Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tư tưởng chính trị hồ chí minh về nhân dân và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.45 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN PHƯƠNG AN

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÂN DÂN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2017
1


Công trình được hoàn thành
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS.TS. Nguyễn Văn Huyên
2. TS. Hồ Việt Hiệp

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh



Vào hồi

giờ

ngày

tháng năm 201

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng chính trị về Nhân dân là một trong những nội dung quan
trọng, có tầm bao quát và có ý nghĩa đặc biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung và tư tưởng chính trị của Người nói riêng. Đó là tư tưởng chỉ
đạo đường lối, là nguồn sức mạnh quyết định những thắng lợi vĩ đại trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước.
Thắng lợi mà cách mạng Việt Nam có được là do sức mạnh của Nhân dân
được tập hợp và phát huy dưới ánh sáng soi đường của tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh về Nhân dân.
Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay có thời cơ, thuận lợi lớn nhưng
khó khăn, thách thức cũng không ít. Chỉ có sự đồng lòng, nhất trí của toàn
dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mới là sức mạnh vô địch để chúng ta
vượt qua mọi sóng to, gió lớn. Khắc phục những yếu kém, hạn chế trong
quan hệ có tính quyết định thành công sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện

nay là nhiệm vụ vừa căn bản vừa cấp bách. Tuy nhiên, nhận thức đúng, đề ra
giải pháp đúng và đặc biệt là định hình mối quan hệ nêu trên trong thực tế thì
không phải là đơn giản.
Đi sâu nghiên cứu, vận dụng và phát huy tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh về Nhân dân sẽ mang lại những chỉ dẫn phương pháp luận soi đường
cho việc giải quyết hạn chế nêu trên, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực, thực
hiện đúng và phát huy hiệu quả của tư tưởng ấy, góp phần tiếp tục củng cố
mối quan hệ bền chặt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, phát huy sức
mạnh vô địch của Nhân dân tiếp tục tạo nên các thắng lợi to lớn và mang
tính bước ngoặt của sự nghiệp đổi mới.
Với toàn bộ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu “Tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi
mới hiện nay” với tư cách một đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính
trị học là hết sức có ý nghĩa và cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Nghiên cứu, làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh về Nhân dân; trên cơ sở đó, phân tích, làm rõ ý nghĩa to lớn của tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay.
1


2.2. Nhiệm vụ
Phân tích, làm rõ phạm trù “Nhân dân” theo tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh, cụ thể là quan niệm về Nhân dân; vị trí, vai trò của Nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Phân tích, làm rõ việc đảm bảo thực hiện vị trí, vai trò của Nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.
Phân tích làm rõ ý nghĩa to lớn của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh

về Nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những quan điểm cốt lõi về Nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh.
Ý nghĩa của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân đối với sự
nghiệp đổi mới hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh về Nhân dân theo nghĩa là những khái quát ban đầu.
Nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân trên cơ sở các
các công trình, bài viết, bài nói, thực tiễn hoạt động chính trị của Người trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
cụ thể
- Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước về Nhân dân.
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử là phương pháp luận của việc nghiên cứu, thực hiện đề tài luận án.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Kết hợp giữa phương pháp lịch sử
và phương pháp lôgíc; phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp;
phương pháp lý luận gắn liền với thực tiễn; phương pháp khái quát hóa.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, khái quát về mặt lý luận những tư tưởng chính trị của Hồ
Chí Minh về phạm trù “Nhân dân”, cụ thể là quan niệm Nhân dân; vị trí, vai
trò của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, khái quát những tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh về việc
đảm bảo thực hiện vị trí, vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng
Việt Nam, cụ thể: trước hết là giải phóng Nhân dân; sau đó là đưa Nhân
2



dân lên địa vị là chủ và làm chủ xã hội, làm chủ đất nước; kế tiếp là tạo lập
nội dung, cơ chế, điều kiện để Nhân dân xây dựng và phát triển xã hội,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ ba, phân tích, làm rõ ý nghĩa to lớn của tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh về Nhân dân đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, đó
là: Đổi mới hướng tới và thực hiện cho được mục đích, lý tưởng cao đẹp
của Nhân dân Việt Nam theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân;
công cuộc đổi mới của Đảng và Nhân dân ta hiện nay chỉ đạt tới thành
công theo hướng nêu trên khi Đảng, Nhà nước phát huy cao nhất toàn bộ
sức mạnh của Nhân dân.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khái quát rõ hơn tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân; cung cấp nhận thức đúng đắn về quan
niệm của Hồ Chí Minh về Nhân dân và vị trí, vai trò của Nhân dân cũng
như việc đảm bảo thực hiện vị trí, vai trò đó trong sự nghiệp cách mạng
Việt Nam; từ đó giúp cho việc sử dụng lực lượng vô tận của Nhân dân,
phát huy lực lượng của Nhân dân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội nói
chung, đổi mới đất nước hiện nay nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án góp vào thực tiễn hoạt động của hệ
thống chính trị trong việc đảm bảo và phát huy vai trò của Nhân dân ở sự
nghiệp đổi mới hiện nay; là tài liệu phục vụ nghiên cứu và giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
án gồm 4 chương với 8 tiết.
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Vì công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ngoài
không nhiều nên các nghiên cứu chuyên biệt về tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh gần như chưa được thống kê. Ở các nước tư bản phương Tây, chưa
3


thấy có công trình nào nghiên cứu trực diện và hệ thống tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh; đôi khi xuất hiện một vài quan điểm đề cập đến tư tưởng
chính trị của Hồ Chí Minh trong quá trình phân tích cuộc đời hoạt động
cách mạng của Người như: Ho Chi Minh, A Political Biography của Jean
Lacouture, Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?) của A. Pátti, Hồi ký N.
Khơrútsốp, “Khảo cứu lại Hồ Chí Minh” của Tsuboi Yoshiharu,...
1.1.1.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là nội dung cốt lõi và bao trùm trong
tư tưởng Hồ Chí Minh nên các công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí
Minh thực chất đã là nghiên cứu tư tưởng chính trị của Người. Tuy nhiên,
nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh một cách riêng biệt và độc lập thì
còn ít được triển khai. Công trình Tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph.Ănghen,
V.I. Lênin và Hồ Chí Minh của Lê Minh Quân là một trong số ít đó khi dành
một phần nội dung nêu quan niệm về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; phân
tích các nội dung chủ yếu trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về đường lối
cách mạng Việt Nam, xây dựng Đảng, xây dựng chế độ mới, phương pháp
và nghệ thuật chính trị, con người chính trị.
Các bộ phận, các yếu tố cấu thành nội dung tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh được nghiên cứu trong nhiều công trình. Đó là các công trình

nghiên cứu tư tưởng về Đảng và xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh như Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng của Nguyễn Quốc
Bảo, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh của Phạm
Ngọc Anh và Bùi Đình Phong, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng
do Phạm Ngọc Anh chủ biên,... Các công trình này đề cập một cách hệ
thống, toàn diện nhiều khía cạnh về vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng;
về các mặt công tác (tổ chức – cán bộ, tư tưởng, kiểm tra, dân vận,...), các
yếu tố (văn hóa, bản chất, mục tiêu, lý tưởng,...) của Đảng; về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh; về việc vận dụng tư tưởng đó vào công cuộc
xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nước ta... từ vị trí, vai trò của Đảng và công
tác xây dựng Đảng.
Nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước đã luận giải trên nhiều khía cạnh: cơ sở, quá trình hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước; quan niệm về nhà nước của
dân, do dân và vì dân; bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta; nhà
nước pháp quyền; tổ chức, bộ máy, phương thức hoạt động;... Một số công
trình tiêu biểu đề cập đến các vấn đề trên là: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ
4


chức nhà nước và cán bộ, công chức (Hà Quang Ngọc, Nguyễn Minh
Phương); Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin về xây dựng Nhà nước pháp quyền (Phạm Ngọc Dũng); Pháp quyền
nhân nghĩa Hồ Chí Minh (Vũ Đình Hòe);...
Con người chính trị được đề cập nhiều trong tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh. Các công trình nghiên cứu về vấn đề này phải kể đến Hồ Chí
Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài (Đức Vượng), Tư tưởng Hồ
Chí Minh về việc giải quyết mối quan hệ cá nhân – xã hội trong đạo đức
của người cán bộ cách mạng (Phạm Huy Kỳ),... Ở các công trình này,
trong khi khẳng định cán bộ là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự

nghiệp cách mạng thì việc gắn bó với Nhân dân, đi đúng đường lối Nhân
dân là yêu cầu trước tiên và bao trùm đối với cán bộ.
Như vậy, nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đa số đi vào
các nội dung bộ phận, đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt.
Tuy nhiên, từ nhiều công trình nghiên cứu các nội dung bộ phận của tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh nêu trên cho thấy hầu hết nội dung của tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh đều liên quan đến Nhân dân, đều cho thấy
Nhân dân đóng vai trò rất quan trọng và bao trùm.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về
Nhân dân và ý nghĩa, vận dụng tư tưởng đó trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Ở nước ngoài, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân phần lớn
được thể hiện qua các nhận định trong những công trình nghiên cứu tiểu
sử, sự nghiệp hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh. Một số tiêu biểu như:
“Ho” của David Halberstam, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua cảm nghĩ của một
người Hàn Quốc của Ahn Kyong Hwan, Đấng cứu tinh của hòa bình, độc
lập và hạnh phúc của Geetesh Sharman, Chính sách xã hội và tinh thần
thời đại của Hồ Chí Minh của A.X. Varônhin, Tinh thần Hồ Chí Minh ở
Mỹ Latinh của Igơnaxiô Gônxalết Hanxen,...; nhiều bài viết trên báo chí
như Bằng chứng Thiên Chúa giáo, Manila Times ,...
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới (12/1986) đến nay, tuy chưa có các
nghiên cứu chuyên biệt nhưng tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân
dân lại được phản ánh gián tiếp, lồng ghép, tồn tại như một phần trong
tổng thể nội dung của nhiều công trình nghiên cứu có liên quan.
5


Các công trình nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng và Dân theo tư

tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện với tần suất nhiều nhất. Tiêu biểu trong đó là
công trình Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
của Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng. Các công trình nghiên cứu vấn đề dân chủ,
dân quyền trong tư tưởng, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh có
nhiều nội dung liên quan: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ của Phạm
Hồng Chương; Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh của Phạm Văn Bính
(chủ biên)
Trên nhiều tạp chí khoa học xuất hiện không ít các bài viết có nội
dung đề cập liên quan đến tư tưởng chính trị về nhân dân của Hồ Chí
Minh. Nhóm các bài viết có nội dung phân tích khái niệm, vai trò của nhân
dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh tiêu biểu như “Khái niệm nhân dân trong
tư tưởng Hồ Chí Minh” của Mai Trung Hậu; “Nhân dân – Một phạm trù
văn hóa chính trị Hồ Chí Minh” của Bùi Đình Phong; “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng” của Trần
Quang Nhiếp; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố nhân dân và dư luận xã
hội trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng" của Nguyễn Thế
Thắng; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân và dân chủ" của Nguyễn Thị Mai
Anh,... Các bài viết trên có sự gần nhau trong trình bày quan niệm về Nhân
dân của Hồ Chí Minh.
Dân chủ, dân quyền, dân vận trong tư tưởng, phương pháp, phong
cách Hồ Chí Minh cũng là nội dung của nhiều bài viết trên các tạp chí
khoa học: “Phương pháp dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua bài báo
“Dân vận”- ý nghĩa thực tiễn” của Nguyễn Thanh Tuyền, “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát huy quyền dân chủ để nhân dân tích cực tham gia quản
lý nước nhà” của Nguyễn Thế Phúc, "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề
dân quyền" của Phạm Văn Bính,...
Nhiều nhà nghiên cứu đi sâu phân tích tính cấp thiết, tầm quan trọng,
yêu cầu, nội dung, cách thức mà hệ thống chính trị (chủ yếu là Đảng và
Nhà nước) phải làm nhằm chăm lo cho Nhân dân, nhằm phát huy vai trò
của Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh như: Phạm Bá Lượng trong "Tư

tưởng Hồ Chí Minh về "lấy dân làm gốc"" , Đỗ Xuân trong "Học Bác lấy
dân làm gốc", Đặng Văn Thái trong "Những tâm huyết trong Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo hạnh phúc của nhân dân" , Phạm Ngọc
Anh trong "Quan điểm của Hồ Chí Minh về các biện pháp phát huy nguồn
lực của nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước" , Nguyễn Lương
6


Uyên trong "Phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất
của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Lê Quốc Lý trong "Thực hiện
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh "không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân",...
Dù có số lượng không nhiều bằng các chủ đề khác, một số bài viết
tiếp cận vấn đề Nhân dân với tư cách là một bộ phận nội dung trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có chỗ đứng riêng. Các tác giả hệ thống
tần suất xuất hiện và những điểm chủ yếu về Nhân dân trong tư tưởng
cũng như thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh để đưa ra
khẳng định vị trí, vai trò của vấn đề này đối với toàn bộ tư tưởng. Nguyễn
Đình Hòa trong bài viết "Độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh" đã luận giải để khẳng định, đối với Hồ
Chí Minh, độc lập cho dân tộc luôn gắn liền với hạnh phúc cho Nhân dân.
Ở góc độ nghiên cứu tác phẩm Di chúc, tác giả Nguyễn Tất Giáp trong
"Trọng dân, thân dân – Tư tưởng nổi bật trong Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh" đã trình bày những bổ sung, phát triển tư tưởng trọng dân, thân
dân trong triết lý truyền thống của dân tộc và văn hóa nhân loại của Hồ
Chí Minh để làm nên diện mạo mới, bản chất mới của quan niệm.
Ở hầu hết các công trình nêu trên, liền với trình bày các nội dung liên
quan đến tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân là nêu bật ý nghĩa
của nội dung trình bày. Các nghiên cứu đều khẳng định giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn của các vấn đề về nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh; luận chứng những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình cách mạng

Việt Nam, tập trung ở thời kỳ đổi mới có mối liên hệ chặt chẽ với việc
trung thành và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, các quan điểm
chính trị về Nhân dân nói riêng; trên cơ sở đó đề ra các giải pháp, khuyến
nghị. Có thể khẳng định, nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về
Nhân dân và ý nghĩa, vận dụng các nội dung đó trong thời kỳ đổi mới là
“cặp đôi” trong các nghiên cứu.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, căn cứ mục
đích và nhiệm vụ đề ra, từ góc độ chuyên ngành Chính trị học, luận án
thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm rõ những vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ quan niệm về Nhân dân, vị trí, vai trò
của Nhân dân theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.
7


Thứ hai, phân tích để làm rõ rằng trong tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh về Nhân dân, con đường để Nhân dân Việt Nam thực hiện đúng vị
trí, vai trò của mình khi mà tình cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến
đã tước mất chính là tiến hành sự nghiệp cách mạng. Luận giải rõ những
vấn đề trên để cho thấy đây không chỉ là lý thuyết, mong muốn chính trị
mà còn là nội dung hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, ý nghĩa của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân
trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay.
Tiểu kết Chương 1
Nghiên cứu “Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân và ý
nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay”, Chương 1 của luận án đã tổng
quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài thông qua khảo sát, phân
tích, nhận định các công trình nghiên cứu (sách, bài viết trên tạp chí khoa
học) trong và ngoài nước theo hai nhóm: (1) Các công trình nghiên cứu

liên quan đến tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; (2) Các công trình nghiên
cứu liên quan đến tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân. Kết quả
nghiên cứu của các công trình liên quan là nguồn tư liệu quý báu giúp thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
Chương 2
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
2.1. QUAN NIỆM VỀ NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Quan niệm chung về Nhân dân
Từ nhiều khái niệm về nhân dân có thể nhận thấy những đặc trưng
nổi bật sau của phạm trù này:
Trước hết, nhân dân là toàn thể cộng đồng người (nghĩa rộng, hiểu
thông thường) hoặc cộng đồng người chiếm đa số trong xã hội (nghĩa hẹp,
cách hiểu khoa học chặt chẽ).
Thứ hai, nhân dân là cộng đồng người được gắn kết chặt chẽ thành
thể thống nhất bởi mẫu số chung. Mẫu số chung này khác nhau trong nhiều
quan niệm.
Thứ ba, nhân dân là phạm trù chính trị - xã hội có tính lịch sử, vừa
mang tính cộng đồng xã hội vừa mang tính giai cấp. Thành phần trong
nhân dân có sự thay đổi và luôn khác biệt về giai cấp, tầng lớp.
8


Đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm Nhân dân là toàn thể dân tộc,
không phân biệt giai cấp, tầng lớp, vị thế xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn
giáo… cùng tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong sự
đồng thuận, thống nhất, đoàn kết toàn dân, lực lượng nền tảng, nòng cốt là
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
2.1.2. Cơ sở hình thành và nội dung quan niệm về Nhân dân

trong tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh nói riêng, Nhân dân đứng ở vị trí trung tâm thể hiện qua tần suất rất
lớn các quan điểm đề cập đến trong di sản bài viết, bài nói. Trong đó, quan
niệm về Nhân dân là sự khởi đầu, điểm xuất phát cho hệ thống quan điểm
chính trị toàn diện và sâu sắc về Nhân dân của Người.
2.1.2.1. Cơ sở hình thành quan niệm về Nhân dân trong tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh
Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhân dân là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo quan niệm về nhân dân của các nhà tư tưởng Mác –
Lênin và nhiều quan niệm thuộc các trường phái tư tưởng khác, kế thừa và
phát huy tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc vào điều kiện cụ thể
đương thời của Việt Nam. Do vậy, Nhân dân trong quan niệm của Người
vừa có điểm nhất quán, vừa có những thay đổi, điều chỉnh phù hợp với
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
2.1.2.2. Nội dung quan niệm về Nhân dân trong tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh xem Nhân dân là tập hợp gắn kết đa số người khác
nhau về dân tộc, tôn giáo, giới tính, giai tầng, địa vị,... trong xã hội nhưng
thống nhất thành một cộng đồng chung. Đó là toàn dân, toàn dân tộc Việt
Nam, bao gồm mọi người thuộc các dân tộc đa số và thiểu số, sống ở trong
nước hay ở nước ngoài, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
tôn giáo. Hồ Chí Minh viết: Dân là mọi người dân Việt Nam; là mọi con
dân nước Việt; là mỗi người con Rồng cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ,
gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện, trong đó công nông chiếm tuyệt đại đa số.
Trong nhiều trường hợp, Hồ Chí Minh gọi Nhân dân là quần chúng,
quốc dân, đồng bào. Quan niệm này bao hàm trong đó các tiêu chí văn
hóa, lịch sử, lãnh thổ cư trú. Nhân dân Việt Nam là cộng đồng mọi người
dân, không phải tất cả, mà phải là người Việt Nam chung gốc tích, lịch sử,
văn hóa. Hồ Chí Minh cũng không cứng nhắc khi lấy tiêu chí lãnh thổ cư

9


trú để xác định thành phần Nhân dân. Cần lưu ý cách Hồ Chí Minh nói:
Dân là mọi người dân Việt Nam; là mọi con dân nước Việt; là mỗi người
con Rồng cháu Tiên... . "người dân Việt Nam" muốn nói ở đây là tất cả
mọi người Việt Nam đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hồ Chí Minh
đặt ở vị trí đầu tiên trong quan niệm nêu trên tiêu chí về lãnh thổ cư trú để
nhấn mạnh. Ở điểm này, Hồ Chí Minh tương đồng với nhiều quan niệm
hiện nay khi lấy chủ quyền quốc gia làm một trong những tiêu chí để xác
định thành phần nhân dân. Tuy nhiên, biên độ Nhân dân của Hồ Chí Minh
không dừng lại ở phạm vi lãnh thổ cư trú – lãnh thổ quốc gia – mà mở
rộng ra ở phạm vi văn hóa. "mọi con dân nước Việt", "mỗi người con
Rồng cháu Tiên" trong quan niệm về Nhân dân của Hồ Chí Minh chỉ cả
người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài. Kết hợp
tiêu chí lãnh thổ cư trú và văn hóa, lịch sử giúp cho quan niệm về Nhân
dân của Hồ Chí Minh phản ánh đầy đủ thành phần trong Nhân dân, vừa có
trọng tâm là mọi người Việt Nam sinh sống trong nước, vừa bao quát khi
có cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đây là quan niệm về Nhân
dân theo nghĩa rộng.
Từ cách tiếp cận hẹp hơn, Hồ Chí Minh phân biệt sự khác nhau giữa
quốc dân và Nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân và quốc dân khác nhau.
Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và
những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân.
Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân. Nhưng
chúng không được ở trong địa vị nhân dân, không được hưởng quyền lợi
như nhân dân. Chúng không có quyền tuyển cử, ứng cử; không có quyền
tổ chức tuyên truyền, v.v.. Song chúng cần phải làm tròn nghĩa vụ, như
phục tùng trật tự, tuân theo pháp luật của nhân dân”.
Hồ Chí Minh lấy "yêu nước" làm tiêu chí để xác định các thành phần

trong quốc dân gắn kết thành khối thống nhất với tên chung "Nhân dân".
Quan niệm cho thấy, khái niệm Nhân dân mang màu sắc và ý nghĩa chính
trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội.
Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một phạm trù rộng, mang tính
cộng đồng dân tộc mà vẫn bao hàm và thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc.
Điểm nổi bật dễ nhận thấy là có hai kiểu phân chia thành phần Nhân
dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, căn cứ theo giai tầng, tôn giáo, tầng lớp, độ tuổi, giới tính,
nghề nghiệp, dân tộc, Hồ Chí Minh xem Nhân dân là tập hợp thống nhất
10


của "bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử
khác yêu nước"; cộng đồng người không phân biệt "già, trẻ, gái, trai, giàu,
nghèo, quý, tiện". Trong đó, Hồ Chí Minh khẳng định liên minh công nhân
- nông dân - trí thức là cốt lõi, nền tảng.
Thứ hai, căn cứ theo hệ giá trị tinh thần, vào vai trò tiến bộ xã hội,
theo Hồ Chí Minh, về đại thể dân gồm ba tập hợp con người: "Bất kỳ nơi
nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng
vừa vừa, và hạng kém. Mà trong ba hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa,
nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém đều ít hơn".
Trong nhiều hoàn cảnh cụ thể, Hồ Chí Minh quan niệm về Nhân dân
một cách ngắn gọn, phản ánh những đặc trưng chung nhất. Với cán bộ, đảng
viên, Nhân dân là chủ, là đối tượng lãnh đạo và phục vụ. Với hệ thống chính
trị, Nhân dân là lực lượng tổ chức ra, nuôi dưỡng và bảo vệ, đồng thời là
người chịu sự lãnh đạo, quản lý. Với sự nghiệp chính trị, Nhân dân là chủ thể,
lực lượng chủ yếu. Nhìn chung, với cách tiếp cận này, quan niệm về Nhân dân
của Hồ Chí Minh vừa cho thấy vị trí, vai trò của Nhân dân, vừa cho thấy mối
quan hệ giữa Nhân dân với các chủ thể khác, vừa nêu rõ những yêu cầu về
nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhân dân.

2.2. NHÂN DÂN LÀ MỤC TIÊU VÀ ĐỘNG LỰC CỦA SỰ
NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.2.1. Nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Xét đến cùng, nhận thức cũng như hành vi chính trị của Hồ Chí Minh
nhất quán hướng đến Nhân dân như là mục tiêu thường xuyên và tối thượng.
Nhân dân là mục tiêu, lý tưởng của Hồ Chí Minh, của sự nghiệp cách
mạng trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh không mang tính nhất thời,
không là một thủ đoạn, sách lược chính trị mà là vấn đề có tính chiến lược
được duy trì và phát triển theo hướng không ngừng củng cố, bổ sung, phát
triển. Mục tiêu, lý tưởng vì Nhân dân trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt, ngọn
hải đăng dẫn đường cho toàn bộ quan điểm và hành vi chính trị của Hồ
Chí Minh và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhiều nghiên cứu cho rằng,
mục tiêu, lý tưởng đó tựu trung lại trong các mệnh đề: (1) Dân tộc độc lập;
(2) Nhân dân tự do; (3) Nhân dân hạnh phúc; (4) Dân trí nâng cao; (5)
Dân chủ thực hành.
2.2.2. Nhân dân là động lực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Vai trò của Nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam thể
hiện ở chỗ Nhân dân là động lực to lớn thúc đẩy cách mạng tiến lên, quyết
11


định mọi thắng lợi của cách mạng. Nhân dân, bằng tất cả tinh thần và lực
lượng của mình, đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các yếu tố mà nếu
thiếu thì sự nghiệp cách mạng không thể nảy sinh, duy trì và phát triển
được. Có thể phân tích điều đó qua các điểm chủ yếu sau:
- Nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân là động lực khởi phát sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Nhân dân đóng góp trí tuệ góp phần quyết định việc xây dựng và
đảm bảo tính đúng đắn của đường lối cách mạng.
- Nhân dân cung cấp tài lực, vật lực đảm bảo yêu cầu nền tảng vật

chất để sự nghiệp cách mạng được thực hiện thắng lợi.
- Nhân dân là lực lượng đông đảo, hùng hậu đóng vai trò chính thực
hiện đường lối cách mạng, bảo vệ thành quả cách mạng.
Tiểu kết Chương 2
Với nhiệm vụ làm rõ quan niệm, vị trí, vai trò của Nhân dân trong tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh, nội dung Chương 2 trình bày hai phần: Quan
niệm về Nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; Nhân dân là mục
tiêu và động lực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh. Tinh thần cốt lõi là:
Thứ nhất, mọi quan niệm về Nhân dân của Hồ Chí Minh trước hết
đều là quan niệm chính trị, đều mang sắc thái chính trị.
Thứ hai, sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trên tất cả các khía cạnh,
ở mọi phạm vi, cấp độ đề cập, đều vì dân.
Thứ ba, Nhân dân là động lực to lớn thúc đẩy cách mạng tiến lên,
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.
Chương 3
SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH LÀ ĐƯA NHÂN DÂN LÊN ĐÚNG
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN
3.1. GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN, ĐƯA NHÂN DÂN LÊN ĐỊA
VỊ LÀ CHỦ VÀ LÀM CHỦ XÃ HỘI, LÀM CHỦ ĐẤT NƯỚC
3.1.1. Cách mạng Việt Nam là sự nghiệp giải phóng Nhân dân
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân khẳng định: Trong điều
kiện đất nước đương thời, để Nhân dân trở về đúng vị trí, vai trò, thực hiện
được mục đích chính trị của mình thì trước hết phải giải phóng Nhân dân.
Giải phóng Nhân dân Việt Nam là mục tiêu và nội dung chính trong
sự nghiệp đấu tranh cách mạng của toàn thể Nhân dân dưới sự lãnh đạo
12



của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm giải thoát Nhân dân khỏi tình cảnh bị
thống trị, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân đế quốc và các thế lực nội
phản, khỏi sự trói buộc bởi những thói quen và truyền thống lạc hậu đang
kiềm kẹp sự phát triển, mang lại cho Nhân dân cuộc sống tự do cả về tinh
thần lẫn thể chất trong tư cách người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội,
làm chủ chế độ, làm chủ chính mình.
Nội dung của giải phóng Nhân dân có nhiều cấp độ gắn liền với các
quan điểm về xác định và nhận định kẻ thù của Nhân dân – thế lực nắm địa
vị thống trị, áp bức, kiềm kẹp Nhân dân trong tình cảnh mất tự do, cũng là
đối tượng của cuộc đấu tranh giải phóng:
Trước hết, giải phóng Nhân dân Việt Nam khỏi sự thống trị của các
thế lực ngoại xâm.
Hai là, giải phóng Nhân dân Việt Nam khỏi các thế lực nội phản áp
bức, bóc lột.
Ba là, giải phóng Nhân dân Việt Nam khỏi sự cản trở của thói quen
và truyền thống lạc hậu.
Muốn giải phóng Nhân dân phải làm cách mạng, tùy đối tượng đấu
tranh thế nào mà có hình thức cách mạng tương ứng. Đồng thời, làm cách
mạng không để giải phóng cho riêng ai, riêng giai tầng nào mà là để giải
phóng đất nước, giải phóng toàn dân.
Mục tiêu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh hướng đến trong giải phóng
Nhân dân luôn mang tính triệt để. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh chống
thực dân đế quốc và tay sai bán nước dẫu lâu dài nhưng chắc chắn có ngày
kết thúc thắng lợi. Với kẻ thù là thói quen và truyền thống lạc hậu cản trở
sự tiến bộ của Nhân dân trong tư cách lực lượng chính trị đóng vai trò chủ
thể của cách mạng, chủ thể của chế độ, xã hội, đất nước, thì không có điểm
kết thúc. Để giải phóng Nhân dân khỏi kẻ thù này, Hồ Chí Minh yêu cầu
phải có một cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hóa – xã hội một cách bền
bỉ, không ngừng nghỉ và quyết tâm cao.
Theo Hồ Chí Minh, "cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ

không phải việc một hai người". Lực lượng tiến hành cách mạng nhằm mục
tiêu giải phóng Nhân dân không đâu khác ngoài Nhân dân yêu nước được
giác ngộ, "nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm
cách mệnh". Trong thành phần cấu thành lực lượng cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam là tổ chức tiên phong đóng vai trò lãnh đạo.
13


3.1.2. Lập ra nhà nước của Nhân dân, người dân là chủ xã hội,
làm chủ đất nước
Ngay khi xác định cách mạng Việt Nam là sự nghiệp giải phóng
Nhân dân thì Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến "giành lấy chính quyền về
tay nhân dân" và xây dựng chính quyền trở thành công cụ mạnh mẽ, sáng
suốt để Nhân dân thực hiện vai trò là chủ xã hội, làm chủ đất nước.
- Giành lấy và kiến lập Nhà nước của Nhân dân là điều kiện đảm bảo
đầu tiên để đưa Nhân dân lên đúng vị trí, vai trò và thực hiện đúng mục
đích của mình.
- Thông qua nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân để
xác lập và đảm bảo quyền là chủ và quyền làm chủ của Nhân dân.
Sự kiến lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ thắng lợi của
Tổng khởi nghĩa tháng 8 đã hiện thực hóa tư tưởng xây dựng nhà nước dân
chủ thực sự của Hồ Chí Minh. Những nỗ lực thiết kế, tổ chức, xây dựng
Nhà nước sau đó đều được Hồ Chí Minh chú tâm xác lập, đảm bảo quyền là
chủ và làm chủ của Nhân dân. Có thể đánh giá trên ba nét lớn:
Một là, thể chế hóa, pháp lý hóa quyền là chủ và làm chủ nhà nước
của Nhân dân.
Hai là, nhà nước phải nâng cao năng lực làm chủ cho Nhân dân.
Ba là, xây dựng nhà nước trở thành công cụ cốt yếu để Nhân dân
thực hiện vai trò làm chủ xã hội, làm chủ đất nước.
3.2. CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT

NAM LÀ CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
3.2.1. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là của Nhân dân và
do Nhân dân
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân.
Nói công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vị trí chủ thể của nhân dân đối với giai đoạn
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trong con đường cách mạng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều này vốn được xác
lập từ lâu, rất rõ ràng và thống nhất cao nên Hồ Chí Minh đề cập như là sự
khẳng định hơn là luận giải nguyên nhân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp do Nhân dân,
thể hiện trên ba góc độ cơ bản sau:
Một là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do Nhân dân mà có.
Hai là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do Nhân dân thực hiện.
14


Ba là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do Nhân dân giữ gìn,
bảo vệ.
Hồ Chí Minh là một thành tố trong Nhân dân Việt Nam tham gia xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh là một thành tố đặc biệt,
là người tiên phong, dẫn đường, người thấy rõ và đề cao nhất, kiên quyết
và sáng tạo nhất để khẳng định và thực tiễn hóa vị trí, vai trò của Nhân dân
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tôn trọng và thấu hiểu Nhân
dân, Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là của
Nhân dân, do Nhân dân. Đến lượt mình, Nhân dân tin cậy, ủng hộ, đoàn
kết, kiên quyết gắng sức tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chính phủ. Trong trường hợp này, mối quan hệ giữa cá
nhân kiệt xuất và quần chúng nhân dân hòa hợp, quyện chặt, tương tác
thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

3.2.2. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vì nhân dân
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội khẳng định và thực hiện các mục
tiêu vì lợi ích và sự phát triển của Nhân dân trên các khía cạnh cơ bản sau:
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống vật chất
cho Nhân dân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống văn hóa –
tinh thần cho Nhân dân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xây dựng chế độ chính trị phục vụ
Nhân dân, từng bước hướng đến xóa bỏ bất công, bóc lột, giải phóng triệt
để con người.
Tiểu kết Chương 3
Chương 3 của Luận án trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh về Nhân dân trên hai góc độ: (1) Giải phóng Nhân dân,
đưa nhân dân lên vị trí là chủ và làm chủ xã hội, làm chủ đất nước; (2)
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Tựu trung lại có thể rút ra mấy kết luận sau:
Một là, giải phóng Nhân dân Việt Nam là mục tiêu và nội dung chính
trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của toàn thể Nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm giải thoát nhân dân khỏi tình
cảnh bị thống trị, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân đế quốc và các
thế lực nội phản, khỏi sự trói buộc bởi những thói quen và truyền thống lạc
hậu đang kiềm kẹp sự phát triển, mang lại cho Nhân dân cuộc sống tự do
15


cả về tinh thần lẫn thể chất trong tư cách người làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội, làm chủ chế độ, làm chủ chính mình.
Hai là, cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai đoạn tiếp liền sau khi cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi, giải phóng đất nước khỏi ách
thống trị của ngoại xâm và tay sai, thiết lập chính quyền của Nhân dân, do

Nhân dân và vì Nhân dân.
Nói công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vị trí chủ thể của Nhân dân đối với giai đoạn
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trong con đường cách mạng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội do Nhân dân mà có bởi nó được khởi xướng từ nhu cầu của
Nhân dân và được thực hiện bởi Nhân dân. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội từ chỗ "do Nhân dân" mà có phải chuyển thành "vì Nhân dân" mà
thực hiện mới đảm bảo vị trí chủ thể của Nhân dân xuyên suốt từ khi bắt
đầu đến quá trình thực hiện và đích đến cuối cùng.
Chương 4
Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
4.1. CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI PHẢI ĐẠT TỚI MỤC TIÊU VÀ LÝ
TƯỞNG CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
4.1.1. Công cuộc đổi mới phải đạt tới “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”
Mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh",
trên phạm vi chỉnh thể hay từng phạm trù, nội hàm, đều thể hiện sự kế
thừa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh về Nhân dân nói riêng. Thực tiễn đổi mới phấn đấu hiện thực
hóa các mục tiêu ấy được soi đường bởi hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc này của Hồ Chí Minh.
- Dân giàu
Dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau song một trong những tiêu chí cốt
lõi của chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đề cập chính là "dân giàu". Thế
nhưng, trước đổi mới, chúng ta không nói “dân giàu” vì cho rằng nói “dân
giàu” không đúng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với
nhận thức này, sau mười năm cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, "đời sống

nhân dân lao động còn nhiều khó khăn". Tiến hành đổi mới, lần đầu tiên “dân
16


giàu” được xem là tiêu chí của chủ nghĩa xã hội. Trước đây, không nói "dân
giàu" thì nay làm giàu được khuyến khích, tạo mọi điều kiện, tất nhiên là phải
hợp pháp. Sau ba mươi năm đổi mới, nền kinh tế phát triển lên nhiều lần; đời
sống Nhân dân được nâng lên rõ rệt, từ chỗ thiếu đói, thiếu thốn nhiều nhu yếu
phẩm cần thiết đến nay đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào hàng
ngũ các nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình.
- Nước mạnh:
Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi thân phận
thuộc địa, khỏi tình cảnh nước nhược tiểu, vươn lên sánh vai với các
cường quốc năm châu. Mười năm trước đổi mới, làm cho đất nước hùng
cường thông qua xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được nói đến. Tuy nhiên,
trong thời gian này, đất nước yếu cả về vị thế và nội lực – hai yếu tố biểu
hiện sức mạnh của quốc gia.
Nội lực của một đất nước thể hiện qua nhiều khía cạnh, tập trung ở
sức mạnh kinh tế, quốc phòng và văn hóa.
Về kinh tế, trước đổi mới (12/1986), trong bối cảnh khủng hoảng,
nền kinh tế chẳng những không cấu tạo nên sức mạnh quốc gia mà còn cho
thấy rõ hình ảnh một đất nước đang suy yếu, khủng hoảng. Nhờ động lực
của tiến trình đổi mới, nền kinh tế đã vượt qua được tình trạng trì trệ, suy
thoái, từng bước nâng dần nhịp độ tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế trong 30 năm đổi mới đưa đất nước ta thoát khỏi nước nghèo, trở
thành nước có thu nhập trung bình.
Cùng với nền kinh tế, nội lực của một quốc gia mạnh thể hiện ở năng
lực quốc phòng. Sau 30 năm đổi mới, nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân được xây dựng toàn diện, có bước phát triển cả về chiều rộng và

chiều sâu, ngày càng vững chắc. Nhờ vậy, trong 30 năm đổi mới, "Độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững”.
Trước đây, khi đề cập đến sức mạnh quốc gia thì văn hóa ít được nhắc
đến. Đây là cách hiểu chưa đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiến hành đổi
mới, trở lại với những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, xuyên suốt nhiều kỳ Đại hội
Đảng, chúng ta xác định mục tiêu phải xây dựng văn hóa thành nền tảng tinh
thần của xã hội, là sức mạnh, động lực tinh thần to lớn thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. “Qua 30 năm đổi mới, lĩnh vực xây dựng,
phát triển văn hóa, con người đã đạt những kết quả quan trọng... đời sống
tinh thần của con người, xã hội phong phú, đa dạng hơn, mức hưởng thụ văn
hóa của nhân dân từng bước được nâng lên”.
17


Vị thế quốc gia được nâng cao cả về "chỗ đứng" và "tiếng nói". Từ
chỗ bị bao vây, chủ yếu quan hệ đối ngoại với các nước trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa, từ Đại hội VI với tinh thần muốn là bạn với tất cả các nước,
cùng hợp tác phát triển bình đẳng đến nay Việt Nam đã là thiết lập quan hệ
ngoại giao với hầu hết các nước và nhiều tổ chức quốc tế. Với các nước,
Việt Nam đưa quan hệ ngoại giao ngày càng đi vào chiều sâu.
- Dân chủ
Thực hành dân chủ là mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong mọi giai
đoạn. Khởi xướng đổi mới, bài học đầu tiên được Đảng xác định là "trong
toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”. Tổng kết 30 năm đổi mới, nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật
nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ
của Nhân dân tiếp tục được ban hành. Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện
được đổi mới góp phần phát huy tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế.

- Công bằng
"Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước
ta" được Đại hội VI xác định là một trong các mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ. Quan điểm này được kế thừa và phát huy cho đến nay. Chúng ta đã
thực hiện công bằng xã hội trên nhiều mặt. Về kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế. Về xã hội, từng bước hoàn
thiện chính sách xã hội, làm tốt chính sách bảo trợ xã hội, xóa đói giảm
nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, "bảo đảm sự công bằng
về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, chống đặc quyền đặc lợi".
Về xây dựng hệ thống chính trị, công bằng xã hội phải được thể hiện trong
từng hoạt động, từng chính sách phát triển. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2020 tiếp tục xác định "thực hiện tốt tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều
kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững" là mục tiêu, nhiệm vụ lớn
của công cuộc đổi mới.
- Văn minh
Khái niệm “văn minh” được xem như một mục tiêu, tiêu chí của chủ
nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới. Để thực hiện mục tiêu "văn minh"
cần chú ý kết hợp hai yếu tố: văn hóa truyền thống và văn minh của xã hội
hiện đại. Đảng đề ra mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc; tiên tiến tức là hòa nhịp với xã hội văn minh hiện
18


đại, đậm đà bản sắc dân tộc tức là bảo tồn, phát huy được các giá trị văn
hóa truyền thống. Trên con đường trở thành nước công nghiệp, chúng ta
phải kết hợp được hai yếu tố này.
Những năm đổi mới vừa qua đã tập trung xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa đã thấm sâu vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trở thành mặt trận trong hội nhập và hợp tác quốc tế.
Tuy nhiên, quá trình phấn đấu đạt được các mục tiêu này cũng còn tồn

tại không ít hạn chế đang tác động với tính chất ngày càng phức tạp đến
Nhân dân trong tư cách chủ thể, quyết định sự tiến lên hay lùi bước của công
công đổi mới. Đó là các hạn chế cả về phát triển kinh tế, xây dựng và bảo tồn
văn hóa – lối sống cũng như xây dựng hệ thống chính trị. Đảng thẳng thắn
nhìn nhận trách nhiệm và chỉ ra nguyên nhân từ trong nhận thức, đường lối
cũng như quá trình tổ chức thực tiễn. Đây là sự thể hiện đúng với tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân và cần được duy trì thành nền nếp. Đó là
cơ sở xuất phát để Đảng và Nhà nước bổ sung, phát triển nhận thức, điều
chỉnh quan điểm đường lối cho phù hợp nhằm có thể tạo ra được động lực
cho sự phát triển mới.
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" là mục tiêu phải
đạt tới của công cuộc đổi mới. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng trình bày đã khẳng định: “Ba mươi năm đổi mới là một
giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước,
đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.
Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc,
toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh““.
Đó là sự thể hiện kế thừa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân nói riêng.
4.1.2. Công cuộc đổi mới phải đạt tới Nhân dân “ấm no, tự do,
hạnh phúc”, con người phát triển toàn diện
Mỗi bước đất nước đi tới chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện bằng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của Nhân dân. Tuy
nhiên, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cuộc sống Nhân dân vô cùng chật vật,
khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. "Đời sống của các tầng lớp
nhân dân sa sút chưa từng thấy".
Tiến hành sự nghiệp đổi mới, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và

tinh thần của Nhân dân được xem là mục tiêu, nhiệm vụ trung tâm. Ba mươi
năm qua, đất nước đổi thay từng ngày, cuộc sống vật chất và tinh thần của
19


người dân từ miền xuôi tới miền ngược, từ nông thôn tới thành thị, đều có sự
thay đổi rõ rệt. Trọng tâm chiến lược của công cuộc đổi mới là phát triển con
người, mỗi người dân và toàn dân. Từ khi đổi mới đến nay, theo các báo cáo
được công bố, chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục.
Nền kinh tế phát triển, Nhân dân được thụ hưởng đời sống ấm no hơn
nhiều so với thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc hay bao cấp trước đổi mới.
Tuy nhiên, còn một bộ phận lớn dân nghèo có sống chật vật, thiếu thốn.
Nhiều nơi còn tình trạng mất dân chủ, xâm phạm quyền làm chủ, quyền tự
do của Nhân dân; tình trạng duy ý chí, quan liêu, áp đặt sai pháp luật của cơ
quan, cá nhân trong bộ máy chính quyền với người dân có xu hướng diễn
biến phức tạp. Mặt khác, đời sống xã hội hiện nay đang nảy sinh và lan rộng
biểu hiện tự do quá mức, vượt ngoài khuôn khổ pháp luật, vô tổ chức, mất kỷ
cương. Điều kiện vật chất được cải thiện hơn nhưng các giá trị tinh thần
trong gia đình, dòng tộc, cộng đồng xã hội đang bị tấn công và xói mòn
nghiêm trọng. Không ít người đang thừa vật chất nhưng thiếu tinh thần nên
không thể có một cuộc sống hạnh phúc đúng nghĩa. Thành tích về mặt phát
triển con người thấp hơn so với phát triển kinh tế. Phát triển con người của
Việt Nam từng tiến nhanh nhưng gần đây đã chậm lại.
Hạn chế trên cho thấy trong quá trình đổi mới vì mục tiêu mang lại
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và phát triển toàn diện con người Việt
Nam còn có lúc, có nơi chưa thực hiện tốt tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về
Nhân dân. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn hướng sự phát
triển toàn diện nhưng tổ chức thực hiện thì còn nhiều bất cập. Trong thời gian
qua, tư duy phát triển của chúng ta còn biểu hiện nặng về đời sống vật chất,
thiếu sự quan tâm đúng mức cho đời sống tinh thần; quản lý phát triển xã hội

còn lúng túng và thụ động so với biến động đời sống Nhân dân; đầu tư phát
triển còn chưa đúng mức và mang lại hiệu quả ở vùng sâu, vùng xa, vùng
cao, ở các bộ phận người dân nghèo dễ bị tổn thương bởi biến động kinh tế xã hội. Do vậy, để tiếp tục chăm lo đời sống Nhân dân được tốt cần phải xem
trọng khía cạnh xã hội của quá trình phát triển kinh tế.
Ba thập kỷ trôi qua kể từ mốc son khởi xướng (12/1986 ), ngần ấy thời
gian là chưa nhiều so với dòng chảy vô tận của cách mạng nhưng suốt tiến
trình đó, trong tất cả các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, dù
cách diễn đạt có khác nhau, song tinh thần cơ bản của các bài học được rút ra
là: “... đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân". Bài học này không chỉ là ngọn
nguồn để sự nghiệp đổi mới được khởi xướng mà còn là kim chỉ nam định
hướng cho quá trình đổi mới thực sự đáp ứng mục tiêu và lý tưởng của toàn
20


dân đã được đề cập trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân: cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện.
4.2. CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CHỈ THÀNH CÔNG KHI PHÁT
HUY ĐƯỢC TOÀN BỘ SỨC MẠNH CỦA NHÂN DÂN
4.2.1. Nhân dân thực sự là chủ và làm chủ quá trình đổi mới
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam nhằm tới sự phát triển của đất nước,
của Nhân dân ta. Để đi đúng định hướng đó, điều kiện tiên quyết ở chỗ xác
định rõ ràng và dứt khoát chủ thể của cách mạng là Nhân dân. Điều đó được
Hồ Chí Minh khẳng định, xem là tiêu chí mang tính nguyên tắc, vừa là mục
tiêu tiên quyết cần đạt tới vừa là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh có ý nghĩa
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trước khi khởi xướng đổi mới, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
khi không còn phù hợp nữa là tác nhân kéo lời nói "Nhân dân là chủ" ra xa
dần thực tiễn "làm chủ" của Nhân dân. Công cuộc đổi mới được khởi
xướng và tiến hành một cách toàn diện, từ tư duy đến tổ chức thực tiễn,
kinh tế đến chính trị. Trong mỗi khía cạnh đổi mới đểu nổi lên những nỗ

lực đặt Nhân dân trở lại thực sự là chủ thể của cách mạng thông qua việc
nhìn thẳng, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm đã tồn tại trước đó và quyết
tâm sửa chữa, khắc phục.
Trong lĩnh vực kinh tế, Nhân dân không chỉ là chủ và làm chủ sự
nghiệp đổi mới nhìn từ nhận thức, hành động của Đảng, Nhà nước. Nhân
dân còn làm tròn vị trí, vai trò đó ở trong chính hoạt động của mình. Cần
lưu ý, một trong những nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới là sự "phá
rào" của một bộ phận Nhân dân dưới cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Đảng và Nhà nước đã tôn trọng, lắng nghe, tiếp thu để xây dựng đường lối
đổi mới. Không xem Nhân dân là chủ, không muốn Nhân dân thực sự làm
chủ, chắc chắn không có sự tôn trọng, lắng nghe, tiếp thu này. Do vậy,
đường lối đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng cho thấy Nhân dân
thể hiện vai trò làm chủ, tham gia vào xây dựng đường lối. Hơn nữa, không
chỉ tham gia xây dựng đường lối, Nhân dân còn thể hiện vai trò làm chủ
trong thực hiện đường lối đổi mới kinh tế. Nhân dân cung cấp đại đa số
nguồn lao động cho nền sản xuất, đồng thời là lực lượng tiêu thụ sản phẩm
khổng lồ. Nhu cầu và sức sáng tạo của Nhân dân tạo nên tính năng động,
sức sống của nền kinh tế. Nhân dân thực hiện đường lối kinh tế, đồng thời
trong quá trình đó góp phần phản ánh, cung cấp các luận cứ thực tiễn cho
Đảng, Nhà nước điều chỉnh đường lối, chính sách.
Xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, Đảng đồng thời đặt ra nhiệm
vụ từng bước đổi mới về chính trị. Thực chất của việc đổi mới và kiện toàn
hệ thống chính trị là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách vừa là
21


mục tiêu, vừa là động lực của toàn bộ công cuộc đổi mới. Ba mươi năm đổi
mới là chừng ấy thời gian nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được từng bước
hoàn thiện và nâng cao trình độ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về Nhân
dân đo bằng những tiến bộ trong thực tiễn nắm giữ và sử dụng quyền làm

chủ của Nhân dân. Biến khẩu hiệu "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra" thành phương châm quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội; thành nền
nếp, thói quen hằng ngày trong công việc của Đảng và của các cơ quan nhà
nước các cấp từ Trung ương đến cơ sở; thành hành động tự giác và có hiệu
quả cao của đông đảo tầng lớp Nhân dân.
Bên cạnh thành tựu đạt được, trong điều kiện hiện nay, còn nhiều
yếu kém, bất cập trong thực tiễn xây dựng và phát huy nền dân chủ. Cần
phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất trên cơ sở xác lập
quyền là chủ và làm chủ của Nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Điều đó cần phải được thiết lập trên hai hướng chủ yếu:
Một là, tăng cường thể chế hóa quyền làm chủ của Nhân dân thông
qua xác lập quyền đó trong hệ thống pháp luật một cách chi tiết và đầy đủ
để có cơ chế thu hút Nhân dân tham gia sâu hơn vào các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trọng tâm là đời sống chính trị.
Hai là, nâng cao năng lực làm chủ cho Nhân dân.
Sự nghiệp đổi mới diễn ra gần ba mươi năm. Thành tựu đạt được là
to lớn và đáng tự hào làm sáng tỏ hơn tầm vóc của Nhân dân – người là
chủ và làm chủ thật sự của toàn bộ quá trình đổi mới.
4.2.2. Phát huy được mọi tiềm năng trong Nhân dân, nguồn lực
vĩ đại của Nhân dân
Việc xác lập vị thế chủ thể của Nhân dân mới chỉ giúp sự nghiệp
cách mạng có được một nửa sự đảm bảo thắng lợi. Không phải cứ đặt
Nhân dân lên địa vị làm chủ là cách mạng thành công. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam cho thấy xuyên suốt mọi giai đoạn Nhân dân luôn được
xem là chủ và làm chủ nhưng không phải lúc nào cách mạng cũng tiến
triển thuận lợi, gặt hái thành công. Vấn đề cốt yếu ở chỗ đi liền với sự
khẳng định vị thế của Nhân dân là phải nhận rõ và phát huy được mọi tiềm
năng, nguồn lực vĩ đại của Nhân dân.
Một trong những yêu cầu mấu chốt đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới
là phải thay đổi cách làm như thế nào để có thể "đem tài dân, lực dân làm

lợi cho dân". Yêu cầu này chỉ có thể được đáp ứng khi biết vận dụng đúng
đắn, sáng tạo con đường khai thác nguồn lực của Nhân dân bằng cách phát
huy dân chủ - dân vận khéo – đại đoàn kết toàn dân.
Trước hết, cần phải xác định một cách dứt khoát, rõ ràng vị thế là
chủ của nhân dân và có cơ chế thuận lợi để đảm bảo sự thể hiện vị thế đó
22


bằng hành vi "làm chủ" trong thực tiễn. Trên nền tảng "Dân chủ", hệ thống
chính trị và Nhân dân cùng vận động trong mối tương tác chặt chẽ nhằm
một mục tiêu là làm cho nguồn lực của toàn dân đang tồn tại dưới dạng
tiềm tàng được vận hành theo định hướng của sự nghiệp đổi mới.
Trong gần ba mươi năm đổi mới, việc huy động, khai thác, phát huy
"Dân trí" được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt theo hai hướng: nâng
cao trình độ của Nhân dân và tạo cơ chế để Nhân dân tham gia đóng góp trí
tuệ thuận lợi, hiệu quả. Khai thác và phát huy “sức dân” cũng được tiến
hành theo hai hướng: (1) Tạo cơ chế, tập trung ở cơ chế kinh tế, để không
ngừng nâng cao nhiệt tình lao động của Nhân dân; (2) Chăm sóc sức khỏe,
nâng cao thể lực của Nhân dân. "Của dân” cũng được khai thác và phát huy
bằng cách không ngừng đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách để thu hút
tài vật, kỹ thuật công nghệ trong Nhân dân, đồng thời hoàn thiện hệ thống
pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích của Nhân dân khi tham gia đóng góp.
Các nguồn lực “Sức dân”, “Tài dân”, “Của dân” luôn vận động theo hướng
đi từ riêng lẻ đến gắn kết, quy tụ thành khối thống nhất. Đó cũng là quá
trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sức mạnh của Nhân dân quyết định nguồn nội lực của đất nước. Để
đảm bảo cho nguồn lực quốc gia được duy trì, không ngừng gia tăng cần
phải có sự "cộng hưởng" với ngoại lực. Sự phát triển công tác ngoại giao
trong gần ba mươi năm qua đã mang lại nguồn ngoại lực to lớn cho sự
nghiệp đổi mới.

Có thể nói, trong ba mươi năm đổi mới chúng ta đã làm cho nguồn
lực của Nhân dân chuyển từ trạng thái "ngủ đông", suy giảm sang "thức
tỉnh", gia tăng. Đây là cội nguồn của những thành tựu.
Tiểu kết Chương 4
Chương 4 tập trung làm rõ ý nghĩa của tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh về Nhân dân đối với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay thông qua
phân tích, luận chứng giá trị, vai trò của tư tưởng đó đối với việc hoạch
định đường lối đổi mới cũng như đối với thực tiễn thắng lợi trong ba mươi
năm qua (1986 – 2015), cụ thể như sau:
Thứ nhất, công cuộc đổi mới phải đạt tới mục tiêu và lý tưởng của
Nhân dân Việt Nam.
Thứ hai, muốn gặt hái nhiều thành tựu, đạt tới được mục tiêu và lý
tưởng của Nhân dân, công cuộc đổi mới phải phát huy được toàn bộ sức
mạnh của Nhân dân.

23


×