Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Hoàn thiện dự toán ngân sách tại tổng công ty phân bón và hóa chất dầu khí công ty cổ phần chi nhánh nhà máy đạm phú mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.63 KB, 79 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Dự toán ngân sách là một công việc không thể thiếu trong công tác kế toán
quản trị. Dự toán ngân sách là sự tính toán một cách chi tiết về việc huy động và sử
dụng các nguồn lực của một tổ chức trong một kỳ hoạt động.
Dự toán ngân sách giúp cho các nhà quản lý thực hiện chức năng quản trị của
họ. Dự toán ngân sách gắn liền với các công việc của nhà quản trị từ lập kế hoạch,
tổ chức điều hành, kiểm tra và ra quyết định. Vì vậy, hoàn thiện dự toán ngân sách
luôn là việc làm cần thiết để công cụ này mang lại lợi ích nhiều hơn, khắc phục
đƣợc các khuyết điểm để tạo ra đƣợc một hệ thống dự toán mới tốt hơn.
Đối với Nhà máy Đạm Phú Mỹ là đơn vị trực thuộc Tổng công ty Phân bón và
Hóa chất Dầu khí – Công ty cổ phần là một trong những doanh nghiệp sản xuất
phân bón lớn nhất Việt Nam hiện nay thì việc lập dự toán ngân sách càng có ý
nghĩa. Dự toán ngân sách giúp cho Nhà máy định hƣớng đƣợc những hoạt động cơ
bản trong năm kế hoạch, chủ động và phát huy các nguồn lực tài chính để hoàn
thành nhiệm vụ đƣợc giao; phát huy các nguồn lực và khả năng của Nhà máy, đồng
thời đề ra phƣơng hƣớng sử dụng nguồn tài chính một cách hiệu quả và tiết kiệm;
sẵn sàng đối phó kịp thời với mọi tình huống đột xuất trong tƣơng lai, hạn chế đƣợc
những khó khăn về tổng kinh phí hoạt động.
Song, hiện nay công tác dự toán ngân sách của Nhà máy còn nhiều hạn chế, hệ
thống báo cáo dự toán ngân sách chƣa phản ánh đúng tiềm năng thực tế của Nhà
máy cũng nhƣ chƣa phát huy đƣợc vai trò, công dụng và gây lãng phí cho đơn vị.
Trong khi đó, để hoàn thành nhiệm vụ của Tổng công ty giao phó và để có chỗ
đứng trên thị trƣờng đòi hỏi Nhà máy phải không ngừng đổi mới cũng nhƣ nâng cao
trình độ quản lý, trong đó những yếu kém, bất cập về công tác dự toán ngân sách
cần sớm đƣợc khắc phục.
Từ việc nhận thức sự cần thiết của công tác lập dự toán ngân sách tại Nhà máy
trong giai đoạn hiện nay, tác giả đã chọn đề tài “Hoàn thiện dự toán ngân sách tại
Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí – Công ty cổ phần – Chi nhánh
Nhà máy Đạm Phú Mỹ” với mong muốn giúp Nhà máy xây dựng hệ thống báo cáo


dự toán ngân sách phù hợp với tình hình thực tiễn, phản ánh đúng tiềm năng, đảm


2
bảo cho các báo cáo dự toán thực sự là công cụ hữu ích cho việc quản lý điều hành
hiệu quả.
2. Tổng quan về các công trình nghiên cứu trƣớc đây
Cho đến nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về công tác lập dự toán ngân sách
tại các doanh nghiệp sản xuất. Tác giả đã tìm hiểu đƣợc một số đề tài cụ thể nhƣ
sau:
- Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền (2005), Nghiên cứu hoàn thiện dự toán ngân
sách tại Công ty 32, luận văn Thạc sĩ, Đại học kinh tế TP.Hồ Chí Minh, nghiên cứu
về thực trạng lập dự toán ngân sách tại Công ty 32. Nhìn chung, tác giả cho rằng
công ty 32 đã có lập dự toán ngân sách. Tuy nhiên, các báo cáo dự toán còn tồn tại
nhiều hạn chế. Công tác lập dự toán chƣa hợp lý, dự toán tiêu thụ lại đƣợc lập sau
dự toán chi phí cho nên báo cáo dự toán không phản ánh đúng tiềm năng thực tế của
công ty. Kỳ dự toán 1 năm là quá dài sẽ khó phù hợp với thực tế. Sau khi nhìn thấy
những hạn chế, tác giả đã đề xuất xây dựng lại quy trình lập dự toán ngân sách và
mô hình dự toán ngân sách. Cũng nhƣ xây dựng lại các báo cáo dự toán bao gồm:
dự toán tiêu thụ, dự toán sản xuất, dự toán chi phí nhân công trực tiếp sản xuất, dự
toán chi phí sản xuất chung, dự toán giá thành, dự toán tồn kho, dự toán đầu tƣ, dự
toán chi phí bán hàng, dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp, dự toán báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh, dự toán tiền, dự toán bảng cân đối kế toán.
- Tác giả Nguyễn Ý Nguyên Hân (2008), Nghiên cứu hoàn thiện dự toán ngân
sách tại Công ty phân bón Miền Nam, luận văn thạc sĩ, Đại học kinh tế TP. Hồ Chí
Minh, nghiên cứu về thực trạng lập dự toán ngân sách tại Công ty phân bón Miền
Nam.Theo đó, tác giả cho rằng công ty chƣa chú trọng đến việc lập dự toán ngân
sách của đơn vị, các mẫu báo cáo dự toán của doanh nghiệp còn rờm rà mang tính
chất tổng quát chƣa thực sự giúp ích cho công tác quản lý tại đơn vị vì còn tồn tại
nhiều hạn chế.Vì vậy, tác giả đã đề xuất ý kiến xây dựng lại các báo cáo dự toán

ngân sách cụ thể và phù hợp hơn cho doanh nghiệp.
- Tác giả Nguyễn Trí Minh (2013), Nghiên cứu hoàn thiện dự toán ngân sách
tại Công ty cổ phần sữa Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Đại học kinh tế TP. Hồ Chí
Minh, nghiên cứu về thực trạng lập dự toán ngân sách tại Công ty cổ phần sữa Việt
Nam. Từ việc phân tích, tác giả đã chỉ ra một số điểm còn tồn tại và đề xuất doanh


3
nghiệp cần hoàn thiện hơn mô hình lập dự toán, quy trình lập dự toán, và việc lập
dự toán (dự toán tiêu thụ, chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí sản
xuất chung, giá thành, dự toán thu tiền) nhằm giúp doanh nghiệp hoàn thiện công
tác lập dự toán tại đơn vị.
- Tác giả Phan Anh Tuấn (2013), Nghiên cứu hoàn thiện dự toán ngân sách tại
Công ty trách nhiệm hữu hạn Posvina, luận văn thạc sĩ, Đại học kinh tế TP. Hồ Chí
Minh. Luận văn gồm 5 chƣơng, tác giả đánh giá thực trạng về công tác lập dự toán
của công ty ở chƣơng thứ 2. Trong chƣơng này, tác giả trình bày lại những báo cáo
dự toán mà công ty đã lập. Song theo tác giả, những báo cáo dự toán này còn phức
tạp gây khó hiểu cho việc đọc các báo cáo. Do đó, tác giả đã đƣa ra giải pháp để
hoàn thiện về quy trình lập dự toán, mô hình lập dự toán, hoàn thiện các báo cáo dự
toán bao gồm: dự toán tiêu thụ, dự toán sản xuất, dự toán chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, dự toán chi phí nhân công trực tiếp, dự toán chi phí sản xuất chung, dự
toán giá thành sản phẩm, dự toán tồn kho thành phẩm, dự toán đầu tƣ TSCĐ, dự
toán lãi vay, dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Đóng góp mới của đề
tài là đề xuất lập dự toán các khoản phải nộp ngân sách.
- Tác giả Lê Vũ Hà (2015), Nghiên cứu hoàn thiện dự toán ngân sách tại
Công ty trách nhiệm hữu hạn Đăng Long, luận văn thạc sĩ, Đại học Lạc Hồng Đồng
Nai, nghiên cứu về thực trạng lập dự toán ngân sách tại Công ty trách nhiệm hữu
hạn Đăng Long. Tác giả nhận thấy doanh nghiệp này mới chỉ lập đƣợc hai mẫu dự
toán: dự toán tiêu thụ và dự toán sản xuất. Việc dự báo số lƣợng tiêu thụ đƣợc thực
hiện bằng việc đƣa vào số liệu năm trƣớc và áp mức tăng trƣởng trung bình đơn

giản của tổng doanh số quá khứ vào cho tất cả các sản phẩm; đồng thời giá bán
đƣợc đƣa ra vào tháng 12 của năm chƣa ƣớc tính đƣợc mức lạm phát. Do đó, tác giả
đã đề xuất ý kiến hoàn thiện lại dự toán tiêu thụ vì theo tác giả đây là dự toán đầu
tiên và quan trọng nhất nên cần phải thực hiện một cách chính xác. Tác giả cũng đề
xuất xây dựng mới các báo cáo dự toán sau: dự toán nguyên vật liệu trực tiếp, dự
toán chi phí nhân công trực tiếp, dự toán chi phí sản xuất chung, dự toán thành
phẩm tồn kho cuối kỳ, dự toán chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp, dự toán
tiền mặt, dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, dự toán bảng cân đối kế
toán. Đóng góp mới của đề tài là đã đề xuất giải pháp để hoàn thiện công tác lập dự


4
toán cho doanh nghiệp sản xuất ngành gỗ, là cơ sở để cho các doanh nghiệp sản
xuất gỗ có thể dựa vào đó tham khảo thực hiện việc lập dự toán của đơn vị đƣợc
hiệu quả hơn.
Nhìn chung, các nghiên cứu trƣớc đây đều đã trình bày đƣợc tổng quan về dự
toán ngân sách, từ đó làm cơ sở để phân tích thực trạng và đề ra các giải pháp phù
hợp nhằm hoàn thiện về công tác lập dự toán tại các doanh nghiệp cụ thể theo phạm
vị nghiên cứu của các đề tài. Tuy nhiên, các đề tài nhìn chung đều chƣa có tính
thuyết phục cao. Bởi vì, tác giả chƣa tiến hành khảo sát tình hình thực tế về công tác
lập dự toán ngân sách tại đơn vị. Từ đó, làm cơ sở để đƣa ra những giải pháp và
kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác lập dự toán ngân sách tại đơn vị mình thực
hiện.
Đề tài của tác giả Nguyễn Ý Nguyên Hân đã nghiên cứu về công tác lập dự
toán cho các doanh nghiệp nói chung và cho ngành phân bón nói riêng. Các doanh
nghiệp ngành phân bón muốn hoạt động tốt thì nhất thiết phải xây dựng hệ thống dự
toán ngân sách hữu hiệu nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh,
phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập quốc tế.
Từ đó, trên cơ sở lý luận về dự toán ngân sách, tham khảo những đề tài, bài
báo có liên quan, và tình hình hoạt động thực tế tại các doanh nghiệp ngành phân

bón nói chung và Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí – Công ty cổ phần – Chi
nhánh Nhà máy Đạm Phú Mỹ nói riêng, tác giả đã nghiên cứu thực hiện đề tài
“Hoàn thiện dự toán ngân sách tại Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí –
Công ty cổ phần – Chi nhánh Nhà máy Đạm Phú Mỹ”
3. Mục tiêu của đề tài:
- Phân tích, đánh giá thực trạng về công tác dự toán ngân sách tại Tổng Công
ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - Công ty cổ phần - Chi nhánh Nhà máy Đạm Phú
Mỹ.
- Đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập dự toán tại Tổng Công
ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - Công ty cổ phần - Chi nhánh Nhà máy Đạm Phú
Mỹ.


5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tƣợng nghiên cứu:
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề về dự toán ngân sách và chủ yếu
nghiên cứu công tác lập dự toán ngắn hạn tại Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất
Dầu khí - Công ty cổ phần - Chi nhánh Nhà máy Đạm Phú Mỹ.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn đƣợc thực hiện nghiên cứu tại Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất
Dầu khí - Công ty cổ phần - Chi nhánh Nhà máy Đạm Phú Mỹ và số liệu phục vụ
cho việc phân tích nghiên cứu luận văn là số liệu năm 2015.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp định tính bao gồm các phƣơng pháp
sau:
- Phƣơng pháp quan sát: Quan sát các mẫu biểu, chứng từ.
- Phƣơng pháp so sánh: So sánh giữa số liệu dự toán năm trƣớc với số liệu dự
toán năm nay, từ đó thấy đƣợc chỉ tiêu dự toán năm nay tăng hay giảm so với năm
trƣớc để có biện pháp chủ động trong sản xuất.

- Phƣơng pháp phân tích: phân tích thực trạng công tác lập dự toán ngân sách
của Nhà máy, nhận xét những ƣu điểm và hạn chế.
- Phƣơng pháp tổng hợp: Tổng hợp các dữ liệu đã phân tích từ đó đƣa ra các
giải pháp hoàn thiện về công tác lập dự toán tại Nhà máy.
Đồng thời kết hợp với phƣơng pháp định lƣợng, cụ thể là sử dụng các phƣơng
pháp sau:
- Phƣơng pháp phỏng vấn chuyên gia: Phỏng vấn Trƣởng phòng kế toán, các
kế toán viên phụ trách, Trƣởng hoặc phó phòng ở các phòng ban, phân xƣởng.
- Phƣơng pháp thống kê: Thống kê mô tả, khảo sát số liệu thông qua bản câu
hỏi khảo sát
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài góp phần vào việc xây dựng hệ thống dự toán ngân sách của Tổng công
ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - Công ty cổ phần - Chi nhánh Nhà máy Đạm Phú
Mỹ một cách khoa học và sát với thực tiễn hơn, phản ánh đúng nhu cầu của các bộ
phận trong Nhà máy Đạm Phú Mỹ.


6
Góp phần huy động các bộ phận của Nhà máy Đạm Phú Mỹ cùng tham gia
tích cực vào việc thực hiện mục tiêu chung của Nhà máy.
Giúp Nhà máy Đạm Phú Mỹ có thể quản lý tài chính một cách tốt nhất, thiết
lập căn cứ đánh giá trách nhiệm quản lý của các bộ phận nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của Nhà máy.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn gồm 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Tổng quan về dự toán ngân sách
- Chƣơng 2: Thực trạng công tác dự toán ngân sách tại Tổng Công ty Phân
bón và Hóa chất Dầu khí - Công ty cổ phần - Chi nhánh Nhà máy Đạm Phú Mỹ.
- Chƣơng 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập dự toán ngân sách
tại Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - Công ty cổ phần - Chi nhánh Nhà

máy Đạm Phú Mỹ.


7
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH
1.1 Khái quát chung về dự toán ngân sách
1.1.1 Khái niệm về dự toán ngân sách
Dự toán ngân sách là những tính toán, dự kiến một cách toàn diện mục tiêu
kinh tế, tài chính mà doanh nghiệp cần đạt đƣợc trong kỳ hoạt động, đồng thời chỉ
rõ cách thức, biện pháp huy động các nguồn lực để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ
đó. Dự toán ngân sách là một hệ thống bao gồm nhiều dự toán nhƣ: dự toán tiêu thụ,
dự toán sản xuất, dự toán chi phí nguyên vật liệu, dự toán chi phí nhân công, dự
toán chi phí sản xuất chung, dự toán chi phí bán hàng, dự toán chi phí quản lý doanh
nghiệp, dự toán giá vốn hàng bán, dự toán vốn đầu tƣ, dự toán tiền, dự toán báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh, dự toán bảng cân đối kế toán. (Huỳnh Đức Lộng,
2015)
1.1.2 Phân loại dự toán ngân sách
1.1.2.1 Phân loại theo chức năng
 Dự toán hoạt động
Dự toán hoạt động là dự toán liên quan đến hoạt động chính, cơ bản và cụ thể
của doanh nghiệp. Ví dụ: dự toán tiêu thụ nhằm dự kiến tình hình tiêu thụ, dự toán
sản xuất nhằm dự kiến sản lƣợng sản xuất, dự toán mua hàng nhằm dự toán khối
lƣợng hàng cần thiết mua vào…. (Huỳnh Đức Lộng, 2015)
 Dự toán tài chính
Dự toán tài chính là các dự toán liên quan đến tiền tệ, vốn đầu tƣ nhƣ dự toán
bảng cân đối kế toán, dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, dự toán tiền…
(Huỳnh Đức Lộng, 2015)
1.1.2.2 Phân loại theo phƣơng pháp lập
 Dự toán ngân sách linh hoạt
Dự toán ngân sách linh hoạt là dự toán ƣớc tính chi phí, doanh thu, lợi nhuận

tại nhiều mức độ hoạt động khác nhau, thông thƣờng dự toán linh hoạt đƣợc lập ở 3
mức độ hoạt động cơ bản là: mức độ hoạt động bình thƣờng, mức độ hoạt động khả
quan nhất, mức độ bất lợi nhất. (Huỳnh Đức Lộng, 2015)


8
 Dự toán ngân sách cố định
Dự toán ngân sách cố định là dự toán ƣớc tính chi phí, doanh thu, lợi nhuận
tạo một mức độ hoạt động, thông thƣờng dự toán cố định đƣợc lập tại mức độ hoạt
động tối ƣu. (Huỳnh Đức Lộng, 2015)
1.1.2.3 Phân loại theo mức độ phân tích
 Dự toán gốc
Dự toán gốc là loại dự toán khi lập phải gạt bỏ hết những số liệu dự toán đã
tồn tại trong quá khứ và xem các nghiệp vụ kinh doanh nhƣ mới bắt đầu. Dự toán
đƣợc lập dựa trên xem xét khả năng thu nhập, những khoản chi phí phát sinh và khả
năng thực hiện lợi nhuận của doanh nghiệp để lập các báo cáo dự toán. Các báo cáo
dự toán này sẽ không phụ thuộc vào số liệu của các báo cáo dự toán cũ. Dự toán từ
gốc không theo khuôn mẫu các báo cáo dự toán cũ, vì thế nó đòi hỏi nhà quản lý
các cấp phải phát huy tính chủ động, sáng tạo và tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của
doanh nghiệp để lập dự toán. Lập dự toán theo phƣơng pháp này có ƣu điểm là
không lệ thuộc vào số liệu dự toán của các năm trƣớc nên có thể tránh đƣợc các
khuyết điểm của dự toán ngân sách ở các năm trƣớc. Ngoài ra, dự toán theo phƣơng
pháp này còn có thể phát huy tính chủ động, khả năng sáng tạo của bộ phận lập dự
toán. Tuy nhiên, phƣơng pháp này cũng có nhƣợc điểm là tất cả mọi hoạt động,
nghiên cứu đều phải bắt đầu từ đầu nên khối lƣợng công việc phải thực hiện nhiều,
thời gian lập dự toán dài, kinh phí cao và cũng không thể đảm bảo chắc chắn rằng
số liệu dự toán là chính xác và không sai sót. (Huỳnh Đức Lộng, 2015)
 Dự toán cuốn chiếu
Dự toán cuốn chiếu hay còn gọi là dự toán nối mạch. Theo phƣơng pháp này thì
bộ phận lập dự toán sẽ dựa vào các báo cáo dự toán cũ của doanh nghiệp và điều

chỉnh theo những thay đổi trong thực tế để lập các báo cáo dự toán mới.Dự toán
cuốn chiếu thƣờng đƣợc lập cho một năm tài chính và chia thành những kế hoạch
quý hay tháng. Trong trƣờng hợp có sự thay đổi mức độ hoạt động hoặc có sự
chênh lệch giữa báo cáo dự toán ngân sách cũ và số liệu thực tế thì sẽ tiến hành điều
chỉnh hoặc sửa đổi dự toán cũ cho phù hợp với tình hình thực tế rồi mới dùng làm
cơ sở cho việc lập dự toán tháng tiếp theo. Lập dự toán theo phƣơng pháp này có ƣu
điểm là các báo cáo dự toán đƣợc soạn thảo, theo dõi và cập nhật một cách liên tục.


9
Dự toán cuốn chiếu giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp có thể kế hoạch hóa liên
tục các hoạt động kinh doanh của năm mới mà không phải đợi đến khi kết thúc việc
thực hiện dự toán năm cũ mới có thể lập dự toán ngân sách cho năm mới. Nhƣợc
điểm của phƣơng pháp này là quá trình lập dự toán ngân sách phụ thuộc quá nhiều
vào các báo cáo dự toán cũ dẫn đến không phát huy đƣợc tính chủ động sáng tạo
của bộ phận lập dự toán. (Huỳnh Đức Lộng, 2015)
1.1.3 Mục đích, chức năng và lợi ích của việc lập dự toán ngân sách
1.1.3.1 Mục đích
Dự toán ngân sách giúp nhà quản trị cụ thể hóa các mục tiêu của doanh nghiệp
bằng số liệu.
Dự toán ngân sách cung cấp cho nhà quản trị doanh nghiệp toàn bộ thông tin
về kế hoạch sản xuất kinh doanh trong từng thời gian cụ thể và cả quá trình sản xuất
kinh doanh.
Dự toán ngân sách là căn cứ để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, tình
hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp để thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ theo đúng tiến độ.
Dự toán ngân sách giúp nhà quản trị kiểm soát quá trình hoạt động của doanh
nghiệp và đánh giá trách nhiệm quản lý của từng bộ phận, từng cá nhân trong tổ
chức.
Dự toán ngân sách là căn cứ để khai thác các khả năng tiềm tàng về nguồn lực

nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
1.1.3.2 Chức năng
Dự toán ngân sách có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chức năng
của nhà quản trị, cụ thể nhƣ sau:
 Chức năng lập kế hoạch:
Dự toán ngân sách xác định mục tiêu mà doanh nghiệp đạt đƣợc trong kỳ hoạt
động, đồng thời dự kiến nguồn lực để thực hiện mục tiêu đó, vai trò này của dự toán
ngân sách thể hiện ở việc lập dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, dự toán
tiêu thụ, dự toán sản xuất, dự toán chi phí nguyên vật liệu, dự toán chi phí nhân
công, dự toán chi phí sản xuất chung, dự toán chi phí bán hàng. (Huỳnh Đức Lộng,
2015)


10
 Chức năng kiểm soát
Vai trò này của dự toán ngân sách thể hiện ở việc dự toán ngân sách đƣợc xem
là cơ sở, là thƣớc đo chuẩn để so sánh, đối chiếu với số liệu thực tế đạt đƣợc của
công ty thông qua các báo cáo kế toán quản trị. Thông tin trên dự toán ngân sách là
cơ sở để kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện hoạch. (Huỳnh Đức Lộng, 2015)
 Chức năng kiểm soát và điều hành
Vai trò này của dự toán ngân sách thể hiện ở việc huy động và phân phối các
nguồn lực để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp, thể hiện ở dự toán ngân sách
là văn bản cụ thể, súc tích truyền đạt các mục tiêu, chiến lƣợc kinh doanh của doanh
nghiệp đến các nhà quản lý các bộ phận, phòng ban. (Huỳnh Đức Lộng, 2015)
Ngoài ra, dự toán ngân sách còn có vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết
định về phân bổ nguồn lực, trong bố trí nhân sự thông qua việc đánh giá trách
nhiệm trong việc thực hiện mục tiêu mà dự toán đề ra.
1.1.3.3 Lợi ích của việc lập dự toán
- Cung cấp cho các nhà quản trị phƣơng tiện thông tin một cách có hệ thống
toàn bộ kế hoạch của doanh nghiệp

- Giúp truyền đạt kế hoạch, mục tiêu, chiến lƣợc của nhà quản trị đến tất cả
các bộ phận trong tổ chức.
- Làm cho các mục tiêu và cách thức để đạt đƣợc các mục tiêu của doanh
nghiệp đƣợc biểu hiện một cách rõ ràng. Vì vậy, dự toán giúp cho việc quản lý trở
nên thuận lợi hơn trong việc hƣớng hoạt động kinh doanh theo mục tiêu đã định.
- Khuyến khích việc lập kế hoạch, liên kết, đánh giá kết quả thực hiện của các
bộ phận trong doanh nghiệp.
- Giúp cải thiện các mối liên kết và truyền thông. Tuy nhiên, điều này có thể
dễ dàng nhận thấy trên lý thuyết nhƣng thực tế thì phải mất rất nhiều công sức và trí
lực mới có thể đạt đƣợc.
- Giúp ích rất nhiều cho các nhà quản lý, nhƣng chính bản thân của dự toán
cũng cần sự trợ giúp từ phía các nhà quản lý. Các nhà quản lý cấp cao nên hiểu điều
đó và có những biện pháp hỗ trợ từ mọi khía cạnh để dự toán đạt hiệu quả cao hơn.
Quản lý dự toán không phải là một công việc cứng nhắc mà đòi hỏi sự linh hoạt.


11
1.2. Mô hình, quy trình, trình tự và phƣơng pháp lập dự toán ngân sách
1.2.1 Mô hình lập dự toán ngân sách
1.2.1.1 Mô hình ấn định thông tin từ trên xuống
Mô hình ấn định thông tin từ trên xuống là mô hình mà các chỉ tiêu dự toán
đƣợc định ra từ ban quản lý cấp cao của tổ chức và sau đó sẽ truyền xuống cho quản
lý cấp trung gian. Sau đó quản lý cấp trung gian xem xét sẽ chuyển xuống cho quản
lý cấp cơ sở. (Huỳnh Đức Lộng, 2015)
 Nhận xét mô hình 1:
Lập dự toán theo mô hình này mang nặng tính áp đặt từ nhà quản lý cấp cao
xuống các bộ phận, không gắn với năng lực thực tế của bộ phận trong doanh
nghiệp. Khi lập dự toán ngân sách theo mô hình này đòi hỏi nhà quản lý cấp cao
phải có tầm nhìn tổng quát, toàn diện về mọi mặt của doanh nghiệp và nhà quản lý
cấp cao phải nắm vững chặt chẽ chi tiết hoạt động của từng bộ phận trong doanh

nghiệp cả về mặt định tính và định lƣợng, điều này chỉ phù hợp với doanh nghiệp có
qui mô nhỏ, có ít sự phân cấp quản lý.
1.2.1.2 Mô hình thông tin phản hồi
Theo mô hình này thì việc lập dự toán đƣợc thực hiện theo quy trình sau: Các
chỉ tiêu dự toán đầu tiên đƣợc ƣớc tính từ ban quản lý cấp cao nhất, dự toán lúc này
mang tính dự thảo và đƣợc truyền xuống cho các cấp quản lý trung gian. Trên cơ sở
đó, các đơn vị quản lý trung gian sẽ phân bổ xuống các đơn vị cấp cơ sở. Các bộ
phận quản lý cấp cơ sở căn cứ vào các chỉ tiêu dự thảo, căn cứ vào khả năng và điều
kiện của mình để xác định các chỉ tiêu dự toán có thể thực hiện đƣợc và những chỉ
tiêu dự toán cần giảm bớt hoặc tăng lên. Sau đó, bộ phận quản lý cấp cơ sở bảo vệ
dự toán của mình trƣớc bộ phận quản lý cấp trung gian.
Bộ phận quản lý cấp trung gian, trên cơ sở tổng hợp các chỉ tiêu dự toán từ các
bộ phận cấp cơ sở sẽ xác định các chỉ tiêu dự toán có thể thực hiện đƣợc của bộ
phận mình và tiến hành trình bày và bảo vệ trƣớc bộ phận quản lý cấp cao.
Bộ phận quản lý cấp cao, trên cơ sở tổng hợp số liệu dự toán từ các bộ phận
cấp trung gian, kết hợp với tầm nhìn tổng quát, toàn diện về toàn bộ hoạt động của
tổ chức, sẽ xét duyệt thông qua các chỉ tiêu dự toán của bộ phận quản lý trung gian
và lập dự toán cho toàn bộ doanh nghiệp. (Huỳnh Đức Lộng, 2015)


12
 Nhận xét mô hình 2:
Lập dự toán theo mô hình này sẽ thu hút đƣợc trí tuệ và kinh nghiệm của các
cấp quản lý khác nhau vào quá trình lập dự toán, vì vậy dự toán sẽ có tính chính
xác, độ tin cậy và tính khả thi sẽ cao. Tuy nhiên, nếu lập dự toán theo mô hình này
sẽ phải tốn nhiều thời gian và chi phí cho việc thông tin dự thảo, phản hồi, xét duyệt
và chấp thuận.
1.2.1.3 Mô hình thông tin từ dƣới lên
Dự toán theo mô hình này đƣợc lập từ cấp quản lý thấp nhất đến quản lý cấp
cao nhất. Các bộ phận quản lý cấp cơ sở căn cứ vào khả năng và điều kiện của cấp

mình để lập dự toán, sau đó trình lên quản lý cấp trung gian. Quản lý cấp trung gian
tổng hợp số liệu của cấp cơ sở và trình lên quản lý cấp cao. Quản lý cấp cao sẽ tổng
hợp số liệu của quản lý cấp trung gian và kết hợp với tầm nhìn tổng quát, toàn diện
về toàn bộ doanh nghiệp, từ đó lập dự toán của doanh nghiệp. (Huỳnh Đức Lộng,
2015)
 Nhận xét mô hình 3:
Lập dự toán theo mô hình này rất thoáng, hầu hết mọi chỉ tiêu đều đƣợc đƣa ra
bởi những bộ phận chịu trách nhiệm thực hiện dự toán. Ngƣời trực tiếp thực hiện
các hoạt động hàng ngày tại doanh nghiệp tham gia vào việc lập dự toán nên số liệu
thƣờng phù hợp và rất thực tế. Do thực hiện những mục tiêu kế hoạch mà chính
mình đã đề ra hầu hết mọi ngƣời đều cảm thấy thoải mái nên làm cho dự toán có
tính khả thi cao và dễ hƣớng mọi ngƣời trong doanh nghiệp theo mục tiêu chung
của tổ chức. Việc để cho các bộ phận tự đề ra các chỉ tiêu dự toán của bộ phận mình
sẽ phát huy tích cực tính tự giác của các thành viên trong từng bộ phận, nó buộc
mọi ngƣời trong doanh nghiệp phấn đấu đạt đƣợc kế hoạch do chính mình đề ra.
Nếu trong quá trình thực hiện dự toán các bộ phận không đạt đƣợc các chỉ tiêu dự
toán nhƣ trong kế hoạch do chính họ đề ra thì buộc họ phải tự xem xét kiểm tra và
không thể đổ lỗi cho nhau. Có thể thấy lập dự toán theo mô hình này phát huy tích
cực vai trò kiểm tra của dự toán. Lập dự toán theo mô hình này không tốn nhiều
thời gian và chi phí nhƣng khá hiệu quả. Mô hình này đặc biệt phù hợp với các
doanh nghiệp lớn, các tập đoàn có sự phân cấp quản lý cao.


13
Tuy nhiên, nhƣợc điểm của mô hình này là việc để cho các bộ phận tự đề ra
các chỉ tiêu dự toán nên có thể xảy ra tình trạng các bộ phận tự đƣa ra những chỉ
tiêu dự toán thấp hơn năng lực thực sự có thể thực hiện đƣợc để dễ dàng đạt đƣợc
các chỉ tiêu dự toán. Lúc này dự toán không những không phát huy đƣợc tính tích
cực mà còn làm trì trệ các hoạt động sản xuất kinh doanh, làm lãng phí tài nguyên,
năng lực và triệt tiêu hết năng lực tiềm tàng của doanh nghiệp.

1.2.2 Quy trình lập dự toán ngân sách
Quy trình lập dự toán ngân sách đƣợc thực hiện qua 3 giai đoạn sau:
 Giai đoạn chuẩn bị:
Việc đầu tiên phải làm trong quá trình dự toán ngân sách là làm sáng tỏ mục
tiêu của doanh nghiệp. Dự toán ngân sách phải lấy chiến lƣợc và mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp làm nền tảng. Sau khi xác định rõ ràng mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp, sẽ xây dựng một mẫu dự toán ngân sách chuẩn. Điều này
giúp cho nhà quản lý cấp cao dễ phối hợp với các dự toán ngân sách của các bộ
phận trong doanh nghiệp, cho phép so sánh, kết nối giữa các nội dung một cách dễ
dàng. Khi mọi vấn đề đã đƣợc chuẩn bị đầy đủ cho việc lập dự toán ngân sách thì
trƣớc khi soạn thảo hãy xem xét lại hệ thống để đảm bảo rằng ngân sách sẽ cug cấp
thông tin chính xác và phù hợp. Ngoài ra, phân công công việc và bố trí nhân lực là
công tác quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị của quy trình lập dự toán ngân sách
trong doanh nghiệp.
 Giai đoạn soạn thảo:
Sau giai đoạn chuẩn bị là giai đoạn soạn thảo dự toán ngân sách. Để lập dự
toán ngân sách, doanh nghiệp phải thu thập thông tin, ƣớc lƣợng số liệu về thu nhập
và chi tiêu, tập hợp tất cả trong một tài liệu tổng thể thống nhất. Trƣớc hết, những
cá nhân có liên quan trong việc lập dự toán ngân sách phải tập hợp toàn bộ thông tin
về các nguồn lực sẵn có trong doanh nghiệp, các yếu tố bên trong và bên ngoài
doanh nghiệp tác động đến công tác dự toán ngân sách đồng thời ƣớc tính đến thu,
chi,… trên cơ sở đó soạn theo các báo cáo dự toán tiêu thụ, dự toán sản xuất, dự
toán nguyên vật liệu, dự toán tiền mặt, dự toán Bảng cân đối kế toán, dự toán Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh,…


14
 Giai đoạn theo dõi:
Việc lập dự toán ngân sách tại doanh nghiệp phải đƣợc lập liên tục từ năm này
sang năm khác, từ tháng này sang tháng khác. Vì vậy, sau mỗi kỳ dự toán ngân sách

cần phải thƣờng xuyên theo dõi, đánh giá tình hình dự toán, từ đó xem xét lại các số
liệu, cơ sở lập dự toán ngân sách và điều chỉnh khi cần thiết để rút kinh nghiệm cho
lần lập dự toán ngân sách kế tiếp.
1.2.3 Trình tự lập dự toán ngân sách
Dự toán tiêu thụ sản phẩm là quan trọng nhất, nó chi phối toàn bộ hệ thống dự
toán ngân sách của doanh nghiệp. Dự toán tiêu thụ sản phẩm sẽ cho thấy doanh thu
dự kiến trong kỳ dự toán. Khi dự toán tiêu thụ sản phẩm đƣợc lập một cách cẩn thận
và phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thì đó chính là
chìa khóa của toàn bộ quá trình lập dự toán ngân sách của doanh nghiệp.
Trình tự lập dự toán ngân sách, dự toán tiêu thụ đóng vai trò cốt lõi trong công
tác lập dự toán ngân sách của doanh nghiệp. Từ dự toán tiêu thụ trong kỳ và thông
tin hàng tồn kho đầu kỳ dự toán, doanh nghiệp sẽ tiến hành lập dự toán sản xuất.
Xuất phát từ dự toán sản xuất trong kỳ dự toán, doanh nghiệp sẽ lập đƣợc báo cáo
dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp và
dự toán chi phí sản xuất chung. Ngoài ra, từ dự toán tiêu thụ kết hợp với nhu cầu
quản lý của doanh nghiệp trong tƣơng lai, doanh nghiệp sẽ lập đƣợc báo cáo dự
toán chi phí bán hàng và dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp. Từ các nhu cầu sử
dụng tiền trong doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ lập đƣợc báo cáo tiền. Cuối cùng,
doanh nghiệp sẽ lập đƣợc báo cáo dự toán tài chính bao gồm: dự toán Báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh; dự toán Bảng cân đối kế toán và dự toán Báo cáo lƣu
chuyển tiền tệ.
Cụ thể nhƣ sau:
1.2.3.1 Dự toán tiêu thụ:
Dự toán tiêu thụ là khởi đầu cho tất cả các dự toán, nó có tác dụng xác định
tiềm lực tiêu thụ của doanh nghiệp, từ đó làm cơ sở cho việc lập các dự toán mua
hàng, chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp, dự kiến đƣợc số tiền sẽ thu đƣợc từ
quá trình tiêu thụ sản phẩm.


15

Dự toán tiêu thụ đƣợc lập trên cơ sở dự báo sản phẩm tiêu thụ, số lƣợng sản
phẩm tiêu thụ của các kỳ trƣớc và xu hƣớng biến động của nó, các đơn đặt hàng
chƣa đƣợc thực hiện, chính sách giá trong tƣơng lai, chiến lƣợc tiếp thị để mở rộng
thị trƣờng, hoạt động nghiên cứu và phát triển, sự cạnh tranh. Tình hình kinh tế của
ngành mà doanh nghiệp đó đang hoạt động, những yếu tố khác: những sự kiện
chính trị, sự thay đổi về môi trƣờng pháp lý, sự thay đổi về khoa học công nghệ,…
1.2.3.2 Dự toán sản xuất
Dự toán sản xuất đƣợc lập trên cơ sở dự toán tiêu thụ sản phẩm trong kỳ dự
toán, bao gồm số lƣợng sản phẩm sản xuất ra phải đủ để thỏa mãn cho nhu cầu của
tiêu thụ và yêu cầu tồn kho cuối kỳ dự toán.
Nhà quản trị cần thiết phải dự kiến cả số lƣợng sản xuất ra trong kỳ và cả số
lƣợng sản phẩm tồn kho cuối kỳ dự toán. Nếu số lƣợng tồn kho đƣợc tính quá nhiều
thì có thể gây ra việc ứ đọng vốn và tốn kém chi phí để tồn trữ hàng tồn kho đó,
Còn nếu số lƣợng sản phẩm tồn kho đƣợc tính quá ít thì sẽ ảnh hƣởng đến việc tiêu
thụ và sản xuất của kỳ sau.
1.2.3.3 Dự toán mua hàng
Dự toán mua hàng phản ánh giá trị của hàng hóa mua vào
- Giá trị của hàng hóa mua vào bằng khối lƣợng hàng hóa mua vào nhân với
đơn giá.
- Mà: Khối lƣợng hàng hóa mua vào bằng khối lƣợng hàng hóa tồn kho
cuối kỳ cộng với khối lƣợng hàng hóa tiêu thụ trừ khối lƣợng hàng hóa tồn kho đầu
kỳ.
Dự toán mua hàng phản ánh lịch trình chi tiền mua hàng hóa trong doanh
nghiệp.
1.2.3.4 Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Dự toán nguyên vật liệu trực tiếp đƣợc lập trên cơ sở dự toán sản xuất sản
phẩm trong kỳ dự toán, bao gồm số lƣợng sản phẩm sản xuất ra phải đủ để thỏa
mãn cho yêu cầu của tiêu thụ và yêu cầu tồn kho cuối kỳ dự toán.
Chúng ta sẽ tiến hành xác định định mức trong sản xuất bao gồm định mức
lƣợng và định mức giá. Định mức lƣợng nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm

phản ánh lƣợng nguyên vật liệu tiêu hao cho đơn vị sản phẩm và những hao hụt


16
định mức không thể tránh đƣợc. Định mức giá cho một đơn vị nguyên vật liệu phải
bao gồm giá mua nguyên vật liệu cộng các chi phí mua và phải trừ chiết khấu đƣợc
hƣởng (chỉ tính số tiền thực trả cho nhà cung cấp).
- Khối lƣợng nguyên vật liệu cần mua bằng khối lƣợng nguyên vật liệu cần
cho sản xuất cộng với khối lƣợng nguyên vật liệu tồn kho cuối kỳ trừ khối lƣợng
nguyên vật liệu tồn kho đầu kỳ.
- Khối lƣợng nguyên vật liệu cần cho sản xuất bằng số lƣợng sản phẩm sản
xuất nhân với mức tiêu hao nguyên vật liệu cho một sản phẩm.
- Trị giá mua nguyên vật liệu bằng khối lƣợng nguyên vật liệu cần mua
nhân với đơn giá mua nguyên vật liệu.
Dự toán chi phí nguyên vật liệu thƣờng đi kèm với bảng tính toán số tiền dự
kiến chi ra cho việc mua nguyên vật liệu.
1.2.3.5 Dự toán chi phí nhân công:
Dự toán chi phí nhân công đƣợc lập trên cơ sở dự toán sản xuất. Dự toán chi
phí nhân công sẽ đƣợc soạn thảo để tính ra tổng lƣợng thời gian lao động cần thiết
cho quá trình sản xuất ra số lƣợng sản phẩm cần sản xuất trong kỳ dự toán dựa trên
báo cáo dự toán sản xuất. Nhà quản trị cần biết trƣớc nhu cầu lao động trong cả năm
để có thể dự toán điều chỉnh lực lƣợng lao động phù hợp với tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ dự toán.
Nhà quản trị cần xây dựng định mức thời gian lao động để sản xuất ra một đơn
vị sản phẩm và định mức đơn giá cho một đơn vị giờ công lao động. Định mức thời
gian lao động chính là tổng cộng định mức thời gian của tất cả các hoạt động trong
quá trình sản xuất để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm thƣờng đƣợc xác định bằng
phƣơng pháp bấm giờ. Định mức đơn giá cho một đơn vị thời gian lao động bao
gồm các khoản: mức lƣơng cơ bản cho một giờ; các khoản phụ cấp lƣơng và các
khoản trích theo lƣơng tính bình quân cho toàn bộ công nhân trực tiếp tham gia sản

xuất sản phẩm đó.
- Chi phí nhân công bằng định mức thời gian lao động nhân với đơn giá cho
một đơn vị thời gian lao động.
Dự toán chi phí nhân công thƣờng đi kèm với bảng tính toán số tiền dự kiến chi
ra cho việc trả lƣơng lao động trong kỳ.


17
1.2.3.6 Dự toán chi phí sản xuất chung:
Dự toán chi phí sản xuất chung sẽ cho thấy toàn bộ chi phí còn lại ngoài chi
phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công liên quan trực tiếp đến số lƣợng sản phẩm
đƣợc sản xuất ra trong kỳ dự toán. Các khoản chi phí sản xuất chung đƣợc chia
thành biến phí và định phí. Đối với biến phí sản xuất chung phải tính đơn giá phân
bổ biến phí sản xuất chung và định mức thời gian cho một đơn vị sản phẩm. Đối với
định phí sản xuất chung phải đƣợc ƣớc tính theo tổng định phí sản xuất chung trong
kỳ dự toán, có thể đƣợc tính toán theo kỳ trƣớc và điều chỉnh cho phù hợp với kỳ
này.
- Đơn giá phân bổ biến phí sản xuất chung bằng tổng biến phí sản xuất
chung chia cho tổng số giờ máy hoặc (tổng số giờ lao động trực tiếp).
- Biến phí sản xuất chung bằng tổng số giờ máy (hoặc tổng số giờ lao động
trực tiếp) trong kỳ dự toán nhân với đơn giá phân bổ biến phí sản xuất chung.
Khi tính lƣợng tiền chi cho chi phí sản xuất chung để làm cơ sở cho báo cáo
dự toán tiền thì cần loại bỏ các khoản chi phí sản xuất nhƣng không đƣợc chi bằng
tiền nhƣ là: chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí các khoản trích trƣớc…
1.2.3.7 Dự toán thành phẩm tồn kho cuối kỳ
Dự toán thành phẩm tồn kho cuối kỳ phản ánh 2 nội dung chính là:
- Phản ánh giá thành sản xuất đơn vị sản phẩm: giá thành sản xuất đơn vị
sản phẩm bằng chi phí nguyên liệu trực tiếp cộng với chi phí nhân công trực tiếp
cộng với chi phí sản xuất chung.
- Phản ánh giá trị của thành phẩm tồn kho cuối kỳ: giá trị của thành phẩm

tồn kho cuối kỳ bằng khối lƣợng thành phẩm tồn kho cuối kỳ nhân với giá thành sản
xuất đơn vị.
1.2.3.8 Dự toán chi phí bán hàng và Dự toán chi phí quản lý doanh
nghiệp:
Dự toán chi phí bán hàng và Dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp giúp nhà
quản trị ƣớc tính đƣợc khoản mục chi phí ngoài sản xuất phát sinh trong kỳ dự toán.
Dựa trên dự toán tiêu thụ sản phẩm trong kỳ dự toán cũng nhƣ nhu cầu quản lý của
doanh nghiệp, các khoản chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp sẽ phát
sinh trong kỳ dự toán. Dự toán có thể đƣợc lập từ nhiều dự toán nhỏ hơn hoặc các


18
dự toán của từng cá nhân do những ngƣời có trách nhiệm trong khâu bán hàng và
quản lý lập ra.
Khi tính chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp đƣợc chi trả bằng
tiền để phục vụ cho việc lập dự toán thì cần loại trừ khoản chi phí khấu hao trong
chi phí bán hàng ra.
1.2.3.9. Dự toán giá vốn hàng bán
Dự toán giá vốn hàng bán cho thấy đƣợc những khoản chi phí sẽ phát sinh liên
quan trực tiếp đến việc sản xuất sản phẩm trong kỳ. Dự toán này đƣợc lập dựa trên
dự toán sản xuất, dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, dự toán chi phí nhân
công trực tiếp và dự toán chi phí sản xuất chung trong kỳ dự toán. Tổng hợp các
khoản chi phí trực tiếp phát sinh liên quan đến sản phẩm đƣợc sản xuất ra trong kỳ
dự toán và việc phân bổ các khoản chi phí sản xuất chung liên quan đến việc sản
xuất sản phẩm trong kỳ dự toán sẽ đƣợc phân bổ theo tiêu thức phù hợp nhằm tính
đúng và tính đủ chi phí liên quan đến sản xuất.
- Giá vốn hàng bán bằng trị giá thành phẩm tồn kho đầu kỳ cộng với trị giá
thành phẩm nhập kho trừ trị giá thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
- Trị giá thành phẩm nhập kho bằng trị giá sản phẩm dở dang đầu kỳ cộng
với tổng cho phí sản xuất phát sinh trong kỳ trừ trị giá sản phẩm dở dang cuối kỳ.

- Tổng chi phí sản xuất phát sinh bằng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
trong kỳ cộng với chi phí nhân công trong kỳ cộng với chi phí sản suất chung trong
kỳ.
1.2.3.10. Dự toán tiền
Dự toán tiền cho thấy đƣợc nhu cầu tiền trong hoạt động chi tiêu hàng ngày
của doanh nghiệp từ đó có cơ sở cho việc huy động nguồn vốn cho doanh nghiệp.
Báo cáo dự toán các khoản nợ phải thu và nợ phải trả của doanh nghiệp trong kỳ dự
toán.
Dự toán tiền bao gồm 4 phần:
- Phần thu gồm số dƣ tiền đầu kỳ cộng với số tiền thu do bán hàng và các
khoản thu khác bằng tiền trong kỳ.
- Phần chi bằng tất cả các khoản chi tiền trong kỳ dự toán nhƣ là chi mua
nguyên vật liệu, chi trả lƣơng nhân công, các khoản chi bằng tiền liên quan đến chi


19
phí sản xuất chung, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Ngoài ra,
phần chi còn bao gồm cả các khoản chi khác trong kỳ nhƣ chi mua tài sản cố định,
chi trả cổ tức…
- Phần cân đối thu chi là phần chênh lệch giữa phần thu và phần chi. So
sánh phần cân đối thu chi và nhu cầu tiền cuối kỳ, nếu thiếu hụt tiền thì doanh
nghiệp phải đi vay, nếu thừa tiền thì doanh nghiệp nên trả bớt nợ vay hoặc đem đi
đầu tƣ.
- Phần vay phản ánh số tiền vay, trả nợ vay và trả lãi tiền vay trong kỳ dự
toán.
1.2.3.11. Dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đƣợc soạn thảo từ các dự toán
bộ phận liên quan, tiến hành tổng hợp các chỉ tiêu doanh thu, giá vốn hàng bán, chi
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí tài chính từ các báo cáo dự
toán có liên quan, từ đó có đƣợc các chỉ tiêu lợi nhuận gộp, lợi nhuận thuần từ hoạt

động kinh doanh. Dự toán này sẽ cho thấy đƣợc lợi nhuận dự kiến sẽ có đƣợc trong
kỳ dự toán ngân sách nhằm đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp có hiệu quả hay không trong kỳ tới.
1.2.3.12. Dự toán bảng cân đối kế toán
Từ bảng cân đối kế toán cuối kỳ trƣớc, chúng ta sẽ tiến hành tổng hợp các chỉ
tiêu liên quan từ các báo cáo dự toán phát sinh trong kỳ dự toán để có đƣợc bảng
cân đối kế toán phản ánh tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại cuối
kỳ dự toán. Dự toán bảng cân đối kế toán giúp nhà quản trị xác định tài sản và
nguồn vốn của doanh nghiệp tại thời điểm cuối kỳ dự toán.
1.2.4 Phƣơng pháp lập dự toán ngân sách
Có 4 phƣơng pháp lập dự toán ngân sách là: phƣơng pháp dự toán gia tăng,
phƣơng pháp dự toán từ số 0, phƣơng pháp dự toán cuốn chiếu, phƣơng pháp dự
toán dựa trên hoạt động.
1.2.4.1 Phƣơng pháp dự toán gia tăng
Phƣơng pháp dự toán gia tăng là một phƣơng pháp dự toán truyền thống mà
các mức dự toán đƣợc căn cứ trên kết quả các năm hiện hành cộng thêm một giá trị
phản ánh mức tăng ƣớc tính hay lạm phát ƣớc tính của năm tới.


20
Phƣơng pháp dự toán gia tăng thích hợp khi các mặt hoạt động năm hiện hành
hiệu quả, hữu hiệu và kinh tế. Phƣơng pháp dự toán gia tăng có nguy cơ tiềm ẩn
chất chứa các khoản chi tiêu lãng phí và không khuyến khích tính năng động, kéo
dài các hoạt động không hiệu quả trƣớc đây vì các mức chi phí hiếm khi đƣợc xem
xét kỹ lƣỡng.
Do vậy, để loại trừ những điều không hiệu quả, doanh nghiệp có thể sử dụng
các phƣơng pháp dự toán khác. Trong số các phƣơng pháp dự toán này là phƣơng
pháp dự toán từ số 0.
1.2.4.2 Phƣơng pháp dự toán số 0
Nguyên tắc của phƣơng pháp dự toán số 0 là dự toán cho từng trung tâm chi

phí phải khởi sự từ số 0. Từng khoản mục chi phí đều đƣợc đánh giá toàn bộ trƣớc
khi đƣợc đƣa vào bảng dự toán của năm tới.
Phƣơng pháp dự toán từ số 0 loại bỏ giả thiết cố hữu của phƣơng pháp dự toán
gia tăng, cho rằng các hoạt động của năm nay vẫn tiếp tục ở cùng mức độ hay cùng
mức sản lƣợng trong năm tới, và cho rằng dự toán năm tới có thể dựa vào chi phí
của năm nay cộng thêm một lƣợng giá trị nào đó để phản ánh sự phát triển hay lạm
phát.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhà quản trị không phải dự toán từ số 0 mà có thể bắt
đầu ở các mức hoạt động và chi phí thấp hơn, tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu một khía
cạnh cụ thể nào đó của chi phí và hoạt động hiện nay đƣợc loại bỏ khỏi dự toán. Với
cách này, có thể xem xét cặn kẽ từng khía cạnh dự toán, từ đó có thể chọn lựa
phƣơng án tốt hơn.
1.2.4.3 Phƣơng pháp dự toán cuốn chiếu
Phƣơng pháp dự toán cuốn chiếu (còn gọi là phƣơng pháp dự toán liên tục) là
các bảng dự toán đƣợc cập nhật thƣờng xuyên bằng cách bổ sung thêm một kỳ mới
(thí dụ, một tháng hay một quý) để thay thế kỳ vừa kết thúc.
Bằng cách thu ngắn các kỳ lập dự toán, phƣơng pháp lập dự toán cuốn chiếu
xây dựng các chỉ tiêu và kế hoạch có tính hiện thực và chắc chắn hơn, nhất là đối
với giá. Thay vì lập dự toán định kỳ hàng năm cho cả năm dự toán, phƣơng pháp dự
toán cuốn chiếu lập dự toán cho từng quý, hoặc thậm chí cho từng tháng. Mỗi bản
dự toán đƣợc lập cho 12 tháng sắp tới sao cho dự toán hiện hành có thể kéo dài


21
thêm một kỳ khi kỳ hiện hành kết thúc. Do vậy dự toán lập theo phƣơng pháp này
có tên gọi là dự toán cuốn chiếu.
1.2.4.4 Phƣơng pháp dự toán dựa trên hoạt động
Phƣơng pháp dự toán dựa trên hoạt động chỉ là việc sử dụng các số liệu chi phí
tính đƣợc theo phƣơng pháp tính chi phí dựa trên hoạt động để làm căn cứ lập dự
toán.

Nói một cách đầy đủ thì phƣơng pháp dự toán dựa trên hoạt động liên quan
với quá trình xác định các hoạt động giải thích cho các con số tài chính ở từng chức
năng và sử dụng mức hoạt động để quyết định nguồn lực phải đƣợc phân bổ bao
nhiêu, hoạt động đƣợc quản lý tốt nhƣ thế nào và giải thích các biến động so với dự
toán.
1.3 Đặc điểm của hoạt động sản xuất phân bón ảnh hƣởng đến việc lập dự toán
ngân sách
 Tính mùa vụ:
Ở Việt Nam có 3 mùa chính: vụ Đông (vụ mùa – tháng 10), vụ Đông – Xuân
(tháng 12 – tháng 1) và vụ Hè – Thu (tháng 5 – tháng 6). Trong đó vụ Đông Xuân là
vụ mùa chính trong năm, chiếm 40% diện tích thu hoạch, lƣợng phân bón sử dụng
trong mùa này luôn cao hơn hai mùa còn lại. Tuy nhiên, kỳ dự toán của Nhà máy
thƣờng kéo dài 1 năm, nhƣ vậy kỳ dự toán chƣa phù hợp với các vụ mùa trong năm.
 Giá nguyên liệu đầu vào:
Trƣớc đây, các doanh nghiệp sản xuất phân bón đƣợc trợ cấp bởi chính phủ
dƣới dạng mua giá nguyên liệu đầu vào với giá thấp hơn giá thị trƣờng. Tuy nhiên,
giá của những nguyên liệu này đang tăng lên mỗi năm theo đúng nhƣ lộ trình đƣợc
đƣa ra bởi thủ tƣớng chính phủ. Đồng thời, hiện nay giá khí đang tăng cao. Điều
này làm tăng chi phí nguyên liệu đầu vào gây ảnh hƣởng lớn đến việc lập dự toán
chi phí nguyên vật liệu và dự toán giá thành sản xuất của Nhà máy.
 Giá sản phẩm:
Hiện nay, giá phân bón trong nƣớc đang có xu hƣớng giảm giá. Nguyên nhân
là do giá phân bón thế giới giảm, lƣợng phân bón nhập khẩu tăng do Trung Quốc
giảm thuế xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nƣớc tăng công suất
thiết kế nhƣ Đạm Hà Bắc, Đạm Ninh Bình, Đạm Cà Mau. Điều này ảnh hƣởng đến


22
lợi nhuận của các doanh nghiệp phân bón trong thời gian tới. Vì vậy, Nhà máy cần
lập dự toán giá thành sản phẩm phù hợp, cắt giảm chi phí đến mức thấp nhất để hạn

chế việc gia tăng giá bán giúp sản phẩm của Nhà máy có thể cạnh tranh với các sản
phẩm cùng loại.
 Nguồn cung thị trƣờng:
Cả nƣớc có đến 500 doanh nghiệp sản xuất phân vô cơ và hàng nghìn doanh
nghiệp kinh doanh phân hữu cơ, vi sinh. Các doanh nghiệp sản xuất phân bón buộc
phải giảm giá bán để duy trì thị phần nếu các doanh nghiệp này không tạo ra bất kỳ
sự khác biệt nào trong chất lƣợng cũng nhƣ dịch vụ cung cấp so với các đối thủ
khác trên thị trƣờng. Cầu ổn định cùng với giá bán giảm khiến cho doanh thu bị sụt
giảm. Bên cạnh việc lập dự toán tiêu thụ hợp lý Nhà máy cũng cần lập các phƣơng
án kinh doanh hiệu quả, tìm kiếm thị phần mới để đạt đƣợc lợi nhuận nhƣ mong
muốn.
 Chính sách nhà nƣớc:
Trong những năm qua ngành phân bón đƣợc hƣởng lợi khá nhiều từ những
chính sách ƣu đãi của chính phủ. Tuy nhiên trong thời gian tới những chính sách
này sẽ dần dần bị cắt bỏ. Cụ thể: Nhà nƣớc sẽ không hỗ trợ giá nguyên liệu đầu vào;
Chính sách thuế mới đƣợc ban hành ngày 01/01/2015 quy định phân bón là mặt
hàng không chịu thuế giá trị gia tăng nên không đƣợc khấu trừ thuế giá trị gia tăng
đầu vào cho sản xuất và kinh doanh. Quy định này làm tăng giá thành sản phẩm
đồng thời làm giảm lợi nhuận. Nhƣ vậy, doanh nghiệp cần lập dự toán báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh một cách cụ thể và ƣớc tính chi phí chính xác để đạt đƣợc
mục tiêu kinh doanh đã đặt ra.


23
TÓM TẮT CHƢƠNG 1
Trong chƣơng 1 của luận văn, tác giả đã trình bày khái niệm, phân loại, mục
đích, chức năng và lợi ích của việc lập dự toán ngân sách. Đồng thời, tác giả cũng
trình bày về mô hình, quy trình, trình tự và phƣơng pháp lập dự toán ngân sách đối
với doanh nghiệp sản xuất. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận chung này là cơ sở cho
việc nghiên cứu và phân tích thực trạng công tác lập dự toán tại Tổng công ty Phân

bón và Hóa chất Dầu khí – Công ty cổ phần – Chi nhánh Nhà máy Đạm Phú Mỹ.


24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DỰ TOÁN NGÂN SÁCH TẠI
TỔNG CÔNG TY PHÂN BÓN VÀ HÓA CHẤT DẦU KHÍ – CÔNG TY CỔ
PHẦN – CHI NHÁNH NHÀ MÁY ĐẠM PHÚ MỸ
2.1 Giới thiệu chung về tình hình hoạt động của Nhà máy Đạm Phú Mỹ
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Tổng công ty Phân bón và Hóa
chất dầu khí – Công ty cổ phần (PVFCCo).
Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí có tiền thân là công ty Phân đạm
và Hóa chất Dầu khí, là đơn vị thành viên hạch toán độc lập thuộc Tập đoàn Dầu
khí Quốc gia Việt Nam.
Công ty đƣợc thành lập theo quyết định số 02/2003/QĐ-VPCP ngày
28/03/2003 của văn phòng chính phủ. Công ty bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày
19/01/2004.
Từ ngày 31/08/2007 Công ty Phân đạm và Hóa chất Dầu khí chính thức
chuyển đổi trở thành Công ty Cổ phần Phân đạm và Hóa chất Dầu khí và vận hành
theo mô hình công ty cổ phần.
Ngày 05/11/2007 Công ty chính thức niêm yết 380.000.000 cổ phiếu trên thị
trƣờng chứng khoán, với mã chứng khoán DPM.
Ngày 05/04/2008 Công ty Cổ phần Phân đạm và Hóa chất Dầu khí đã thống
nhất chuyển công ty này thành Tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ công ty con.
Ngày 15/05/2008, Công ty Phân đạm và Hóa chất Dầu khí chính thức chuyển
đổi thành Tổng công ty Phân đạm và Hóa chất Dầu khí – Công ty cổ phần.
 Thông tin chung về công ty
- Tên công ty: Tổng công ty Phân đạm và Hóa chất Dầu khí- Công ty cổ
phần
- Tên tiếng anh: Petrovietnam fertilizer and chermicals corporation.
- Tên viết tắt: PVFCCo

- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của sở kế hoạch và đầ tƣ Thành phố
Hồ Chí Minh cấp ngày 15/05/2008
- Vốn điều lệ: 3.800.000.000.000 (ba ngàn tám trăm tỷ đồng)


25
 Ngành nghề kinh doanh
- Sản xuất, kinh doanh phân đạm, các sản phẩm hóa chất phục vụ ngành
Dầu khí, nông nghiệp...
- Các dịch vụ kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh phân đạm và các sản
phẩm hóa chất khác có liên quan (trừ hóa chất có tính độc hại mạnh).
- Sản xuất và kinh doanh điện.
- Kinh doanh các ngành nghề khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngoài ra, PVFCCo còn có hệ thống kho bãi trải dài từ Bắc đến Nam, đảm bảo
đáp ứng nhu cầu về phân bón đúng thời điểm, vụ mùa.
 Các đơn vị thành viên của Tổng Công Ty Phân Bón và Hóa Chất Dầu
Khí (PVFCCo):
- Nhà Máy Đạm Phú Mỹ.
- Chi Nhánh PVFCCo tại Thành phố HCM.
- Chi Nhánh tại Campuchia.
- Văn Phòng đại diện tại Myanmar.
- CTCP Phân Bón và Hóa Chất Dầu Khí Miền Bắc.
- CTCP Phân Bón và Hóa Chất Dầu Khí Miền Trung.
- CTCP Phân Bón và Hóa Chất Dầu Khí Đông Nam Bộ.
- CTCP Phân Bón và Hóa Chất Dầu Khí Tây Nam Bộ.
- CTCP Quản lý và Phát triển nhà Dầu Khí Miền Nam.
- CTCP Bao bì Đạm Phú Mỹ.
 Chức năng và nhiệm vụ của Tổng công ty
- Tiếp nhận và vận hành nhà máy sản xuất phân Đạm Phú Mỹ.
- Tiếp nhận và vận hành nhà máy sản xuất phân Đạm Cà Mau.

- Sản xuất, kinh doanh phân đạm, amoniac lỏng, khí công nghiệp, các sản
phẩm hóa chất khác có liên quan.
- Xuất nhập khẩu phân đạm, các nguyên liệu để sản xuất phân đạm và các
sản phẩm hóa chất khác.
- Thực hiện các dịch vụ kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh phân đạm và
các sản phẩm hóa chất khác có liên quan.


×