Bước đầu tiên, dự án lựa đã chọn 3 tỉnh để thực hiện thí điểm trong năm
2004, gồm Vĩnh Long, ĐăkLăk và Lào Cai; sau đó, mở rộng phạm vi lên 10

tỉnh trong năm 2005 và 20 tỉnh năm 2006. Những tỉnh này phải đảm bảo các
tiêu chí như: lãnh đạo địa phương phải hiểu được giá trị của thông tin thị
trường và tích cực ủng hộ; sẵn sàng xây dựng chương trình và đóng góp một
phần tài chính, nhân lực và tạo thuận lợi cho việc thu thập, xử lý cũng như
cung cấp, phổ biến thông tin đến người dân.
Tuy nhiên, đã nảy sinh nhiều vướng mắc khi triển khai thực hiện thu
thập thông tin. Đó là khả năng phân tích hạn chế nên dự báo thông tin về giá

cả thị trường chưa tốt. Hầu hết thông tin thu thập được mới đơn thuần là tin
giá cả, chưa được tổng hợp, đánh giá, xử lý để có những dự báo chính xác,
tránh thiệt thòi cho nông dân. Mạng lưới cộng tác viên cung cấp thông tin còn
mỏng (Trịnh Tiến Bộ, Trưởng phòng Đào tạo và Kiểm nghiệm, Sở
NN&PTNT ĐăkLăk). Hệ thống đang rất thiếu những địa chỉ cung ứng về
giống, đại lý thu mua, cơ sở chế biến Hay nông dân cũng đói thông tin về
thời điểm thu hoạch của các loại nông sản trong nước cũng như nước ngoài để
lựa chọn thời gian trồng, thu hái thích hợp, tránh rớt giá Việc triển khai hệ
thống thông tin nông nghiệp không đơn giản chỉ là cung cấp thông tin về giá
cả hàng hóa, mà còn là kênh quan trọng giúp họ nâng cao hiểu biết kỹ thuật,
từ đó sản xuất sản phẩm có giá thành hạ, cạnh tranh. Không những thế, đây
còn là một trong những điều kiện thuận lợi để thực hiện xúc tiến thương
mại(Ngô Long Bồi, Trưởng phòng KHCN, Sở NN&PTNT Vĩnh Long)[].
2.5. Vai trò và sự phân tích AKIS.
Quan điểm của AKIS là người nông dân sử dụng rất nhiều nguồn khác
nhau để thu thập kiến thức và thông tin mà họ cần cho sản xuất nông nghiệp
và quản lý nông hộ của hộ. Những kiến thức mới không chỉ do cơ quan khoa
học tạo ra, mà còn do nhiều tác nhân khác tạo ra và phát triển lên. Điều này
rất có ích khi phân tích xem tất cả những nguồn này bổ sung và hỗ trợ lẫn
nhau như thế nào, hoặc giữa chúng có mâu thuẫn gì hay không. Nông dân sử
dụng những nguồn nào để thu thập kiến thức và thông tin, và làm thế nào để
những nguồn đó có được thông tin và kiến thức ấy. AKIS cũng phân tích

những luồng thông tin từ người dân này tới các người dân khác, tới các nhà
nghiên cứu, người làm chính sách và các nhà doanh nghiệp khác.
* Sự phân tích AKIS
Phân tích AKIS cho một vùng hay một lĩnh vực nào đó của nông nghiệp
là rất quan trọng để phát hiện ra những lỗ hổng đang kìm hảm sự phát triển
của nông nghiệp, cũng như những sự chồng chéo đang làm lãng phí nguồn lực
và có thể gây ra những mâu thuẩn không đáng có. Phân tích AKIS có thể là
trách nhiệm của dịch vụ Khuyến nông. Các tổ chức của nông dân cũng đóng
một vai trò có giá trị trong tiến trình này bằng việc làm rõ các thông tin cần

thiết của các thành viên và khuyến khích các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức
Khuyến nông và các tác nhân khác cung cấp những thông tin đó.
Thông tin nông nghiệp có thể được kết hợp trong những sản phẩm kỹ
thuật như thuốc trừ sâu, máy móc hoặc hạt giống và những bước đệm cho
việc sử dụng chúng. Những cái đó được Bennett (1990) gọi là những kỹ thuật.
Những thông tin và kỹ năng khác thường không được kết hợp trong một sản
phẩm, như việc dự tính dự báo sâu bệnh, thời vụ làm cỏ hay thời vụ luân canh
cây trồng, Những việc này gọi là những thao tác (kỹ thuật canh tác). Các
công ty thương mại có thể thu được lợi nhuận từ việc bán và cung cấp những
thông tin về công nghệ, nhưng những thông tin về kỹ thuật canh tác thì chỉ
được các dịch vụ Khuyến nông cung cấp với nguồn tài chính lấy từ thuế hoặc
do nông dân đóng góp[2, 31 - 32].
Tiến hành phân tích AKIS như vậy trước khi bắt đầu một dự án mới là
rất cần thiết và cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên những nhà đầu tư cho các dự án
thường không tăng cường hệ thống đang có sẳn mà tìm cách phát triển một hệ
thống, một tổ chức mới, trùng lặp với các yếu tố của hệ thống này và có xu
hướng thất bại hoàn toàn ngay sau khi hết nguồn đầu tư.
* Vai trò của AKIS
Sự phân tích AKIS thường chỉ ra rằng vai trò truyền thống của các tổ
chức Khuyến nông là chuyển giao kỹ thuật được tạo ra ở các cơ quan nghiên

cứu đến với nông dân. Tuy nhiên ở hầu khắp các nước phát triển vai trò chính
của họ là học hỏi kinh nghiệm của các nông dân tiên tiến nhất để dạy lại cho
những nông dân khác cách cải thiện việc quản lý nông trại của họ. Ngoài ra sự
phân tích AKIS còn chỉ ra rằng vai trò của các tổ chức Khuyến nông còn có
thể là để:
- Giúp nông dân thí nghiệm các kỹ thuật mới hay hệ thống canh tác mới.
- Thu được những thông tin thích hợp từ các nguồn thông tin khác nhau.
- Đánh giá và giải thích những thông tin này trong các tình huống của họ.
- Học hỏi những kinh ngiệm của họ.
McDermott đã chỉ ra rằng sử dụng AKIS một cách khoa học và hiệu quả
giúp việc sử dụng thông tin một cách hiệu quả, tạo ra những kỹ thuật tốt nhất
cho một tình hình cụ thể nào đó thông qua việc tổng hợp thông tin từ các nhà

nghiên cứu, Khuyến nông và nông dân khác. Tuy nhiên quá trình tổng hợp
này thường không được chú ý đúng mức. AKIS giúp xóa mờ sự phân định
giữa các nhà nghiên cứu, Khuyến nông và nông dân vì họ đã tham gia vào
một quá trình học hỏi để phát hiện ra những cách để cải tiến những hoạt động
nông nghiệp. Trong tiến trình đó, mỗi nhóm đều có thể học hỏi được từ những
người tham dự kia[2,33].
AKIS tạo ra một mạnh lưới thông tin gồm nhiều tác nhân khác nhau và
cần thiết, trong đó thông tin của mỗi nhóm đều có thể được tổng hợp lại. Vai
trò của mạng lưới hoạt động này có thể được thực hiện với những thông tin về
kỹ thuật sản xuất, cũng như đối với việc phát triển các mối quan hệ hiệu quả
hơn với thế giới bên ngoài, đặc biệt là thị trường.

PHẦN 3: NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
3.1.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Hưng Thuỷ
 Đặc điểm tự nhiên:
 Vị trí địa lý

 Địa hình, đất đai
 Đặc điểm kinh tế, xã hội
 Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi
 Tình hình sản xuất ngành trồng trọt
 Tình hình nuôi trồng thuỷ sản
 Các ngành nghề dịch vụ khác
 Cơ sở hạ tầng
3.1.2 Mô tả hệ thống thông tin kiến thức về nông nghiệp của người dân
 Các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp ở địa phương.
 Các nguồn thông tin kiến thức.
 Thông qua các kênh thông tin/phương tiện truyền thông.
 Loại thông tin người dân được tiếp cận.
3.1.3 Vai trò của hệ thống thông tin kiến thức nông nghiệp trong hoạt
động sản xuất nông nghiệp của người dân
 Phạm vi thông tin
 Sự sẳn có phương tiện tiếp nhận thông tin của người dân (đài, ti
vi, báo…)
 Sự phù hợp của thông tin với nhu cầu, nguyện vọng, trình độ
người dân
 Đánh giá vai trò của các kênh thông qua sự bình chọn (xếp thứ
tự ưu tiên) của của người dân, của cán bộ địa phương.
 Tần suất, số lần gặp gỡ, tiếp cận
 Hiệu quả của thông tin
 Sự phản hồi thông tin của người dân

3.1.4 Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong việc phát triển hệ
thống thông tin kiến thức về nông nghiệp cho người dân ở địa phương.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu

 Người dân tham gia sản xuất nông nghiệp tại xã Hưng Thuỷ.
 Các thương lái thu mua hàng nông sản.
 Các hộ kinh doanh vật tư nông nghiệp, cung cấp dịch vụ đầu vào
cho nông nghiệp.
 Nhóm trưởng, hội trưởng của các tổ chức dựa và cộng đồng
(nhóm sở thích, nhóm dùng chung nước sạch…)
 Cán bộ Khuyến nông xã, huyện.
 Cán bộ địa phương ( cán bộ xã, thôn, xóm, cụm,…).
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu
 Về nội dung: Sản xuất nông nghiệp là hoạt động sinh kế chủ yếu
của người dân xã Hưng Thuỷ nhưng trồng trọt vẫn giữ vai trò chủ đạo. Vì vậy
trong phạm vi đề tài này tôi chỉ tiến hành nghiên cứu hệ thống thông tin kiến
thức nông nghiệp của những người dân có hoạt động sản xuất trồng trọt.
 Về không gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu ở hai thôn Đấu
Tranh và Thắng Lợi là hai thôn có cơ cấu cây trồng mang tính đại diện cho
xã.
 Về thời gian: Đề tài được tiến hành trong thời gian 18 tuần, từ
ngày 05/01/2009 đến ngày 09/05/2009.
3.3. Phương pháp thu thập thông tin
Để thực hiện các mục tiêu cụ thể đã đặt ra của nghiên cứu, một số
phương pháp đã được sử dụng như sau:
 Thu thập và phân tích số liệu thứ cấp ở cấp chính là xã Hưng
Thủy , thông qua các báo cáo thực hiện nhiệm vụ KT - XH, QPAN các năm
2005 đến 2008 và các tài liệu liên quan khác.

 Phỏng vấn sâu cán bộ địa phương và một số người am hiểu cộng
đồng như: Cán bộ Khuyến nông xã, trưởng thôn, hội trưởng hội nông dân, hội
trưởng chi hội phụ nữ
 Điều tra nông hộ theo phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc. Mẫu
được chọn ngẩu nhiên gồm 15 hộ sản xuất nông nghiệp.

 Phỏng vấn bán cấu trúc các đối tượng khác gồm: các thương lái,
hộ thu gom nông sản; các hộ kinh doanh vật tư nông nghiệp.
 Thảo luận nhóm
- Mục đích:
Xác định các nguồn thông tin kiến thức về nông nghiệp mà người dân
địa phương có thể tiếp cận.
Đánh giá vai trò, hiệu quả của các nguồn thông tin, kênh thông tin qua sự
bình chọn của người dân.
Xác định điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho việc phát triển
hệ thống thông tin kiến thức về nông nghiệp ở địa phương.
- Các bước tiến hành:
+ Chọn người tham gia: 15 người đã được lựa chọn tham gia vào
buổi thảo luận nhóm (tối 02/04/2009). Với 6 đại diện của thôn Đấu Tranh, 6
đại diện của thôn Thắng Lợi (trưởng thôn, chi hội trưởng chi hội nông dân
thôn, chi hội trưởng chi hội phụ nữ thôn, 3 người dân tham gia sản xuất nông
nghiệp), 1 người thu gom nông sản, 1 người kinh doanh vật tư nông nghiệp ở
địa phương và cán bộ Khuyến nông xã.
+ Tiến hành thảo luận:
 Xác định các nguồn thông tin kiến thức về nông nghiệp mà
người dân địa phương có thể tiếp cận, nội dung (loại) thông tin nhận được
trong mỗi nguồn.
 Thảo luận vai trò, hiệu quả của các nguồn thông tin. Xếp thứ tự
ưu tiên các nguồn/kênh thông tin với các tiêu chí:
 Sự phù hợp của thông tin với nhu cầu người dân.
 Sự sẳn có phương tiện tiếp nhận thông tin của người dân.
 Phạm vi thông tin.
 Tần suất truyền tin.

 Độ chính xác của thông tin
 Sử dụng công cụ phân tích SWOT để xác định điểm mạnh, điểm

yếu, cơ hội và thách thức của người dân địa phương trong việc phát triển hệ
thống thông tin kiến thức về nông nghiệp.
3.4. Phương pháp xử lý số liệu
- Dùng phương pháp định tính và định lượng để tổng hợp thông tin.
- Xử lý thông tin trên phần mềm Excel.

PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tình hình cơ bản của xã Hưng Thủy
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Xã Hưng Thủy là một xã bãi ngang nằm phía Nam huyện Lệ Thủy tỉnh
Quảng Bình, cách thị trấn Kiến Giang (Lệ Thủy) 12 Km về phía Đông Nam,
với hình tam giác thế chân kiềng.
- Phía Bắc giáp xã Cam Thủy
- Phía Đông giáp xã Hải Thủy (Ngư Thủy Trung)
- Phía Tây giáp xã Tân Thủy
- Phía Nam giáp xã Sen Thủy
Xã nằm vị trí tương đối thuận lợi, có đường quốc lộ 1A đi ngang qua và trên
địa bàn xã có một chợ đầu mối nên việc giao lưu, buôn bán và thông tin liên
lạc với bên ngoài tương đối thuận lợi.
4.1.1.2. Địa hình và đất đai.
Xã Hưng Thủy có địa hình tương đối đơn giản. Toàn xã có địa hình bằng
phẳng, không có đồi núi rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông
nghiệp. Hiện trạng sử dụng đất đai của xã thể hiện:
Bảng 1: Hiện trạng sử dụng đất xã Hưng Thuỷ (Đơn vị tính: ha)
STT

Loại đất Diện tích %
Tổng diện tích đất tự nhiên 1184,79 100
1 Đất nông nghiệp 504,06 42,54

2 Đất lâm nghiệp 131,07 11,06
3 Diện tích mặt nước 73,23 6,18
4 Đất thổ cư 47,23 3,99
5 Đất chuyên dụng 93,50 7,89
6 Đất chưa sử dụng 335,7 28,34

Nguồn: Kế hoạch phát triển Hưng Thuỷ giai đoạn 2005 - 2010
Tổng diện tích đất tự nhiên của toàn xã là 1184,79 ha trong đó đất dùng
cho nông nghiệp là 504,06 ha chiếm 42,54%. Theo xu hướng chung ở xã
Hưng Thuỷ diện tích đất nông nghiệp ngày càng được mở rộng tuy nhiên bình
quân đất nông nghiệp/đầu người không tăng mà còn có xu hướng giảm do sự
gia tăng dân số và do các nguyên nhân khác. Xã hội ngày càng phát triển, dân
số ngày càng gia tăng, nhu cầu sử dụng đất đai của con người để làm nhà, đất
cho các công trình, đất sản xuất kinh doanh, phi nông nghiệp ngày càng gia
tăng. Do đó diện tích đất nông nghiệp một phần cũng bị thu hẹp, một phần lấy
từ quỹ đất chưa sử dụng của địa phượng.
4.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội
4.1.2.1. Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi
Chăn nuôi là một hoạt động sản xuất phụ nhưng nguồn thu nhập đem lại
cho các hộ nông dân tương đối lớn chủ yếu trang trải các chi phí sinh hoạt
hàng ngày. Lợn và trâu, bò là gia súc chủ yếu trong xã. Tổng đàn lợn nuôi là
4.590 con, bình quân: 3 con/hộ và có khoảng 85% hộ nuôi lợn. Đàn Trâu có
267 con, đàn bò có 855 con trong đó 10% là sử dụng cho cày kéo, 90% nuôi
kinh doanh để tăng thêm thu nhập cho các hộ gia đình. Đàn gà có 19.500 con,
đàn vịt có 7.150 con. (Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ KT - XH, QPAN
năm 2008)
Lao động tham gia vào chăn nuôi lợn chủ yếu là nữ, còn nuôi trâu và bò
là nam giới. Trong đó khoảng 80 % là nam trong độ tuổi lao động còn 20%
người chưa đến tuổi lao động hoặc hết tuổi lao động tham gia hoạt động này.
Công tác phòng trừ dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm luôn được chú

trọng. Ý thức của người dân ngày càng dược nâng cao trong công tác phòng
trừ dịch bệnh, đồng thời kết hợp với công tác kiểm tra nên trong năm 2008
trên địa bàn xã đã không có dịch bệnh xảy ra.
4.1.2.2. Tình hình sản xuất ngành trồng trọt
Trồng trọt là ngành sản xuất quan trọng và cũng là hoạt động chính mang
lại thu nhập và ổn định cho cuộc sống của người dân xã Hưng Thuỷ.

Bảng 2: Cơ cấu cây trồng của xã Hưng Thuỷ

STT Loại cây trồng
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
1 Lúa 303,33 41,33 1.253,7
1.1 Vụ đông xuân 214,53 43 922,5
1.2 Vụ hè thu 88,8 37,3 331,2
2 Khoai lang 59,50 60 357
3 Sắn 42 80 336
4 Lạc 23 14 32.2
5 Vừng 11,5 7 8,1
6 Rau màu và các cây trồng
khác
64,73 - -
Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ KT - XH, QPAN năm 2008
Hoạt động sản xuất lúa ở xã Hưng Thủy được chia làm 2 vụ đó là vụ đông
xuân và vụ hè thu. Lao động chủ yếu trong hoạt động trồng lúa là nam giới
chiến 50% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động. Nam giới chủ yếu đảm

nhận khâu làm đất, sạ và chăm sóc như phun thuốc sâu, bón phân, thu hoạch
vận chuyển sản phẩm về. Phụ nữ chủ yếu là làm cỏ, tỉa dặm và tham gia gặt
lúa.
Người dân địa phương chủ yếu sử dụng các giống lúa như: Giống lúa
Khang Dân, giống lúa Lai Trung Quốc, giống lúa X
21
, giống lúa Xuân Mai
(vụ hè thu) nên năng suất đạt tương đối cao. Nguồn giống chủ yếu mua từ
các công ty giống cây trồng (Được thực hiện dưới hình thức người dân đăng
ký giống tại trưởng thôn, sau đó trưởng thôn làm việc trực tiếp với công ty
giống).
4.1.2.3. Tình hình nuôi trồng thuỷ sản.
Tổng diện tích ao hồ đạt 22 ha và trên 30 ha cá lúa. Hàng năm nuôi thả
trên 80 vạn cá giống, thu trên 85 tấn cá thịt. Các giống cá chủ yếu là trắm cỏ,

rô phi, trê lai, chép, mè. Nuôi trồng thuỷ sản là một trong những nguồn thu
nhập chính của người dân và đã tạo được nhiều công ăn việc làm. Ước tính thu
nhập về nuôi trồng thuỷ sản trên 2,5 tỷ đồng/năm.
4.1.2.4. Ngành nghề dịch vụ và các nghề phụ khác
Trên địa bàn xã hiện có trên 353 hộ làm tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
thương mại. Lực lượng này đóng góp gần 30% tổng thu nhập của xã. Các hoạt
động buôn bán và dịch vụ quy mô tương đối lớn, không chỉ phục vụ nhu cầu
địa phương mà còn đáp ứng nhu cầu của người dân các địa phương, xã lân
cận. Các cửa hàng dịch vụ chủ yếu là: cửa hàng tạp hoá; cửa hàng buôn bán
sắt thép, xi măng; cửa hàng kinh doanh vật tư nông nghiệp; các cửa hàng ăn
uống Các ngành nghề phụ khác có thợ nề, thợ kép, thợ mộc, thợ may, thợ
sữa chửa ô tô, xe máy, cơ khí tổng hợp ngoài ra còn có các hộ làm nghề buôn
bán thu mua nông sản chuyển đi nơi khác bán.
Dịch vụ và các nghề phụ khác thu hút được một số lượng lao động đáng
kể và tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân địa phương trong suốt thời

gian rảnh rỗi sau thu hoạch. Các hoạt động tạo sinh kế này đóng góp nguồn
thu nhập đáng kể cho gia đình.
Lực lượng lao động đi làm xa chủ yếu là lao động trẻ độ tuổi từ 18 đến
35 lực lượng này cũng mang lại nguồn thu nhập cho các hộ gia đình, tỷ lệ
tham gia khoảng 50% nam và 50% nữ.
4.1.2.4. Cơ sở hạ tầng
Xã Hưng Thủy cơ sở hạ tầng rất tốt để phát triển kinh tế xã hội. Theo số
liệu thống kê, khoảng 99,5% các hộ gia đình sử dụng điện và nước sạch, trên
90 % số hộ có ti vi, gần 80 % hộ có điện thoại. Trên địa bàn xã có đường quốc
lộ 1A đi ngang qua nên việc đi lại của người dân khá dễ dàng. Các cơ sở hạ
tầng khác đang trong điều kiện tốt.

Bảng 3 : Cơ sở hạ tầng xã Hưng Thủy
Cơ sở hạ tầng và trang thiết bị Đơn vị tính

Số lượng

Trường học
Trường 5
- Trường Tiểu học
Trường 3
- Trường Trung học cơ sở
Trường 1
- Trường Trung học phổ thông
Trường 1
Trường mẫu giáo
Cơ sở 7
Chợ
Cái 1
Trạm y tế

Trạm 1
Bưu điện văn hoá xã
1
Điểm truy cập Internet
Điểm
5
Điện:
- Số trạm biến áp
- Đường dây cao thế
- Đường dây hạ thế

Trạm
Km
Km

7
4,42
8,89
Các máy móc thiết bị phục vụ sản xuất:

- Máy cày
Chiếc 12
- Trạm bơm nước
Trạm 2
- Máy tuốt lúa
Máy 15
- Xe công nông
Máy 20
Nguồn: Thống kê của UBND xã Hưng Thuỷ năm 2008 và kế hoạch phát
triển xã Hưng Thuỷ năm 2009


4.2. Mô tả AKIS của người dân
4.2.1. Các cơ quan, tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp ở địa phương (ở hai thôn khảo sát).
Quá trình nghiên cứu cho thấy rằng, có rất nhiều tổ chức, cơ quan và cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp có mặt thường xuyên ở địa
phương. Chi tiết thể hiện ở bảng 4. Tìm hiểu về các cơ quan, tổ chức này là cơ
sở cho việc nghiên cứu AKIS tại địa phương.
Bảng 4: Các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp có mặt thường xuyên ở hai thôn khảo sát.

Đơn vị
Thôn Đấu
Tranh
Thôn
Thắng Lợi

Khu vực
công
Cán bộ xã
1
Người 4
*
Cán bộ thôn
2
Người 1 1
Các tổ chức quần chúng
3
Tổ chức 5 5
Khu vự

tư nhân
Nông dân
4
Người ++
**
Thương lái, người thu gom
nông sản
Người +
**
Người kinh doanh vật tư
nông nghiệp
Người 5
*
Thú y tư nhân Người 0 2
Các điểm kinh doanh
Internet
Điểm 2 1
CBOs Nhóm dùng chung nguồn
nước
Nhóm 9 5
Nhóm tiết kiệm tín dụng Nhóm 1 1
Nhóm sở thích chăn nuôi bò Nhóm 4 0
Nguồn: Khảo sát xã Hưng Thuỷ năm 2009
Ghi chú:
*
Số lượng chung cho cả xã.

**
Số lượng chung cho hai thôn.


+
Số lượng ít nhưng không thống kê được.

++
Số lượng nhiều nhưng không thống kê được.


1
Cán bộ xã bao gồm: Cán bộ KHUYếN NÔNG (2 người), cán
bộ BVTV, cán bộ thú y.

2
Cán bộ thôn chủ yếu là trưởng thôn.
3
Các tổ chức quần chúng bao gồm: Hội phụ nữ, đoàn thanh
niên, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi ở thôn.
4
Nông dân bao gồm những người bà con thân thuộc, những
người hàng xóm, bạn bè
Ngoài ra, còn có rất nhiều cơ quan, tổ chức khác mặc dù không có mặt
thường xuyên ở địa phương nhưng có vai trò rất quan trọng trong việc chuyển
tải thông tin/kiến thức nông nghiệp cho người dân địa phương. Bao gồm: Các
cán bộ Khuyến nông huyện, tỉnh; cán bộ, người đại diện của các công ty
thuốc BVTV, công ty phân bón, công ty (trại) giống ; cán bộ của các trường,
viện nghiên cứu
4.2.2. Những nguồn thông tin nông nghiệp người dân có thể tiếp cận.
Quá trình nghiên cứu đã phát hiện nhiều mối liên kết tồn tại trong sản
xuất nông nghiệp của người dân. Người nông dân ở đây có thể nhận thông
tin/kiến thức nông nghiệp từ nhiều nguồn khác nhau (Sơ đồ 2 và bảng 5).Nó
có thể bao gồm các nguồn sau:

Thứ nhất: Từ nông dân khác bao gồm có thể là từ bạn bè, người bà con,
người thân, những người hàng xóm ). Quá trình chuyển tải thông tin/kiến
thức được thực hiện dưới hình thức nông dân truyền đạt cho nông dân.
Thứ hai: Từ những người thương lái, những người thu gom hàng hoá mà
chủ yếu là những người thu mua hàng nông sản ở địa phương (thu mua đầu ra
cho sản xuất nông ngiệp). Khi những người nông dân bán sản phẩm cho
những thương lái, những người thu gom thì đồng thời họ cũng có quá trình
trao đổi thông tin/kiến thức mọi mặt của cuộc sống nói chung và thông
tin/kiến thức về nông nghiệp nói riêng.
Thứ ba: Từ những người kinh doanh vật tư nông nghiệp (Những người
cung cấp dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như: cung cấp giống,
cung cấp phân bón, cung cấp hoá chất BVTV ). Những người này đóng một
vai trò khá quan trọng trong việc cung cấp thông tin/kiến thức nông nghiệp
cho người dân. Người dân khi đến các điểm kinh doanh vật tư nông nghiệp để

mua các sản phẩm cần thiết như: thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, phân bón, thức
ăn chăn nuôi, các laọi thuốc kích thích sinh trưởng thì họ cũng mong nhận
được sự hướng dẫn, giới thiệu kỹ càng các thông tin về sản phẩm họ cần mua
như: Thông tin về xuất xứ (thông tin về nhà sản xuất), hạn sử dụng, các
hướng dẫn về cách sử dụng sản phẩm Những thông tin mà người dân nhận
được từ những người cung cấp dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp
thường là những thông tin rất thiết thực và bổ ích, phù hợp với nhu cầu và
nguyện vọng của người dân.
Thứ tư: Từ chính quyền địa phương bao gồm chính quyền xã (Cán bộ
khuyến nông xã, cán bộ BVTV xã, cán bộ thú y xã) và thôn (chủ yếu là
trưởng thôn). Trong đó thông tin từ chính quyền xã chủ yếu chuyển xuống các
trưởng thôn, sau đó trưởng thôn thông báo, phổ biến lại cho bà con nông dân.
Thứ năm: Từ các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm các loại bản
tin nông nghiệp trên ti vi, đài, các thông tin trên internet và các loại báo chí,
tạp chí nông nghiệp Những kênh thông tin này người dân có điều kiện tiếp

xúc thường ngày vì gia đình có sẳn các phương tiện tiếp nhận thông tin (tivi,
đài). Các thông tin trên Internet, báo và các loại tạp chí nông nghiệp người
dân ít có điều kiện tiếp cận vì nhiều lý do khác nhau trong đó có lý do là
người dân không biết cách tiếp cận và không có kinh phí.
Thứ sáu: Từ các tổ chức đoàn thể (tổ chức quần chúng) trong thôn, xã
như: Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội
người cao tuổi Mặc dù các tổ chức này rất đa dạng về quy mô và loại hình
hoạt động nhưng sự tham gia của các tổ chức này vào phát triển nông nghiệp
còn hạn chế nên nguồn thông tin mà các tổ chức này cung cấp cho người dân
còn ít.
Thứ bảy: Từ CBOs (CBOs) bao gồm: Các nhóm sở thích chăn nuôi bò,
nhóm tiết kiệm tín dụng, nhóm dùng chung nguồn nước.
Thứ tám: Trực tiếp từ khuyến nông huyện. Người dân rất ít khi được tiếp
xúc trực tiếp với khuyến nông huyện. Khuyến nông huyện chỉ về làm việc với
cán bộ địa phương sau đó cán bộ địa phương thông báo lại với người dân. Chỉ
khi có các chương trình, hoặc các dự án có tổ chức các lớp tập huấn cần cán

bộ khuyến nông giảng dạy, làm việc thì khi đó người dân mới được tiếp xúc
với cán bộ khuyến nông huyện.
Thứ chín: Từ các công ty phân bón, công ty thuốc BVTV, công ty thức
ăn chăn nuôi Đây cũng là một nguồn thông tin rất quan trọng nhưng người
dân ít có điều kiện tiếp cận.
Thứ mười: Từ những người làm dịch vụ thú y tư nhân. Vì những hạn chế
của dịch vụ thú y xã như: cán bộ phục vụ không nhiệt tình, thường chậm trễ
và ít được đào tạo nên người dân tìm đến với dịch vụ thú y tư nhân để được
phục vụ tốt hơn, hiệu quả và nhanh chóng hơn.

×