Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SKKN: Một số biện pháp rèn kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.94 KB, 10 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NHẬN BIẾT
BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH CHO HỌC SINH LỚP 3.
I. Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của
cộng đồng các dân tộc sống trên đất nướcViệt Nam. Bởi thế, dạy Tiếng Việt có vai trò
cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của mỗi con người.Những
thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội văn hóa giáo dục, thành tựu khoa
học đều có liên quan đến việc dạy Tiếng Việt mà trong đó biện pháp tu từ so sánh
góp một phần không nhỏ để làm nên điều đó .
Mặt khác, so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ
làm nên một hình thức miêu tả sinh động, so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ
ràng, cụ thể, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm.Có ai sinh ra mà không biết rằng:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Chỉ cần sử dụng biện pháp tu từ so sánh trong câu ca dao trên, tâm tư tình cảm
của con người sẽ được bộc lộ một cách kín đáo và tế nhị. Nó gởi gắm vào đó cả một
niềm tâm sự thầm kín. Đối với tác phẩm văn học nói chung, so sánh mang chức năng
nhận thức và biểu cảm.
Nhờ những hình ảnh bóng bẩy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm
diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến trong thơ ca,
đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. So sánh tu từ giúp các em hiểu và cảm nhận được
những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri thức làm phong phú về tâm
hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu quý Tiếng Việt giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt cho học sinh.
Biện pháp nghệ thuật so sánh đã chính thức đưa vào phân môn Luyên từ và câu
lớp 3. Điều đó cũng khẳng định vai trò trách nhiệm của mỗi giáo viên trong việc hình
thành cho học sinh kĩ năng nhận biết và sử dụng. Giúp học sinh phát triển kĩ năng
giao tiếp, tạo điều kiện để học sinh phát triển một cách toàn diện đồng thời giúp giáo
viên có được các phương pháp rèn luyện học sinh về kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ
so sánh. Đó chính là mục đích của chuyên đề này.
II. Thực trạng:


Thuận lợi:
a.Giáo viên:
- Đa số GV vận dụng khá tốt việc đổi mới phương pháp dạy học, thường xuyên
nghiên cứu, nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh. Sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung chương
trình.
b. Học sinh:
-Học sinh có đầy đủ SGK và đồ dùng học tập.
-Đa số các em chăm học.


Khó khăn
Học sinh:

1

Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực
quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế. Vốn kiến thức văn học
của học sinh còn nghèo.Một số em chưa có khả năng nhận biết về nghệ thuật, học
sinh chỉ mới biết các sự vật một cách cụ thể. Nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh
tu từ rất khó khăn. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn một cách tỉ mỉ thực
tế.
III. Nội dung chương trình:
Để phục vụ cho nội dung viết chuyên đề, tôi thống kê phân tích các hướng
nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn: "Luyện từ và câu" của chương trình
SGK lớp 3 phục vụ cho việc giảng dạy.
Kiến thức về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở
phân môn: "Luyện từ và câu". Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã dạy về so
sánh gồm 8 bài ở các tuần: Tuần 1,3,5,7, 10,12,15 và tuần ôn tập 18.
IV. Những biện pháp cụ thể:

1/ Dạy đúng quy trình :
Để học sinh học tốt dạng bài tu từ so sánh. Bất cứ một bài tập nào, GV cần làm
theo các yêu cầu sau:
- Đọc kỹ đề bài
- Xác định đúng yêu cầu của bài
- Phân tích yêu cầu của bài
- Học sinh làm bài
- So sánh đối chiếu kết quả của học sinh với đáp án (HS phải lí giải được đáp án
của mình )
- GV phải giải thích cho học sinh rõ vì sao có đáp án đó.
*Ví dụ : Bài tập 2(Trang 8/SGK): Tìm sự vật được so sánh trong khổ thơ sau:
Ơ cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ nghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe
- Giáo viên yêu cầu HS đọc yêu cầu của đề.
- Giải thích cho học sinh hiểu từ ngữ chỉ sự vật.
- HS gạch chân bằng bút chì từ chỉ sự vật vào SGK.
- Học sinh trình bày,giáo viên có thể hỏi vì sao để học sinh giải thích lí do tại sao
em chọn từ đó.
- Giáo viên đưa ra đáp án
Sự vật so sánh
Từ so sánh
Sự vật so sánh
Cái dấu hỏi
như
vành tai nhỏ


+ Giáo viên có thể vẽ lên bảng hoặc giải thích cho học sinh hiểu Dấu hỏi cong

cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có thể
cho học sinh nhìn vào vành tai bạn).
2/ Dạy biện pháp so sánh tích hợp vào các phân môn tiếng việt:
2
* Tích hợp trong phân môn Tập đọc:
Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt, giáo viên cần lồng ghép giữa
các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay em" SGK Tiếng Việt 3 tập I (Trang
7).Trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để gây
hứng thú cho tiết tiếp theo của môn: "Luyện từ và câu". Giáo viên có thể cho học sinh
tìm các câu thơ có sử dụng biện pháp tu từ so sánh .
Ví dụ 2 : Khi dạy bài Tập đọc “Cửa Tùng ”,để giải thích từ ngữ (chiếc thau
đồng, bờ biển Cửa Tùng) GV có thể cho học sinh tìm câu văn có sử dụng biện pháp
so sánh.Học sinh sẽ rất dễ dàng tìm ra câu :
- Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển.
- Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào
mái tóc bạch kim của sóng biển.
Với những câu văn hay như thế, học sinh đã tìm được thì sẽ nhớ rất lâu và sẽ áp
dụng tốt trong việc viết văn của nình.
3/ Dạy theo mô hình :
Bài tập về so sánh lớp 3 được chia làm 2 dạng:
-Dạng 1: Bài tập theo mẫu (Bài tập nhận biết ).Trọng tâm
-Dạng 2: Bài tập sáng tạo ( Bài tập vận dụng )
*Dạng 1 : Giúp học sinh nhận biết các từ chỉ sự vật so sánh. Dạng bài tập này rất
đơn giản. Chủ yếu là nhận biết các sự vật so sánh thông qua các bài tập. Dạng này
chiếm đa số trong chương trình. Nó được xây dựng dựa trên 4 mô hình sau:
a) Mô hình 1: So sánh: Sự vật - Sự vật.
b) Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người.
c) Mô hình 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
d) Mô hình 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh.

Muốn học sinh của mình có một kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh vững
vàng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn bài mới. Dựa vào các
mô hình như ta vừa phân tích .
a) Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật:
Mô hình này cách nhận dạng rất dễ vì trong câu thường xuất hiện các từ so sánh
(như, là , giống , tựa, chẳng bằng ...)
Mô hình này có các dạng sau:
A như B.
A là B.


A chẳng bằng B
Tìm hiểu dạng A như B
Dạng này đã xuất hiện ở các bài tập đầu tiên của chương trình và xuyên suốt đến
cuối chương.
*Ví dụ: Bài 2( SGK trang 8): Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn
dưới đây:
3
"Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành"
(Huy Cận)
"Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
(Vũ Tú Nam)
"Cánh diều như dấu á
Ai vừa tung lên trời"
(Phạm Như Hà)
Để làm tốt bài tập này, học sinh phải phát hiện các từ chỉ sự vật được so sánh từ
đó học sinh sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ câu văn trên.
Có 2 phương án
Phương án 1: Gạch chân các từ chỉ sự vật so sánh trong các câu trên bằng bút

chì vào SGK
Phương án 2: Giáo viên phát phiếu học tập nhóm đôi. Các nhóm điền vào phiếu
Câu
Sự vật 1
Từ so sánh
Sự vật 2
a)
Hai bàn tay
như
hoa đầu cành
b)
Mặt biển
như
tấm thảm khổng lồ
c)
Cánh diều
như
dấu “ á”
Học sinh trình bày :
+ "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành"
+ "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ".
+ "Cánh diều" so sánh với "dấu á"
+ "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ".
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với
"Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó giáo
viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống
nhau, chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.

(Giáo viên có thể vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á")


Tìm hiểu dạng A là B: Dạng này học sinh rất dễ nhầm lẫn giữa câu so sánh với
câu giới thiệu. Bởi lẽ, cả 2 kiểu câu này đều có từ “ là ”.
Ví dụ :(Bài 1c, d trang 24, 25/SGK): Tìm các hình ảnh so sánh trong câu :
c/ Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh
Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung
d) Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng .
Trong trường hợp này, cần phải cho học sinh xác định từ chỉ sự vật trong
câu thơ : ( trời mùa đông – tủ ướp lạnh ), ( trời mùa hè – bếp lò nung)
Giáo viên giải thích cho học sinh điểm tương đồng giữa các từ chỉ sự vật được so
sánh .
-Trời mùa đông lạnh như cái tủ ướp lạnh
-Trời mùa hè nóng như bếp lửa lò nung
Trong câu: Mẹ tôi là giáo viên (từ là có tác dụng giới thiệu.Trong trường hợp
này, học sinh phải hiểu nghĩa của từ và của câu )
b) Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người.
Dạng của mô hình so sánh này là:
Dạng A như B: + A có thể là con người.
+ B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Ví dụ: Bài tập 1/trang 58: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây:
"Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan."
(Hồ Chí Minh)
"Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng."
(Võ Thanh An)

Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người nhưng
các em chưa giải thích được"Vì sao?". Chính vì điều đó giáo viên giúp học sinh tìm
được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn:
"Trẻ em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi non đang
phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng.
"Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển đến độ
già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng.
Dạng A là B:
Ví dụ : Bài tập 1/ trang 42,43( phương pháp dạy như mô hình 1)
“Ông

buổi trời chiều
Sự vật 1
Sự vật 2
(người)
(Sự vật )


Cháu
Sự vật 1
( người )



ngày rạng sáng"
Sự vật 2
( Sự vật )

Dạng A chẳng bằng B:
Ví dụ: Bài tập 1c/trang 43 : Tìm các hình ảnh so sánh trong câu :

Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
Trần Quốc Minh
Dạng bài tập này chỉ cần học sinh thực hiện được hai yêu cầu :
- Xác định sự vật so sánh ( ngôi sao - mẹ ) , ( mẹ - ngọn gió )
- Xác định từ so sánh ( Chẳng bằng , là )
Xác định được hai yêu cầu trên là học sinh đã xác định được hình ảnh so sánh
c)Mô hình 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
Mô hình này có dạng như sau:
+ A như B.
* Ví dụ bài tập 2 /trang 98 : Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào
được so sánh với nhau:
"Con trâu đen lông mượt
Cái sừng nó vênh vênh
Nó cao lớn lênh khênh
Chân đi như đạp đất"
(Trần Đăng Khoa)
"Cau cao, cao mãi
Tàu vươn giữa trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi"
(Ngô Viết Dinh)
Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó học
sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn:
+ Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như".
+ Hoạt động “Vươn” của tàu lá dừa giống hoạt động “ vẫy” tay của con người
d) Mô hình 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh:
-Mô hình này có dạng sau:

A như B: + A là âm thanh thứ 1.
+ B là âm thanh thứ 2.


Ví dụ: (Bài tập 2 trang117): Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong
mỗi câu thơ văn dưới đây:
Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và
âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn:
"Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai"
(Nguyễn Trãi)
Âm thanh của "Tiếng suối" được so sánh với âm thanh của "Tiếng đàn cầm"
qua từ "như".
*Dạng 2 : Bài tập sáng tạo
Mục tiêu: Giúp học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh.
Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng tạo cao hơn. Tuy nhiên, dạng bài tập này
trong SGK rất ít .Nó tập trung ở cuối chương trình HKI gồm 2 bài tập.
*Nhìn tranh đặt câu có hình ảnh so sánh:
Tương tự Bài tập 3/SGKtrang126: Ta có thể đưa ra bài tập sau :
Ví dụ : Quan sát từng cặp tranh rồi viết các câu có hình ảnh so sánh.


- Trăng tròn như quả bóng.
- Bé cười tươi như hoa.
- Đèn điện sáng như sao .
- Đất nước ta cong cong như hình chữ S.
*Dạng bài tập điền khuyết :
Ví dụ : Bài tập 4 / SGK trang 126: Tìm những từ ngữ thích hợp để điền vào
chỗ trống :
a) Công cha nghĩa mẹ được so sánh như..., như...

b) Trời mưa, đường đất sét trơn như...
c) Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như ....
Ở mỗi câu, giáo viên nên để học sinh xác định sự vật đã cho để cho học sinh có
thể tìm nhiều từ cần điền.
Ví dụ : a) như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy ra, như sông như biển.
b)như bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu ...
c) núi, những ngọn tháp ...
Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong quá trình dạy, nhất là các tiết
Tiếng Việt (Tiết luyện) Giáo viên nên đưa thêm những bài tập tương tự hai dạng trên
để học sinh khắc sâu kiến thức.
Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh:
Ngang bằng và hơn kém. Kiểu so sánh này thường gặp các từ so sánh như :
Tựa, giống, giống như, không thua, không khác, bằng (So sánh ngang bằng) và các từ
hơn, kém, thua, chẳng bằng (so sánh hơn kém ).
Chẳng hạn bài: So sánh (Tiếng việt 3 tập 1 trang 43)
+ Trong câu: “Cháu khỏe hơn ông nhiều !”
(Phạm Cúc)
*Kiểu so sánh hơn kém.
+ Trong câu: “Ông là buổi trời chiều
Cháu là ngày rạng sáng.”
(Phạm Cúc)
*Kiểu so sánh ngang bằng.
+ Trong câu: “Trăng khuya sáng hơn đèn.”
(Trần Đăng Khoa)
*Kiểu so sánh hơn kém.
+ Trong câu: "Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con"
(Trần Quốc Minh)
*Kiểu so sánh hơn kém.
+Trong câu: “Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.”

(Trần Quốc Minh)


*Kiểu so sánh ngang bằng.
4/Trò chơi học tập: Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đó chơi là phương tiện, học
là mục đích.Thông qua hình thức chơi mà học,học sinh sẽ được hoạt động , tự củng cố
kiến thức.Tuy nhiên, muốn tổ chức trò chơi có hiệu quả cần xác định mục đích của trò
chơi, hình thức chơi cũng phải đa dạng, cách chơi cần phải đơn giản, dễ hiểu.
Ví dụ : Trò chơi “ Cánh hoa bí mật ”
1.Mục đích:
-Rèn kĩ năng, củng cố kiến thức cho học sinh.
2.Cách thực hiện:
-GV nêu tên trò chơi.
-Hướng dẫn cách chơi.
-Học sinh thực hiện
-Nhận xét kết quả
-Nhận xét – tuyên dương
V.Kết luận:
*Qua các giải pháp rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp
3. Bản thân tôi thấy cần hướng và rèn cho học sinh những kỹ năng sau:
* Về phía học sinh:
- Chuẩn bị kĩ bài trước khi đến lớp .
- Học sinh tự củng cố vốn kiến thức của mình bằng cách đọc nhiều sách báo phù
hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh...
-Cho học sinh giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, sau mỗi bài học “Luyện
từ và câu" dạng này để học sinh khắc sâu kiến thức.
- Khi làm bài tập yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài,
phân biệt được chúng thuộc kiểu bài so sánh dạng nào rồi mới bắt tay vào làm bài.
- Khi quan sát sự vật, cần quan sát thận tinh tế để tìm ra những điểm giống nhau,
những nét tương đồng.

* Về phía giáo viên :
- Sau mỗi bài học, giáo viên phải dành thời gian cho phần dặn dò bài sau thật cụ
thể.Có như vậy học sinh mới chuẩn bị tốt bài mới .
- Luôn có sự kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh. Nhận xét cụ thể.
- Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy. Định hướng cụ thể phương pháp và hình thức tổ
chức cho từng hoạt động.Phân bố thời gian hợp lí cho từng hoạt động.
- Luôn gắn lí thuyết với thực hành.
- Phải trựcquan, không thể thiếu đồ dùng dạy học(Mô hình, kí hiệu, đồ dùng, hệ
thống ngôn ngữ phải trong sáng, gần gũi, dễ hiểu.)
- Nếu dự định tổ chức trò chơi học tập thì phải chuẩn bị kĩ. Lường trước các tình
huống sư phạm có thể xảy ra.( Học sinh có thể dùng từ thiếu tính sư phạm ,...) không
chơi ngẫu hứng, tùy tiện.


Qua quá trình dạy học, suy nghĩ và tìm tòi, tôi đã tìm thấy một số biện pháp như
đã nêu ở trên để rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3. Qua
việc áp dụng những biện pháp trên tôi thấy kỹ năng nhận biết của học sinh lớp 3 tôi
dạy đã được nâng lên đáng kể. Học sinh không những nhận biết mà còn sử dụng tốt
biện pháp so sánh. Góp phần đáng kể vào việc viết văn và diễn đạt bằng ngôn ngữ của
học sinh. Tôi nghĩ các phương pháp này rất đơn giản, dễ sử dụng và hiệu quả. Với nội
dung trên rất mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp. Tôi
xin chân thành cảm ơn !
Đại Lãnh ngày 30 tháng 1 năm 2015
Người viết
Lương Thị Kim Yến



×