Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 104 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TẠ THỊ MAI HUỆ






TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC







HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TẠ THỊ MAI HUỆ




TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY


Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 602285


LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Thị Lan


Hà nội -11/2010

4
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƢỜI 15
1.1. Nguồn gốc tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời 15
1.1.1. Bối cảnh thời đại 15
1.1.2. Nguồn gốc văn hóa - tư tưởng 17
1.1.3. Nhân tố chủ quan 24
1.2. Nội dung cơ bản tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời trong tiến trình
cách mạng Việt Nam 28
1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người 28
1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về giải phóng con người 32
1.2.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về người cách mạng 36
1.2.4. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa 42
CHƢƠNG 2: XÂY DỰNG CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY DƢỚI ÁNH SÁNG
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 51
2.1. Thực trạng con ngƣời Việt Nam hiện nay và những yêu cầu đặt ra 51
2.1.1. Những điểm mạnh của con người Việt Nam hiện nay 51
2.1.2. Những hạn chế của con người Việt Nam hiện nay 59
2.1.3. Những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay 68
2.2. Mục tiêu xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh 72
2.2.1. Về đạo đức cách mạng 74
2.2.2. Về trí tuệ, năng lực 78
2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng con ngƣời Việt
Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. 82
2.3.1. Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội ngày càng tốt đẹp 82
2.3.2. Phải chú trọng đến phương pháp nêu gương, thống nhất giữa lời nói và
việc làm, giữa lý luận và kết quả thực tế, phải tạo thành phong trào thi đua để
xây dựng con người mới 89
2.3.3. Hướng mọi người tham gia tích cực vào các phong trào thi đua và lao
động tập thể 90

KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97


1
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


BCHTƯ
: Ban chấp hành trung ương
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
CTQG
: Chính trị Quốc gia
ĐHQG
: Đại học Quốc gia
KTTT
: Kinh tế thị trường
NXB
: Nhà xuất bản
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa




5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa lớn của

nhân loại. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương cao cả cho dân tộc Việt
Nam cũng như nhân loại tiến bộ trên thế giới. Di sản tư tưởng mà Người để lại đã
từng góp phần làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam. Đó là một
hệ thống những quan điển toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả của việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống
dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Nổi bật trong tư tưởng của Người là lòng yêu
nước thương dân, yêu con người sâu sắc. Suốt đời, Người phấn đầu, hy sinh cho
độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng về con người là một trong
những bộ phận quan trọng trong di sản lý luận của Người. Trong công cuộc xây
dựng đất nước, xây dựng con người hiện nay, những tư tưởng của Hồ Chí Minh vẫn
còn nguyên giá trị. Nó gợi mở cho chúng ta nhìn nhận mục tiêu, phương pháp xây
dựng con người trong bối cảnh hiện đại, khi con người Việt Nam được coi vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng CNXH.
Vì vậy, nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ
giúp cho mỗi chúng ta "trong sáng hơn", mà còn có ý nghĩa thiết thực trong công
cuộc xây dựng những phẩm chất cần có của con người Việt Nam hiện nay, đây là
nhân tố tiên quyết để có thể hướng tới mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".
Nhận thức được điều này, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, khi
xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội, Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ trọng tâm của văn hóa là tập trung
xây dựng con người và nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Cương lĩnh của Đảng được thông qua Đại hội VII đã khẳng định: Xã hội XHCN mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội mà con người được giải phóng, nhân dân lao
động làm chủ đất nước; có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện

6
để phát triển toàn diện cá nhân; công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo. Các
nghị quyết Đại hội Đảng sau này càng làm rõ thêm quyết tâm đó.

Trong giai đoạn hiện nay, thế giới chứng kiến những thay đổi mau lẹ của đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội trong xu hướng toàn cầu hóa. Điều kiện để tất cả các
quốc gia phát triển là hội nhập quốc tế trên mọi phương diện đặc biệt trong lĩnh vực
kinh tế, văn hóa và chính trị. Hội nhập quốc tế đem lại cho tất cả các quốc gia
những cơ hội mới những đồng thời nó cũng tạo ra rất nhiều thách thức.
Việt Nam hiện nay đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế. Mục tiêu cơ bản của quá trình này là phấn đấu trong vòng 15-20 năm
tới, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, kinh tế mạnh, tăng trưởng
nhanh và bền vững; xây dựng con người Việt Nam hiện đại, mà trước hết là đội ngũ
những người lao động có kỹ thuật, kỷ luật, có kỹ năng lao động thuần thục, cần phải
nhanh chóng tạo ra một lực lượng tri thức đông về số lượng, mạnh về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đủ sức giải quyết những vấn đề đặt ra về sự phát triển xã hội,
thực hiện thành công sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và thông tin hóa như hiện nay, tầm quan trọng
của nhân tố con người (phi kinh tế) đang gia tăng không ngừng và đã vượt lên cả
những nhân tố kinh tế vì sự chi phối của chúng đối với phát triển mang tính vĩ mô
và dài lâu. Chúng có thể làm thay đổi hoặc làm biến dạng, thậm chí làm phá sản các
kế hoạch dài hạn của chính phủ, một khi trong quá trình xây dựng chiến lược, chính
phủ của các nước đã không nhận thức được đầy đủ sức mạnh của những yếu tố phi
kinh tế đó.
Hơn bao giờ hết, bối cảnh đó đặt lên vai các quốc gia, trong đó có Việt Nam
của chúng ta, để giải quyết những nhiệm vụ quan trọng của đất nước trong bối cảnh
mới chúng ta cần phát huy nhiều yếu tố, nguồn lực trong đó nhân tố con người là
nhân tố quyết định. Như vậy, nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay
là phải xây dựng con người có đạo đức cách mạng, có năng lực trí tuệ vừa đáp ứng
yêu cầu của thời đại, vừa chuyển tải được những khát vọng và bản sắc văn hóa dân
tộc. Muốn có được những con người như vậy chúng ta cần xây dựng con người
mới, muốn xây dựng chúng ta cần đề ra những mục tiêu và giải pháp cụ thể.

7

“Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát
triển sáng tạo ngày càng tỏ rõ giá trị vững bền làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng và của cách mạng nước ta, nhân tố hàng đầu bảo đảm cho
đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng” [21; 42]. Hồ Chí Minh đã dẫn
đường cho dân tộc ta vượt qua những khó khăn thử thách, giành độc lập cho dân
tộc, tự do của nhân dân, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, từng bước đem lại ấm no hạnh
phúc cho đồng bào. Tư tưởng của Người vẫn tiếp tục là ngọn đuốc soi đường để dân
tộc ta vững bước trên con đường tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế,
nâng cao vị thế Việt Nam. Khi nước ta từng bước tiến hành CNH, HĐH, chủ động
mở cửa và hội nhập với khu vực và quốc tế thì hàng loạt thách thức đã nảy sinh
xung quanh việc xử lý vấn đề con người, phát huy vai trò nhân tố con người. Nói
cách khác, hầu hết các vướng mắc trên đường phát triển, đều có nguyên nhân thuộc
về con người – con người Việt Nam sản phẩm tất nhiên và đặc thù của lịch sử Việt
Nam. Việc xây dựng con người mới là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng phát triển, bảo vệ đất nước hiện tại và tương lai.
Từ những yêu cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra như vậy nên tôi quyết định
lựa chọn đề tài:"Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và ý nghĩa của nó đối với
viêc xây dựng con người Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hồ Chí Minh đã đi vào thế giới người hiền, nhân cách của Người được cả thế
giới ngưỡng mộ. Nghiên cứu di sản của Người không chỉ là sự tri ân với một con
người đã có những đóng góp quan trọng trong lịch sử phát triển của con người, mà
còn đáp ứng được yêu cầu có tính thời đại. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh thu hút
được sự quan tâm nghiên cứu không chỉ ở Việt Nam mà cả quốc tế. Một trong
những lĩnh vực được đặc biệt quan tâm là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Đây là
một vấn đề rộng lớn và khó. Nó rộng lớn do tính đa chiều của mối tương quan (với
bản thân, với xã hội, với thiên nhiên), nó khó ở chỗ phải nắm bắt được cái cốt lõi
của hệ giá trị nhân văn - hệ giá trị làm người, nhưng lại được Hồ Chí Minh diễn đạt
thông qua những bài viết ngắn, những buổi nói chuyện, lối sống và mục tiêu lý


8
tưởng của Người. Nhưng dường như Người "hiểu" được cái khó của chúng ta, nên
có lần Người hé mở: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, tư tưởng về con người nói riêng phải bắt đầu từ chiếc chìa khóa này.
Như chúng ta đã biết, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện ở Việt Nam. Chính vì thế, cùng với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay đất nước bước vào thời kỳ
hội nhập quốc tế, bên cạnh những cơ hội chúng ta phải đối mặt với những thách
thức mới. Vậy Đảng ta phải làm gì để chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi
đúng hướng. Điều tiên quyết để chúng ta thực hiện lộ trình đó chính là ở việc kiên
trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hiểu và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Sau Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII (6/1991), lần đầu tiên ở nước ta đã có một Chương trình khoa
học cấp Nhà nước (mã số KX.02) nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiều cuộc
hội thảo khoa học về thân thế, sự nghiệp và tư tưởng của Người được tổ chức ở cấp
độ quốc gia và quốc tế. Có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người là vấn đề trọng tâm. Hồ
Chí Minh luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã
hội và việc xây dựng con người, "trồng người" được Người coi là nhiệm vụ trung
tâm và hàng đầu của cách mạng Việt Nam: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa".
Vấn đề xây dựng con người, phát huy nhân tố con người và phát triển con
người toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh được nhiều học giả quan tâm với nhiều
công trình nghiên cứu có thể phân loại thành các mảng tư liệu cơ bản sau đây:
2.1. Chương trình khoa học cấp Nhà nước
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KHXH 04.01 năm 2005: "Tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa, xây dựng con người" do Giáo sư Đặng Xuân


9
Kỳ chủ nhiệm, đã khái quát hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa (vị trí, chức
năng của văn hóa) và nghiên cứu một cách hệ thống các quan điểm của Hồ Chí
Minh về con người, xây dựng con người.
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX 02-05:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con
người” do PGS. PTS Lê Sĩ Thắng, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc
gia làm chủ nhiệm đề tài.
Đề tài trên đã đi sâu nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người.
2.2. Các công trình dưới dạng sách chuyên khảo
+ "Con người Việt Nam truyền thống - Những giá trị đối với sự phát triển"
do Ths. Đặng Vũ Cảnh Linh làm chủ nhiệm, Nxb Lao động, 2010.
Cuốn sách đã trình bày được cơ sở hình thành những đặc điểm của con người
Việt Nam truyền thống; những đặc trưng và giá trị của con người Việt Nam truyền
thống và vấn đề kế thừa, phát huy giá trị truyền thống của con người Việt Nam vì
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do
Giáo sư Phạm Minh Hạc làm chủ biên, Nxb CTQG, Hà nội, 1996, là một bước tiến
mới về lý luận và thực tiễn, “đặt viên gạch đầu tiên cho ngành khoa học về con
người ở nước ta”.
+ "Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa " Giáo sư Phạm Minh Hạc chủ biên. Nxb CTQG, Hà nội, 2003.
Cuốn sách gồm 9 chương, tập trung trình bày những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh đối với phát triển văn hóa và xây dựng con người; mối quan hệ
giữa văn hóa và phát triển trong thời kỳ mới; phát triển toàn diện con người và xây
dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị mới, một số vấn đề về dân tộc và tôn giáo.
+ "Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người phát triển toàn
diện", PGS. TS Thành Duy, Nxb CTQG, Hà nội, 2002.


10
Trong cuốn sách này tác giả Thành Duy đã đề cập tới những quan điểm cơ
bản về mối quan hệ giữa văn hóa với việc xây dựng con người phát triển toàn diện,
phân tích khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và ý nghĩa của giáo dục
đối với việc đào tạo con người qua đó khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
trong xây dựng con người mới XHCN đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là
trong việc xây dựng con người mới đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp đây mạnh
CNH, HĐH ở Việt Nam.
+ "Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn" của PGS.TS
Phạm Ngọc Anh, Nxb CTQG, Hà nội, 2009.
Trong công trình này tác giả đã đi sâu phân tích tưởng Hồ Chí Minh về các
vấn đề như vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, về vai trò của đạo đức cách mạng và vai trò
của trí tuệ con người công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay.
+ Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục cán bộ đảng viên hiện nay
của Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh (đồng chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.
Cuốn sách đã đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về cơ sở hình thành,
đặc điểm, vị trí và những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Từ
đó khẳng định giá trị và sức sống bền vững của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh
đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ cách mạng đời sau.
+ “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”. Của GS.VS Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001
Cuốn sách là công trình nghiên cứu tâm huyết và công phu về con người
của tác giả suốt 10 năm. Nội dung cuốn sách tập trung trình bày khái quát lịch sử
hình thành và phát triển của ngành khoa học xã hội nghiên cứu con người trên thế
giới và ở Việt Nam; một số kết quả bước đầu trong chương trình nghiên cứu con
người và nguồn nhân lực; một số đề xuất, kiến nghị về chiến lược, chính sách
nhằm phát triển toàn diện con người và nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn

cách mạng hiện nay.

11
Cuốn sách này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn không chỉ là tài liệu
tham khảo đối với người đọc, còn có giá trị với các nhà hoạch định chiến lược, các
nhà khoa học và quản lý công tác giáo dục, đào tạo; khoa học, công nghệ.
+ “Con người và phát triển con người” của PGS.TS Hồ Sĩ Quý (giáo trình
của khoa học Triết học thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn –
Đại học Quốc gia), Nhà xuất bản Giáo dục, 2007. Nội dung giáo trình được chia
làm ba phần:
Phần thứ nhất, là một số vấn đề lý luận về con người và phát triển con
người. Trong phần này, tác giả làm rõ những vấn đề cụ thể như khoa học về con
người, con người và phát triển con người trong quan niệm của chủ nghĩa Mác,
nghiên cứu con người trước nhu cầu của sự phát triển.
Phần thứ hai, là một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu con người. Trong phần này, tác giả giải quyết các vấn đề như con người là
trung tâm theo quan điểm của UNDP (Chương trình Phát triển Liên hợp quốc về
phát triển con người); trình bày những hướng chủ yếu trong nghiên cứu con người.
Phần thứ ba, là xây con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Tác
giả đã chỉ ra sự cần thiết xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH đất nước và nêu lên một số vấn đề thực tiễn trong phát triển con người.
Cuốn sách được coi là giáo trình chính giúp cho sinh viên, học viên cao học
và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết học nghiên cứu chuyên sâu về con người và
phát triển con người một cách hệ thống với những tri thức mới nhất của thế giới.
2.3. Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ
- Lê Quang Hoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát
huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sỹ triết học.
Luận án trình bày một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về con người để
từ đó vận dụng vào việc phát huy nhân tố con người trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.

12
- Nguyễn Thị Thủy (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vận dụng
vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Luận văn
thạc sỹ triết học.
Luận văn trình bày những quan niệm cơ bản của Hồ Chí Minh về con người
và việc vận dụng nó vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
- Trịnh Thanh Mai (2009): Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hóa
thế giới vào xây dựng nền văn hóa dân tộc và vận dụng tư tưởng đó trong phát triển
nền văn hóa nước ta hiện nay - Luận văn thạc sỹ triết học, ĐHQG Hà Nội.
Luận văn trình bày những tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng những
quan điểm đó vào việc phát triển nền văn hóa nước ta hiện nay.
- Lê Thị Hải Hà (2010): Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về phương
pháp xây dựng con người để xây dựng con người ở nước ta hiện nay – Luận văn
thạc sỹ khoa học chính trị Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận văn trình bày những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người và phương pháp xây dựng con người từ đó vận dụng vào việc xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện hiện nay.
2.4. Các bài nghiên cứu đăng trên các Tạp chí chuyên ngành
- Vũ Khiêu: "Trồng cây và trồng người", Tạp chí triết học, số 4/ 1990.
- Nguyễn Tuấn Dũng: "Hồ Chí Minh về chiến lược con người trong cách
mạng Việt Nam", Tạp chí Xây dựng Đảng, 5/2000.
- Phạm Bá Lượng: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc", Tạp chí
Triết học, số 2/ 2005.
- Nguyễn Huy Quý: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con
người xã hội chủ nghĩa", Tạp chí nghiên cứu về con người, 1/ 2002.
- Nguyễn Văn Tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân
tố con người", Tạp chí Triết học, 2/ 2004. và “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

trong tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin” / Nghiên cứu luận, 1994, số 4.

13
- PGS.TS Hồ Sĩ Quý và TS. Nguyễn Anh Tuấn. “Sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người là tiêu chuẩn tối cao
của tiến bộ xã hội”. Bài viết đã phân tích và làm sáng tỏ nhiều quan niệm của Mác –
Ăngghen xung quanh vấn đề con người và phát triển con người.
Qua các công trình trên, các tác giả đã đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí
Minh về các vấn đề như vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, về vai trò của đạo đức cách
mạng và vai trò của trí tuệ con người đối với công cuộc đổi mới và sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước ở nước ta hiện nay.
Xây dựng con người Việt Nam hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh là một yêu cầu bức thiết, tuy nhiên, những công trình nghiên cứu theo hướng
này mà chúng tôi được biết do yêu cầu của mỗi công trình mà các tác giả chưa có
điều kiện tiếp cận một cách có hệ thống về mảng đề tài này. Vì vậy, trên cơ sở kế
thừa những thành quả của những người đi trước tôi quyết định lựa chọn vấn đề "Tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng con
người Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở phân tích nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người, thông qua việc nhận thức thực trạng và yêu cầu đặt ra đối với
việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng con người Việt Nam dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh. Để đạt được mục tiêu đó tác giả cần giải quyết những nhiệm
vụ sau:
Nhiệm vụ:
- Phân tích và luận giải những quan điểm của Hồ Chí Minh về con người;
- Đánh giá thực trạng con người Việt Nam hiện nay và những yêu cầu đặt ra
đối với việc xây dựng con người Việt Nam;

- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng con người
Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.

14
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay; thực trạng xây dựng con người
Việt Nam trong quá trình đổi mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và việc vận dụng nó là vấn đề rộng lớn
và rất khó, vậy nên, trong phạm vi của luận văn này, tôi chỉ có thể tập trung tìm
hiểu những quan niệm cốt lõi nhất và có ảnh hưởng nhất trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người.
Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử như: như lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, trừu
tượng hóa và khái quát hóa, so sánh…v.v
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần vào thực tiễn xây dựng và phát triển con người trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và xây dựng con người.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn góp phần xây dựng bảng giá trị và đề xuất một số biện pháp xây
dựng con người Việt Nam hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn
có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập và nghiên cứu các vấn đề
như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con
người v.v

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương 5 tiết.

15
CHƢƠNG 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƢỜI

1.1. Nguồn gốc tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời
Để hiểu rõ bản chất của bất cứ học thuyết, tư tưởng nào, trước tiên chúng ta
cần phải bắt đầu từ việc tìm hiểu những nguồn gốc hình thành nên học thuyết đó.
Phương cách tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không nằm ngoài quy luật chung
đó. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người là một bộ phận
quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh và gắn bó hữu cơ với các tư tưởng của
Người về cách mạng giải phóng dân tộc, về Nhà nước, về dân chủ, văn hóa, giáo
dục v.v. Vì vậy, việc tìm hiểu nguồn gốc tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người
cũng không nằm ngoài việc khảo sát nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
1.1.1. Bối cảnh thời đại
Con người được giải phóng, được sống trong độc lập, tự do, được ấm no,
hạnh phúc là mục tiêu thấu suốt và nhất quán trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Bối
cảnh của thời đại, nền tảng về văn hóa - tư tưởng cùng với nhân cách Hồ Chí Minh
là những yếu tố đã làm nảy sinh những tư tưởng nhân văn vĩ đại, song cũng rất thực
tiễn của Người.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường.
Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia
phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của
các nước đế quốc.

Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Cách mạng tháng Mười
đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức đã "mở ra trước mắt họ
thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc". Nó làm cho phong
trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải

16
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 3/1919 Quốc tế cộng sản được thành lập, tại Đại hội II của QTCS
(1920), “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
VI.Lênin được công bố. Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra phương hướng đấu
tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức, với thắng lợi của cách mạng tháng Mười
Nga và sự ra đời Quốc tế cộng sản, nhiều Đảng cộng sản trên thế giới được thành
lập. Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây từ năm
1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh
chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành
những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở
rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã thành những
mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
và tay sai phản động. Sự thống trị và áp bức ngày càng tăng đã làm cho mâu thuẫn đó
ngày càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc ngày càng
phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản đều lần lượt nổi lên như phong trào
Cần Vương, Đông Du, Duy Tân v.v. Tuy nhiên do hạn chế lịch sử các phong trào
yêu nước đều thất bại. Mặc dù không thành công nhưng các phong trào đó đã thức
tỉnh, cổ vũ truyền thống yêu nước, chí căm thù giặc Pháp của nhân dân ta, đã gây
tiếng vang trên thế giới và thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục đi lên.

Hồ Chí Minh sinh ra và trưởng thành trong một giai đoạn lịch sử đầy biến
động, chứng kiến những thay đổi lớn lao của thời cuộc, lắng nghe những tiếng rên
siết khổ đau của đồng bào dưới gót giầy của quân xâm lược. Tất cả những điều đó
đã hun đúc lên trong lòng Nguyễn Ái Quốc một tình yêu quê hương đất nước rất sâu
sắc, một ý thức muốn tìm con đường giải phóng dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc
cho đồng bào của mình được Người ấp ủ từ ngày đó.

17
1.1.2. Nguồn gốc văn hóa - tư tưởng
Việt Nam với đặc điểm vị trí địa lý thuận lợi, ở giữa đầu mối của sự giao lưu
văn hóa: Bắc - Nam và Đông Tây nên đã sớm có truyền thống giao lưu và tiếp xúc
văn hóa với các dân tộc khác. Có thể nói, đây là cơ sở thực tiễn đầu tiên để hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Do điều kiện
lịch sử mà sự giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sự
giao lưu, tiếp biến rất dài trong nhiều thời kỳ của lịch sử Việt Nam. Bên cạnh việc
giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa, văn hóa Việt Nam còn giao lưu tiếp
biến với văn hóa Ấn Độ mà nổi bật hơn là sự tiếp nhận các tôn giáo Ấn Độ của
người Việt là đạo Phật và đạo Bàlamôn. Người Việt đã dễ dàng thích ứng và tiếp
biến đạo Phật một cách dung dị vào cơ tầng văn hóa bản địa, bởi Phật giáo vốn có
tinh thần bình đẳng và bác ái, không phân biệt đẳng cấp.
Ngoài ra, văn hóa Việt Nam còn có sự giao lưu và tiếp biến với văn hóa
phương Tây. Sự giao lưu và tiếp xúc này bắt đầu từ thế kỷ XVI thông qua con
đường truyền giáo của các linh mục phương Tây và nó thực sự diễn ra mạnh mẽ khi
thực dân Pháp xâm lược và đặt ách cai trị lên đất nước ta.
Trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc,
tiếp thu, cải biến nhiều cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng
của mình.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một bối cảnh sự giao lưu và tiếp xúc giữa văn hóa
Việt Nam với các nước khác trên thế giới diễn ra hết sức mạnh mẽ. Bản thân Hồ
Chí Minh cũng được thừa hưởng những thành quả của cuộc tiếp xúc, giao lưu đó

đem lại. Trong tư tưởng của Người, ta thấy có sự kết hợp hài hòa giữa nét sâu sắc
của phương Đông với tính chất khoa học, duy lý, hiện đại của phương Tây.
Văn hóa phương Đông
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã hấp
thụ một nền Hán học và Quốc học khá vững vàng. Người tiếp thu tư tưởng Nho
giáo từ rất sớm. Triết lý và đạo đức Khổng Mạnh qua các sách kinh điển của Nho
giáo đã giúp Người thấm nhuần tinh thần "nhân nghĩa", đạo "tu thân" sự ham học

18
hỏi, đức khiêm tốn, "ôn hòa", cách xử thế có tình có lý. Tuy nhiên, "ta bắt gặp trong
thực tế một thứ Nho giáo không thuần nhất đã luôn luôn dung hợp với tư tưởng Âm
dương, Phật Đạo, lại kết hợp với tín ngưỡng, tập quán, tư tưởng địa phương nên khi
tác động đến từng mặt của đời sống ở Việt Nam thì sắc thái Nho giáo của nó không
nguyên vẹn mà đậm nhạt khác nhau" [94; 84].
Những tác động cơ bản của Nho giáo đến tư tưởng Hồ Chí Minh là:
Thứ nhất, đó là tinh thần "tu thân" trong lôgic tu thân - tề gia - trị quốc bình
thiên hạ.
Có thể nói "trong phong cách, phẩm cách và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh có nhiều yếu tố của Nho giáo dung hòa nhuần nhuyễn với những truyền thống
ưu tú của dân tộc" [87; 28]. Trên cơ sở quan điểm triết học, mục tiêu hoạt động và
lập trường duy vật biện chứng, xuất phát từ chủ nghĩa yên nước Việt Nam, nhất là
giá trị lòng nhân ái với các nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ, Hồ
Chí Minh đã tiếp thu một số giá trị tu dưỡng đạo đức cá nhân trong học thuyết
Khổng Tử nói riêng và Nho giáo nói chung. Chẳng hạn, Người đặt vấn đề trước tiên
phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, trên cơ sở đó xây dựng đạo đức cách mạng, hay
"muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa" và
"vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Đối với Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức
cá nhân là sự kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp biến cả giá trị
Nho giáo Trung Hoa với tính cách là gốc của đạo làm người, đạo đức Hồ Chí Minh
quan tâm xây dựng chủ yếu ở những giá trị nền tảng của nó làm luân lý như "trung

hiếu", "tình nghĩa", "nhân nghĩa", "Tứ hải giai huynh đệ", "dân vi quí, xa tắc thứ
chi, quân vi khinh", tôn trọng phụ nữ v.v và mọi hoạt động thực tiễn đều xuất
phát và hướng vào mục đích làm người. "Hồ Chí Minh đã tiếp thu khá nhiều những
ý kiến của Khổng Mạnh về đạo đức, nhưng đối với đạo đức Khổng Mạnh, Hồ Chí
Minh lại có nhiều điểm khác nhau về căn bản" [39 ; 99].
Thứ hai, đó là ý thức kết hợp đạo đức với chính trị. GS. Nguyễn Đình Chú
trong bài viết: “Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Nho giáo” có viết: "Theo tôi
hiểu, Nho giáo trong phần chân chính và cũng là cái cốt lõi nhất của nó là một học

19
thuyết đạo đức trước khi là một học thuyết chính trị và về chính trị thì Nho giáo
cũng là một học thuyết muốn đặt đức trị lên hàng đầu chứ không phải là một học
thuyết chính trị đơn thuần. Đọc kỹ Khổng - Mạnh ta thấy rõ điều đó Tìm hiểu
sâu vào phong cách chính trị của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ta cũng thấy
điều đó" [39 ; 88-89]
Khi tiếp thu, sử dụng những yếu tố tích cực của học thuyết Nho giáo, Hồ Chí
Minh đã nhận ra những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết này. Hồ Chí Minh chỉ
rõ những hạn chế thể hiện lập trường giai cấp của Khổng Tử, nhưng do điều kiện lịch
sử quy định và Khổng Tử không thể vượt qua thời đại của mình. Vì vậy, những hạn
chế mang tính khách quan đó khi tiếp nhận chúng ta cần biết chọn lọc, loại bỏ nó cho
phù hợp vì "người ta không thể nhảy qua thời đại của mình như nhảy qua cửa sổ
được" (Phơ bach). Trên lập trường duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã kế thừa
những giá trị nền tảng tốt đẹp của Nho giáo, đồng thời cũng loại bỏ đi những yếu tố
tiêu cực của nó để đi đến khẳng định: "Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều,
Đạo đức cũ như đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời" [8; 320-321]
Thật vậy, "Hồ Chí Minh đã từ trên cơ sở học thuyết cộng sản mà phát huy
truyền thống Nho gia, do có những tri thức Nho giáo uyên thâm nên Bác càng tinh
thông học thuyết cộng sản" [80; 7]
Ngoài tiếp thu những tư tưởng về con người như: tư tưởng lấy dân làm gốc,

tư tưởng tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, tư tưởng giáo dục, làm gương…của
Nho giáo, Hồ Chí Minh còn tiếp thu những tư tưởng biện chứng phương Đông
chẳng hạn như: luật quân bình, phản phục v.v của Đạo giáo. Những tư tưởng nhân
đạo của Phật giáo đó là: Từ bi, hỉ xả, bình đẳng, cứu khổ, cứu nạn, những tư tưởng
này đã có ý nghĩa tích cực trong việc khuyên con người tu nhân tích đức, tránh cái
ác, trau dồi cái thiện.
Như vậy, nền văn hóa phương Đông chú ý nhiều đến vấn đề nhận thức luận
hơn vấn đề bản thể luận, đi sâu vào việc nhận thức con người và các giá trị làm
người, chú ý đến các điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người, con người

20
sống hòa mình với tự nhiên… Tất cả những tư tưởng của nền minh triết phương
Đông đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh và nó được coi là một trong
những nguồn gốc cơ bản trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh đã đi sâu tìm hiểu lịch sử phát triển của phương Tây về mọi
mặt, nhất là tư tưởng về giải phóng con người. Bởi, ngay từ khi còn nhỏ, những tư
tưởng về tự do, dân quyền, dân ước, dân chủ, bác ái có sức hấp dẫn đặc biệt với
Người. Người nhớ lại: "Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên nghe tới ba chữ Pháp: tự do,
bình đẳng, bác ái và từ thuở ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn
tìm hiểu những gì ẩn sau những chữ ấy" [56; 477].
Bắt đầu từ năm 1905, Hồ Chí Minh vào trường tiểu học bản xứ Pháp - Việt;
đây là trường tiểu học do thực dân Pháp mở để dạy tiếng Pháp và chữ quốc ngữ với
mục đích đào tạo những "công chức bản xứ" phục vụ lợi ích cho chúng. Chính từ
môi trường này, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa phương
Tây, cho dù mới chỉ là sự tiếp xúc, tìm hiểu những giá trị cơ bản nhưng đó lại là cơ
sở để sau này Hồ Chí Minh tiếp tục tìm hiểu, khám phá và tiếp thu trong quá trình
đi tìm đường cứu nước sau này.
Từ ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước
cho dân tộc. Cuộc hành trình trong nhiều năm, qua năm châu bốn biển, đặt chân tới

những nước Âu, Phi, Mỹ, là một trường học lớn để Hồ Chí Minh tìm hiểu, nhận xét,
đánh giá và học tập. Đó cũng là một quá trình chọn lọc, tiếp nhận tinh hoa văn hóa
phương Tây, trước hết là lý tưởng cách mạng dân chủ tự do, tiến bộ với một tầm
nhìn và tấm lòng rộng mở. Kinh nghiệm thực tiễn và vốn sống trực tiếp trải nghiệm
mà Người có được trong 30 năm ở nước ngoài, đi qua hơn 40 nước khác nhau chủ
yếu ở những trung tâm Châu Âu, Nguyễn Ái Quốc có đủ thời gian và điều kiện để
tiếp nhận những gì cần cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình và của các dân
tộc cùng cảnh ngộ. Do tiếp xúc với nhiều hạng người, nhất là những người lao động
nghèo khổ đã cho Nguyễn Ái Quốc thấu hiểu cuộc đời và thấu cảm những cảnh
ngộ, những số phận con người khác nhau trên thế giới. Nhờ thế mà trong tư tưởng
của Người luôn chứa đựng và thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc và vô cùng tinh tế.

21
Người đã tiếp thu những tư tưởng lớn ở phương Tây để từ đó nhìn lại những thành
tựu của văn hóa phương Đông. Trong khi nhiều học giả phương Đông nêu cao tinh
thần từ bi của nhà Phật và chữ Nhân của Khổng Tử, từ đó đi đến kết luận rằng
phương Tây chỉ trọng trí, còn phương Đông thì trọng tình. Khác với những quan
niệm phiến diện đã có trước đó Hồ Chí Minh cho rằng cả phương Đông và phương
Tây đều trọng cả trí, cả tình. Nhưng Hồ Chí Minh cũng phê phán mặt hạn chế của tư
tưởng phương Tây về văn hóa và con người, về sự phản bội của chủ nghĩa tư bản độc
quyền, của chủ nghĩa đế quốc thực dân đối với lý tưởng của cách mạng tư sản. Người
nhận thấy những tư tưởng "tự do", "bình đẳng" "bác ái" trong cách mạng tư sản Pháp
(1789) và tư tưởng quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ trong tuyên ngôn độc lập
của Hoa Kỳ (1776) mang tính hạn chế lịch sử của những cuộc "cách mạng không đến
nơi, không triệt để, trong thì tước lục công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa" cho nên
những tư tưởng tốt đẹp ấy chỉ dừng lại ở khẩu hiệu.
Đồng thời, trong thời gian sống dài ngày ở châu Âu đã để lại cho Người
nhiều ấn tượng và bài học sâu sắc trên hành trình tìm đường cứu nước.
Chủ nghĩa nhân văn, tư tưởng tự do - bình đẳng - bác ái trong các tác
phẩm của thời Phục hưng của thế kỷ Ánh sáng, của các nhà văn nổi tiếng như

Vônte, Điđrô, Môngtétxkiơ, J.Rútxơ và những tư tưởng mới mẻ của Đại cách
mạng tư sản Pháp năm 1789 đã đem lại cho Nguyễn Ái Quốc những kiến thức bổ
ích. Người đã kế thừa những tư tưởng này, tôn trọng con người, nâng niu các giá
trị làm người đề cao dân chủ. "Cụ Hồ không phải là người dân tộc chủ nghĩa hẹp
hòi mà Cụ là một người yêu mến văn hóa Pháp trong khi chống thực dân Pháp,
một con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ
phá hoại đất nước của Cụ" [81; 115].
Từ tấm lòng yêu nước, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, cơ sở lý luận quan trọng nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là "học thuyết cách mệnh nhất, chắc chắn nhất, chân chính
nhất". Ở chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh nhận thấy ưu điểm nổi bật là "phương pháp
làm việc biện chứng", giá trị nhân đạo sâu sắc là "giải phóng con người".

22
Người thấy rằng: Học thuyết mác xít về con người bao gồm nhiều nội dung,
song điểm nổi bật nhất là vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải
phóng con người. Mác - Ănggen đã đưa ra hai quan niệm có tính chất điều kiện cho
sự giải phóng con người trong "Hệ tư tưởng Đức" (1845 - 1846) như sau:
Một là, khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Do đó, giải phóng
con người bắt đầu từ giải phóng các điều kiện của tồn tại xã hội qua đó giải phóng
tinh thần, tư tưởng con người đang hành động hiện thực và cũng chính là xuất phát
từ quá trình đời sống hiện thực của họ [75; 277]
Hai là, Mác và Ănggen đã phân tích mối quan hệ giữa phân công lao động
với chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, làm xuất hiện các mâu thuẫn xã hội. Quá
trình xuất hiện các hình thức sở hữu tư nhân khác tương ứng với sự phân công lao
động và sự phát triển của nền sản xuất cho thấy mâu thuẫn giữa sự phát triển của
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguyên nhân xét đến cùng quyết định mâu
thuẫn xã hội. Giải phóng con người trong xã hội tư bản chính là giải phóng giai cấp
công nhân, tư tưởng này được khẳng định trong tác phẩm "Sự khốn cùng của triết
học" (1846 - 1847). Mác viết "điều kiện giải phóng của giai cấp lao động, đó là xoá

bỏ mọi giai cấp" [75; 410].
Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đoàn kết ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm
vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ
những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản
những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau" [56; 467].
Chủ nghĩa xã hội khoa học về thực chất là một học thuyết về giải phóng
con người, là giải phóng giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội
khoa học với các trào lưu xã hội chủ nghĩa khác là ở chỗ: Nó đặt lên hàng đầu
việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và phương thức thực hiện nó
là bằng bạo lực cách mạng.

23
Cơ sở lý luận tư tưởng đó, theo Mác - Ăngghen, chính là việc phát hiện ra
chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư của Mác, nhờ đó chủ nghĩa
xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, giải phóng con người trong xã hội hiện
đại được đặt trên cơ sở của sự giải phóng giai cấp. Việc giải phóng tất cả các giai
cấp trong xã hội hiện đại được quy vào giải phóng giai cấp vô sản, vì giai cấp vô
sản là biểu hiện tập trung những mâu thuẫn thời đại. Giai cấp vô sản chỉ có thể được
giải phóng khi nó giải phóng toàn thể nhân loại.
Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin được coi là vũ khí lý luận của giai cấp công
nhân, chỉ ra con đường và cách thức để họ có thể tự giải phóng mình và giải phóng
toàn thể nhân dân lao động trên thế giới.
Sự gặp gỡ của Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa Lênin là một cuộc gặp lịch sử.
tháng 7 năm 1920, trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc được đọc tác phẩm: "Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, đăng
trên báo Nhân đạo (L'Humanité) của Đảng Xã hội Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh hồi
tưởng: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin

tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên". Ngồi một mình mà Người đã nói
to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta". Con
đường giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản thực
dân Pháp và chế độ phong kiến - đó là con đường cách mạng vô sản. Tại Đại hội
Tua của Đảng Xã hội Pháp cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Từ một người yêu nước trở thành người cộng sản là kết quả của sự tác động
biện chứng giữa mối quan hệ cá nhân với dân tộc và thời đại trong con người Hồ
Chí Minh. Nhờ phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã hấp
thụ những yếu tố tích cực, kết hợp chặt chẽ những yếu tố ấy để chuyển hoá và tạo
nên tư tưởng của mình. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong
phú chủ nghĩa Mác - Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập,
tự do và xây dựng xã hội mới. Và có thể nói "Hồ Chí Minh tiếp biến tinh hoa văn

24
hóa Phương Đông - Phương Tây trên cơ sở triết học. Mục tiêu hoạt động và lập
trường duy vật biện chứng" [1; 51] để nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản cho
cách mạng Việt Nam.
1.1.3. Nhân tố chủ quan
Có thể nói rằng khi nhắc đến những nguồn gốc hình thành nên tư tưởng Hồ
Chí Minh thì chúng ta không thể bỏ qua nhân tố chủ quan đó là nhân cách Hồ Chí
Minh. Một nhân tố vô cùng quan trọng góp phần tạo nên những giá trị khác biệt
trong tư tưởng Hồ Chí Minh với những hệ thống tư tưởng khác trong lịch sử.
Những di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ sống mãi với thời gian, với cuộc đấu
tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, cho quyền được
sống và được hưởng tự do hạnh phúc của các dân tộc, của mỗi con người. Sự
nghiệp của Người, ham muốn tột bậc của Người là dành trọn cuộc đời mình cho
dân, cho nước, cho cách mạng. Đó là sự nghiệp của một bậc đại trí, đại nhân, đại
dũng, vĩ đại và cao thượng.

Hồ Chí Minh là một con người có một trí tuệ uyên bác và có một cái nhìn
biện chứng, sáng tạo, là một vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam.
"Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn với trí tuệ sâu sắc, uyên bác, với tư tuy
độc lập sáng tạo mà những học giả tiêu biểu trên thế giới cũng phải ngạc nhiên với
vốn sống kinh nghiệm phong phú mà Người đã trực tiếp nếm trải trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng trên sáu thập kỷ" [7; 72-173].
Khi chứng kiến những thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, thầy giáo Nguyễn Tất Thành nhận ra rằng muốn đánh đuổi được kẻ
thù thì trước tiên phải hiểu được kẻ thù. Chính vì thế, Người rất muốn sang Pháp để
xem đằng sau những chữ "tự do, bình đẳng, bác ái" là cái gì, đó có phải là một nền
dân chủ thực sự không hay chỉ là một nền dân chủ giả hiệu. Đồng thời, Nguyễn Ái
Quốc cũng nhận thấy không thể ảo tưởng vào cái gọi là "khai hóa văn minh" của
chính quyền thực dân, cùng những chính sách của nó ở thuộc địa. Trong một lần nói
chuyện với nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc nói: "Nếu Bác luôn tin
cậy vào sự quan tâm của chính phủ thực dân để cải thiện mọi tình trạng hiện nay, thì
Bác sẽ phải đợi đến muôn đời" [94; 23]

25
"Nêru (Ấn Độ) và Tôn Dật Tiên (Trung Quốc) đã từng tiếp cận với tư tưởng
của Lênin và cách mạng tháng Mười Nga. Nêru khi tiếp cận tư tưởng mácxít thấy
nó phù hợp với tình hình hiện tại của tri thức khoa học và thấy sự phân tích của Mác
về phát triển xã hội là đúng đắn. Tuy nhiên, các ông chỉ nghiên cứu chủ nghĩa Mác -
Lênin như một tri thức mới, có tính chất học thuật thuần túy" [94; 23]. Sau này, khi
đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người phương Đông
đầu tiên áp dụng chủ nghĩa Mác để giải phóng xã hội. Muốn giải phóng xã hội phải
có đấu tranh giai cấp - tư tưởng này của Lênin được Hồ Chí Minh tiếp thu một cách
sáng tạo, khác với một số nhà yêu nước phương Đông giải phóng xã hội bằng con
đường đạo đức - tôn giáo.
Hồ Chí Minh luôn đặc biệt nhấn mạnh vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác -
Lênin quết định đến những thành công của cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh khẳng định: "Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn
cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng công nông làm gốc, phải có Đảng
vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là theo chủ nghĩa
Mã Khắc Tư và Lênin" [42; 4]. Mặc dù luôn khẳng định vai trò của cách mạng Nga
và chủ nghĩa Mác với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta
rằng chủ nghĩa Mác được ra đời trên cơ sở của xã hội phương Tây, mà phương Tây
có nghĩa đó không phải là toàn thế giới. Chính vì thế khi vận dụng học thuyết này
chúng ta cần phải tính đến những khác biệt về văn hóa, địa lý, kinh tế, lịch sử của
các quốc gia châu Á mà cụ thể là Việt Nam để vận dụng cho phù hợp.
Nét đắc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh khác với Lênin ở chỗ: Nếu Lênin
đặt vấn đề giai cấp trong phạm vi toàn cầu thì Hồ Chí Minh đặt vấn đề giai cấp
trong vấn đề dân tộc. Hồ Chí Minh đem tinh hoa giai cấp ở những nước công
nghiệp phát triển để giải quyết vấn đề dân tộc của nước mình. Chính vì thế mà Hồ
Chí Minh đã thành công trong việc giải quyết vấn đề dân tộc cũng như vấn đề giai
cấp trong một quốc gia nghèo nàn lạc hậu. Hồ Chí Minh nhận thức vấn đề thời đại
là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội mà hạt nhân hợp lý của nó là dân tộc
gắn với giai cấp. Sự tác động qua lại giữa thời đại - dân tộc - giai cấp là vấn đề mà
Hồ Chí Minh không bao giờ bóc tách ra.

×