Tải bản đầy đủ (.pptx) (24 trang)

Thuyết trình môn tài chính doanh nghiệp tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.8 KB, 24 trang )

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

GVHD: TS.NGUYỄN THỊ UYÊN UYÊN
NHÓM 9 – LỚP TCDN FN02 K26 TỐI 357
THÁNG 11 NĂM 2016


Những nội dung chính
I. Thị trường hiệu quả:
- Khái niệm về thị trường hiệu quả, các điều kiện về thị trường hiệu quả.
- Các mức độ của thị trường hiệu quả
- Các bất thường của thị trường hiệu quả:
+ Bất thường liên quan đến hành vi của những người tham gia vào thị trường:
. Quá tự tin: 4 hội chứng điển hình: Niềm tin mạnh mẽ, bảo thủ, neo.
. Sở thích.
. Tâm lý bầy đàn.
+ Bất thường trong tỷ suất sinh lợi của doanh nghiệp nhỏ
+ Tỷ suất sinh lợi có tính chu kỳ.
- Các bài học về thị trường hiệu quả.
II. Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả
- Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả mạnh.
- Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả trung bình.
- Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả yếu.
- Tài trợ doanh nghiệp và thị trường không hiệu quả.


Thị trường hiệu quả là một dạng thị trường mà trong đó tất cả các thông tin được phản ánh một cách đầy đủ vào trong
giá cả của chứng khoán bao gồm các thông tin trong quá khứ, các thông tin nội bộ và các thông tin công khai.

• Có nhiều nhà đầu tư để không có bất kì một nhà đầu tư nào có thể ảnh hưởng làm tác động đén giá của thị trường.
• Các thông tin liên quan đến chứng khoán phải được công bố trên thị trường phải được ngẫu nhiên và tự động.


• Nhà đầu tư tham gia vào thị trường phải có kiến thức nhất định.
• Thu nhập kỳ vọng ẩn trong mức giá hiện tại của chứng khoán phải phản ánh được rủi ro của chứng khoán đó.
Chú ý: 4 điều kiện trên đó là các điều kiện cần của một thị trường hiệu quả. Tuy nhiên, để là một thị trường hiệu quả
còn cần phải có những điều kiện đủ.


Các điều kiện đủ của thị trường hiệu quả:
- Không tồn tại chi phí giao dịch trong các giao dịch mau bán chứng khoán để
việc mua bán chứng khoán được dễ dàng nhằm giúp cho các chứng khoán điều
chỉnh về giá trị nội tại.
- Mọi thành viên trên thị trường đều có thể tiếp cận thông tin mà không tốn bất kỳ
khoản chi phí nào để tạo ra sự công bằng cho tất cả những người tham gia vào
thị trường.
- Kỳ vọng của các nhà đầu tư là thuần nhất tức là tất cả các nhà đầu tư có cùng
cách biên dịch, diễn giải, suy nghĩ về những ẩn chứa trong thông tin để từ đó các
nhà đầu tư đề có cách xác lập giống nhau về giá.


Giáo sư Eugene Fama là cha đẻ của thuyết thị trường hiệu quả. Về sau, các nhà khoa học đã phân ra ba mức độ của thị trường
hiệu quả gồm: Thị trường hiệu quả thấp, thị trường hiệu quả trung bình và thị trường hiệu quả cao.

1.3.1.1 Định nghĩa: Giá cả phản ánh tất cả các thông tin quá khứ và từ nội bộ đến công khai. Điều này nói lên rằng các thị
trường phản ứng nhanh với bất kỳ thông tin nào kể cả những thông tin mang tính chất nội bộ hay công khai, làm cho khả năng
tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch khó xảy ra.
1.3.1.2 Đặc điểm:
- Thông tin được phản ánh một cách đầy đủ vào trong giá của chứng khoán: thông tin trong quá khứ, thông tin nội bộ và các
thông tin được công khai.
- Giá cả sẽ tự điều chỉnh ngay lập tức với tất cả các thông tin từ nội bộ đến công khai.
- Giá cả chứng khoán luôn phù hợp với giá trị nội tại của chứng khoán.



Bạn thấy rằng trong một vài năm trở lại đây các quỹ tương hỗ đã giành chiến thắng
trên thị trường, nhưng khoảng hai phần ba thời gian là các biến động ngược lại.


Giá cả của chứng khoán không chỉ phản ánh giá trong quá khứ mà còn phản ánh đầy
đủ và nhanh chóng tất cả các thông tin được công khai

- Giá cả chứng khoán sẽ tự điều chỉnh ngay lập tức trước các thông tin được công
khai.
- Giá cả chứng khoán phản ánh tất cả các thông tin trong quá khứ và thông tin được
công khai.


Đồ thị minh họa xu hướng tăng giá cổ
phiếu của Microsoft. Bắt đầu vào tháng
trước, khi giá là $20, và nó được dự
đoán ​đạt được giá đến $40 vào tháng
tiếp theo. Điều gì sẽ xảy ra khi các nhà
đầu tư nhận thấy vận may này? Nó sẽ tự
hủy. Vì cổ phiếu Microsoft là một món
hời tại mức giá $30, các nhà đầu tư sẽ
đổ xô đến mua. Họ sẽ ngừng mua chỉ
khi các cổ phiếu có tỉ suất sinh lời bình
thường trở lại. Vì vậy, ngay sau khi một
chu kỳ trở thành rõ ràng với các nhà đầu
tư, họ ngay lập tức loại bỏ nó bằng các
giao dịch của họ (tâm lý số đông).



Đồ thị cho thấy mô hình thu nhập trung bình của cổ
phiếu mục tiêu trước và sau khi công bố thâu tóm (ngày 0
trong hình vẽ). Giá cổ phiếu trôi dạt lên trước ngày 0, các
nhà đầu tư dần dần nhận ra rằng có một sự thâu tóm sắp
xảy ra. Vào ngày thông báo, giá tăng vọt lên đáng kể.
Việc điều chỉnh giá cổ phiếu được thực hiện hoàn chỉnh
và ngay lập tức. Vào ngày thông báo công khai đã có một
sự thay đổi giá lớn xảy ra, vào thời điểm kết thúc, đã
không còn sự biến động nào về giá, kể cả tăng hoặc giảm.
Như vậy ngay trong ngày, giá cổ phần mới đã phản ánh
rõ rệch (ít nhất là trên trung bình) độ lớn của chênh lệch
giá của việc sáp nhập.


Thị trường hiệu quả ở mức độ yếu là thị trường giá cả chỉ phản ánh các thông tin
trong quá khứ.

- Giá cả chứng khoán chỉ phản ánh thông tin trong quá khứ.
- Trong thị trường này, nhà đầu tư sử dụng phương pháp phân tích cơ bản để có
được tỷ suất sinh lợi cao.


Bằng chứng số 1: Hệ số tương quan giữa tỷ
suất sinh lợi trong quá khứ và hiện tại
Tỷ suất
sinh lợi

X

Y


Z

XY

XZ

1

8%

16%

8%

12%

8%

2

10%

14%

10%

12%

10%


3

12%

12%

12%

12%

12%

4

14%

10%

14%

12%

14%

5

16%

8%


16%

12%

16%

Hệ số tương quan giữa tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu trong quá khứ và tỷ suất
sinh lợi của cổ phiếu hiện tại.
Mục tiêu của đa dạng hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro.
Giả sử, có 3 cổ phiếu X, Y, Z và danh mục đầu tư XY, XZ có tỷ suất sinh lợi qua
các năm được thể hiện trong bảng. Ta tính hệ số tương quan của x và y.
=
-1
Hệ số tương quan bằng - 1: Phủ định hoàn toàn XY triệt tiêu rủi ro không hệ
thống
Hệ số tương quan bằng 1: X và Z tương quan với nhau, không đa dạng hóa được
Trong khoảng từ -1 đến 0 và 0 đến 1: đều có thể giảm rủi ro nhưng chỉ đạt được
giá trị thấp nhất.
Người ta muốn xem xét thị trường này có hiệu quả hay không thì phải dựa vào
hệ số tương quan giữa tỷ suất sinh lợi trong quá khứ và hiện tại.
Nếu hệ số tương quan dương (cùng chiều): trong tương lai giá sẽ tăng
Nếu hệ số tương quan âm (ngược chiều): trong tương lai giá sẽ giảm.


Bằng chứng số 2: Dựa vào quan hệ của tỷ
suất sinh lợi của cổ phiếu trong 2 ngày liên
tiếp.
Chúng ta xét tương quan giữa sự thay đổi giá
của các ngày liên tiếp của cổ phiếu Microsoft

là - 0,019; nó có xu hướng tăng giá không
đáng kể sau khi giảm giá. Đối với Philips mối
tương quan này cũng là âm tại -0,030. Tuy
nhiên, đối với BP ​và Sony những mối tương
quan đã dương tại +0,004 và +0,026. Trong
những trường hợp này có một xu hướng tăng
giá không đáng kể cho những lần tăng giá sau
đó.


Hầu hết các nhà đầu tư đều tin rằng họ giỏi hơn hệ thống và nghĩ rằng họ là những người đầu tư cổ phiếu vượt trội. Họ quá tự tin
khi thể hiện sự chắc chắn trong phần đánh giá của chính họ. Họ luôn nghĩ rằng kết quả trong tương lai sẽ như họ đã dự tính và
đánh giá thấp những cơ hội của những sự kiện mang tính chất không chắc chắn. Điều này thể hiện ở ba hội chứng điển hình:
Niềm tin mạnh mẽ, bảo thủ, lạc quan thái quá.
- Niềm tin mạnh mẽ vào xác xuất: Đây là một dạng hành vi đơn giản trong quyết định đầu tư của nhà đầu tư. Khi nhà đầu tư có
niềm tin mạnh vào xác suất họ sẽ không quan tâm đến các vấn đề xảy ra trong dài hạn như là xu hướng của thị trường, hay biến
động của chứng khoán trong thời gian dài, họ chỉ tập trung vào một vài sự kiện điển hình gần đây để đưa ra nhận định và quyết
định đầu tư.
- Bảo thủ: Hầu hết các nhà đầu tư đều rất bảo thủ, đó là quá chậm chạp trong việc cập nhật những niềm tin khi đối diện với
những bằng chứng mới.
- Lạc quan thái quá: Khi giá tăng, họ tăng sự lạc quan về tương lai và kích thích nhu cầu mua vào bổ sung cho danh mục đầu tư
của họ. Khi thu nhập của họ càng được sinh ra nhiều, họ càng cảm thấy tự tin hơn và sẵn sàng gánh chịu rủi ro trong tương lai.


Nhà kinh tế Tversky và Kahneman đã đưa ra kết luật sau một cuộc khảo sát về hành vi bất hợp lý của nhà đầu tư. Theo đó
họ sẵng sàng chấp nhận một mức lợi nhuận hợp lý dù họ có cơ hội để đạt mức lợi nhuận cao hơn nhưng họ lại thích lựa
chọn phương án đem lại khoản lỗ cho họ ít hơn. Nói cách khác khoản lỗ của họ được đặt nặng hơn khoản lãi tương đương.
Ta lấy 2 ví dụ như sau:
Ví dụ 1: Nhà đầu tư được giao cho 1.000 usd và phải lựa chọn 01 trong hai phương án:
Lựa chọn a: có 50% cơ hội đạt được 1.000 usd và 50% cơ hội đạt được 0 usd

Lựa chọn b: có 100% cơ hội nhận được 500 usd.
Ví dụ 2: Bạn có 2.000 usd và tiếp tục lựa chọn 1 trong 2 phương án sau:
Lựa chọn 1: Có 50% cơ hội mất 1.000 usd và 50% cơ hội mất 0 usd
Lựa chọn 2: Có 100% cơ hội mất 500 usd
Cả hai tình huống rõ ràng là Nhà đầu tư lựa chọn phương án 2 sẽ chịu thiệt thòi hơn. Tuy nhiên kết quả của khảo sát là đa
số nhà đầu tư chọn phương án 2.


Nhà đầu tư theo tâm lý bầy đàn thường có xu hướng đầu tư theo đám đông. Nhà đầu tư dạng này thường mua
bán tài sản của họ theo kiểu theo đuổi xu hướng đầu tư mới và nóng nhất. Ví dụ điển hình cho xu hướng đầu tư
trường hợp này của nhà đầu tư là vụ “bong bóng” internet ở Mỹ vào những năm 1996 đến năm 2000.


Bất thường là những Doanh nghiệp nhỏ có tỷ
suất sinh lợi cao hơn một cách bất thường.
Biểu đồ minh họa từ năm 1926, cổ phiếu của
những công ty với sự phân hóa vốn trên thị trường
thấp nhất lại hoạt động tốt hơn những công ty có sự
phân hóa vốn lớn nhất dù Doanh nghiệp nhỏ có hệ số
beta cao hơn.


Bất thường này có thể được giải thích bằng những lý do sau:
Thứ nhất, có thể các nhà đầu tư đã đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh
lợi kỳ vọng từ những công ty nhỏ để bù đắp cho rủi ro nào đó mà không được ghi lại
trong mô hình định giá tài sản đơn giản.
Thứ hai, hiệu quả hoạt động cao hơn từ các công ty nhỏ có thể đơn giản chỉ là một
sự trùng hợp ngẫu nhiên, trong việc lựa chọn các mô hình nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu.
Thứ ba, ảnh hưởng công ty nhỏ có thể là một ngoại lệ quan trọng trong lý thuyết thị

trường hiệu quả, một ngoại lệ mà cho các nhà đầu tư cơ hội tạo ra tỷ suất sinh lợi cao
hơn những thời kỳ trước.


1.4.3.1Theo tháng:
Tỷ suất sinh lợi có tính chu kỳ trong ngắn hạn, giá theo một bước ngẫu nhiên tuy
nhiên:
Vào cuối năm, nhà đầu tư bán chứng khoán để đáp ứng nhu cầu tiền mặt => tạo áp
lực làm cho giá chứng khoán giảm, vào tháng giêng họ sẽ mua lại => làm tỉ suất
tháng giêng tăng lên.
Thông tin tốt công bố cuối năm làm giá tháng giêng tăng lên (hiệu ứng tháng
Giêng)do sự phô trương giả tạo => bán chứng khoán công ty có thể có kết quả xấu
nhằm thu hút nhà đầu tư bằng một danh mục đầu tư tốt, sang tháng giêng họ mua
vào để cơ cấu lại.


1.4.3.1Theo ngày:
- Nhà đầu tư thường cảm thấy bi quan nhiều hơn vào ngày thứ hai, họ thường đưa ra quyết định bán chứng
khoán khiến giá giảm xuống. Ngược lại, nhà đầu tư cảm thấy lạc quan vào thứ sáu, nhà đầu tư mua chứng khoán
vào => làm giá tăng lên cao.
- Dựa trên hành vi duy lý của nhà đầu tư cho thấy các nhà đầu tư thường tránh mua cổ phiếu vào ngày thứ hai
do lo sợ các khoản lỗ tiềm năng do giao dịch với các nhà đầu tư đã biết trước thông tin (những nhà đầu tư biết
trước thông tin sẽ bán cổ phiếu khi nhận được các thông tin xấu vào cuối tuần). Dựa trên lập luận này các nhà
đầu cơ giá xuống cố gắng đóng vị thế của mình vào thứ sáu bởi lo ngại các tin tức tốt được công bố vào cuối
tuần dẫn đến việc sẽ mua chứng khoán vào cuối tuần, sau đó mở vị thế bằng cách bán chứng khoán vào đầu tuần
sau.
Các doanh nghiệp có xu hướng trì hoãn các tin xấu vào cuối tuần nhằm tránh sụt giảm vào các ngày trong tuần
giao dich dẫn đến giá giảm vào ngày thứ hai.



Đây là lời khuyên cho cả 3 thị trường, vì cho dù thị trường nào thì Nhà đầu tư cũng phải đọc kỹ thông tin từ
những thông tin trong quá khứ, thông tin có sẵng cho đến thông tin nội bộ.
Lấy ví dụ như: những đánh giá của thị trường về chứng khoán của công ty có thể cung cấp những thông tin
quan trọng về triển vọng của công ty. Cho nên các trái phiếu của công ty được kinh doanh ở giá thấp, bạn có thể
suy luận rằng công ty đang có vấn đề.

Đây là lời khuyên dành cho thị trường hiệu quả dạng mạnh. Dù giá của chứng khoán có phản ánh tất cả các
thông tin nhưng nhà đầu tư phải xem và phân tích đánh giá toàn bộ các thông tin trong nghành để từ đó đưa ra
được quyết định chính xác vì bỏ qua sẽ làm tăng thêm rủi ro cho nhà đầu tư.


Đây là lời khuyên áp dụng cho cả ba thị trường kể cả thị trường hiệu quả mạnh. Trong thị trường hiệu quả mạnh
nhà đầu tư không nên trong đợi vào việc kiếm được tỷ suất sinh lợi vượt trội từ việc chênh lệch giá mà nên dựa
vào giá chứng khóa do DN phát hành và giá chứng khoán của các doanh nghiệp cùng nghành để ra quyết định
đầu tư lựa chọn đầu tư vào những doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao và có nhiều thông tin tốt.


Đây là lời khuyên áp dụng cho tất cả thị trường, đặc biệt là thị trường hiệu quả
mạnh. Mọi thông tin đã phản ánh hết vào trong giá của cổ phần. Các thôgn tin
công bố đều như nhau cho tất cả mọi người nên nhà đầu tư không nên tốn
thêm chi phí để trả cho người khác mà nên tự làm lấy.


Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả mạnh.
Với thị trường hiệu quả mạnh tùy vào tình hình của công ty mà ra quyết định tốt vì trong thị trường hiệu quả mạnh giá
cả của chứng khoán đã thể hiện một cách lợp lý nhất các thông tin nên các Giám đốc tài chính không cần phải bận tâm
đến việc chứng khoán của mình bị định giá sai mà giám đốc tài chính nên tập trung vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả trung bình.
Giá của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ thông tin về quá khứ và công bố nhưng vẫn còn tình trạng bất cân xứng

thông tin vì thế Giám đốc tài chính phản tận dụng thông tin nội bộ để quyết định tài trợ bằng vốn cổ phân hay bằng nợ
thì có lợi nhất.
Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả yếu.
Doanh nghiệp nên nghĩ đến nguồn tài trợ bằng vốn cổ phân khi cổ phần được định giá cao ưu tiên sử dụng nợ khi cổ
phần bị định giá thấp, ra quyết định tài trợ theo trật tự phân hạng khi chứng khoán được định giá phải chăng.
Tài trợ doanh nghiệp và thị trường không hiệu quả.
Doanh nghiệp cần phải thận trong ra quyết định tài trợ vì khả năng thị trường định giá sai của doanh nghiệp là cao
nhưng doanh nghiệp có thực lực tài chính mạnh phải tận dụng thế mạnh của mình phải biết tận dụng để tạo ra ợi thế
cạnh tranh của mình. Doanh nghiệp vừa và yếu có xu hướng thực hiện các trò chơi để đạt mục đích.


Nhóm 9 Xin cám ơn Cô và
Các bạn đã lắng nghe!

h
T

k
n
a



×