Tải bản đầy đủ (.docx) (131 trang)

Văn hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp công nghệ thông tin trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.07 KB, 131 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Về tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là một lĩnh vực đa dạng và phức tạp. Có rất nhiều công trình
nghiên cứu về văn hóa của nhiều tác giả khác nhau đưa ra nhiều khái niệm,
các nội dung, các giá trị của văn hóa và cách thức phát triển của văn hóa như
thế nào. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh, việc phát huy đúng và có hiệu
quả các giá trị của văn hóa vào hoạt động của doanh nghiệp là những nhân tố
đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp như một cơ chế sống là vì con người làm cho doanh
nghiệp hoạt động và hình thành nề nếp đã mang lại ý nghĩa và mục đích cho
hoạt động của tổ chức. Văn hoá doanh nghiệp là tổng hợp các giá trị, chuẩn
mực, kinh nghiệm, cá tính và bầu không khí của doanh nghiệp mà khi liên kết
với nhau tạo thành “phương thức mà chúng ta hoàn thành công việc đó”.
Thực chất, văn hoá doanh nghiệp là cơ chế tương tác với môi trường.
Mỗi doanh nghiệp đều có một nề nếp tổ chức định hướng cho phần lớn
công việc trong nội bộ. Nó ảnh hưởng đến phương thức quyết định của nhà
quản trị, quan điểm của họ đối với những chiến lược và điều kiện môi trường
của doanh nghiệp. Nề nếp đó có thể là nhược điểm gây ra các cản trở cho việc
hoạch định và thực hiện chiến lược hoặc là ưu điểm thúc đẩy các hoạt động
đó. Các doanh nghiệp có nề nếp mạnh, tích cực có nhiều cơ hội để thành công
so với các doanh nghiệp có nề nếp yếu kém hoặc tiêu cực.
Đối với doanh nghiệp điều hết sức quan trọng là làm sao xây dựng
được một nề nếp tốt khuyến khích nhân viên tiếp thu được các chuẩn mực đạo
đức. Nếu nề nếp tạo ra được tính linh hoạt và khuyến khích việc tập trung chú
ý đến các điều kiện bên ngoài thì sẽ tăng cường khả năng của doanh nghiệp
thích nghi với các biến đổi môi trường. Một trong các bộ phận chính của các

1


nhà quản trị là phải hình thành được các giá trị phẩm chất của chức bằng cách


hướng sự lưu tâm chú ý của nhân viên vào những điều kiện quan trọng.
Văn hóa doanh nghiệp là một loại tài sản vô hình đóng vai trò quan trọng
trong quá trình định hình tầm nhìn, sứ mệnh và xây dựng thương hiệu của mỗi
doanh nghiệp. Việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp giúp các cơ sở sản xuất,
kinh doanh, cung cấp dịch vụ tăng thêm uy tín sức cạnh tranh trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp ngày càng
trở nên cần thiết và gặp không ít khó khăn. Theo các nhà nghiên cứu kinh tế,
đây chính là sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai. Bất kỳ một
doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu tố văn hoá, tri thức thì khó có thể đứng vững
được. Bất kỳ tổ chức nào cũng phải có văn hoá mới trường tồn được. Do đó, để
khẳng định vị thế của mình, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một
nét văn hóa riêng. Văn hóa kinh doanh được coi là yếu tố quan trọng góp
phần xây dựng hình ảnh, thương hiệu và tạo nên thành công của doanh nghiệp
trong môi trường kinh doanh hiện nay.
Nhiều tác giả cho rằng việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp đã trở
thành một phần không thể thiếu đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Việc
xây dựng văn hóa doanh nghiệp làm tăng khả năng cạnh tranh, giúp doanh
nghiệp có sức mạnh nội tại để có thể vượt qua khó khăn và khủng hoảng, giữ
chân được nhân lực chất lượng cao.
Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ cũng chú trọng tới việc phát
triển văn hóa doanh nghiệp, tuy nhiên điều này mới chỉ được thể hiện trong
một số văn bản quy phạm pháp luật, đến thời điểm này vẫn chưa có một chính
sách cụ thể nào hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng văn hóa doanh nghiệp.

2


Hầu hết các doanh nghiệp lớn đều tự nghiên cứu và đưa ra các chủ trương,
chính sách để phát triển văn hóa doanh nghiệp cho riêng mình.
Hiện nay, các công ty lớn đều có văn hóa doanh nghiệp phát triển

mạnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy, các tập đoàn kinh tế lớn trong nước như
VINGROUP, HUD, VINAMILK…. là những đơn vị có văn hóa doanh
nghiệp phát triển rất mạnh, trong những năm qua, nền kinh tế thế giới và
trong nước gặp khủng hoảng nhưng các đơn vị này luôn phát huy được sức
mạnh nội tại, vượt qua khó khăn và vươn lên trở thành đầu tầu, kéo theo sự
phát triển của các doanh nghiệp khác.
Với sự bùng nổ của công nghệ, trong khoảng 20 năm trở lại đây, các
doanh nghiệp công nghệ thông tin phát triển với số lượng lớn. Trong tổng số
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin hiện nay trên địa
bàn thành phố Hà Nội, doanh nghiệp chiếm tới 90% nhưng thị phần của các
doanh nghiệp này lại không nhiều. Thực tiễn cho thấy, các doanh nghiệp có thị
phần và phát triển mạnh là các doanh nghiệp lớn, với văn hóa doanh nghiệp
được quan tâm, phát triển mạnh như FPT, CMC, MISA JSC, Tinh Vân,
Viettel… từ đó đặt ra vấn đề là phải chăng phần lớn các doanh nghiệp công
nghệ thông tin chưa chú trọng tới việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp với
những đặc trưng nghề nghiệp?
Đề giải quyết vấn đề trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Văn hóa doanh
nghiệp trong các doanh nghiệp công nghệ thông tin trên địa bàn thành phố
Hà Nội" làm đề tài nghiên cứu và luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Quản trị
kinh doanh tại Trường Đại học Kinh tế với mong muốn áp dụng kiến thức, kỹ
năng được đào tạo vào việc giải quyết vấn đề thực tiễn, giúp các doanh nghiệp

3


công nghệ thông tin trên địa bàn thành phố Hà Nội có được những lợi thế cạnh
tranh để phát triển tốt hơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu :
Nghiên cứu để đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển văn

hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp công nghệ thông tin trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Nhiệm vụ nghiên cứu :
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Nghiên cứu, tìm hiểu, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn
đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp công nghệ thông
tin trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Khảo sát thực trạng xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong doanh
nghiệp công nghệ thông tin trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Đưa ra, quan điểm định hướng và một số giải pháp, đề xuất việc xây
dựng văn hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp công nghệ thông tin trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a, Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến văn hoá doanh
nghiệp.
Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp công nghệ thông tin, xoay
quanh việc xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp
b, Phạm vi nghiên cứu:

4


Về nội dung : Nghiên cứu thực trạng văn hóa doanh nghiệp tại các
doanh nghiệp công nghệ thông tin.
Về không gian : trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Về thời gian: nghiên cứu thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, số
liệu từ tháng 6/2014 đến tháng 10/2014 và đề xuất các giải pháp có ý nghĩa từ
nay đến năm 2020.

4. Đóng góp của luận văn.
Đề tài được nghiên cứu với mong muốn có một số đóng góp như sau :
- Nghiên cứu, tìm hiểu, hệ thống hóa một cách chi tiết các lý luận về
vấn đề văn hóa doanh nghiệp
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp
tại các doanh nghiệp công nghệ thông tin trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đồng thời nghiên cứu, tổng kết các kinh nghiệm triển khai từ một số doanh
nghiệp.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc xây dựng văn hóa
doanh nghiệp tại các doanh nghiệp công nghệ thông tin trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
thì luận văn gồm có 4 chương như sau:
CHƯƠNG I: Tổng quan tình hình nhiên cứu và cơ sở lý luận
CHƯƠNG II: Phương pháp luận và thiết kế nghiên cứu
CHƯƠNG III: Thực trạng văn hóa doanh nghiệp tại các doanh nghiệp
công nghệ thông tin trên địa bàn thành phố Hà Nội
CHƯƠNG IV:Định hướng và đề xuất một số giải pháp nâng cao văn
hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp công nghệ thông tin trên địa bàn
thành phố Hà Nội

5


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ
SỞ LÝ LUẬN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu xây dựng văn hoá doanh nghiệp nhận được sự quan tâm rất

lớn của các học giả, doanh nghiệp, các nhà quản lý. Có nhiều công trình
nghiên cứu về văn hóa doanh nghiệp của các tác giả nước ngoài như: “Chinh
phục các làn sóng văn hóa” của Fons Trompenaars và Charles Hampden
Turner; “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, 7 bước đến thành công” của tác
giả Andrian Gostick & Chester Elton; Terrence E.Deal và Allan A.Kennedy,
1982 với Văn hoá tổ chức; Bản sắc văn hóa doanh nghiệp của tác giả David
H. Maister; Văn hoá doanh nghiệp và sự lãnh đạo của tác giả Edgar
H.Schein; Chẩn đoán và thay đổi văn hoá tổ chức: Dựa trên khung giá trị
cạnh tranh của Kim S.Cameron và Robbert E.Quinn; “Nghệ thuật quản lý
những nguyên tắc để thu dụng và giữ được nhân viên giỏi nhất” của Jefferey
J.Fox,… Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những nội dung rất sâu
sắc và toàn diện của văn hóa doanh nghiệp, sự giao thoa giữa các nền văn hóa
doanh nghiệp được các tác giả rất quan tâm và đề cập rất nhiều, hầu hết các
tác giả đều cho rằng văn hóa doanh nghiệp là yếu tố không thể thiếu và cần
được coi trọng hàng đầu để doanh nghiệp tồn tại được và tạo lợi thế cạnh
tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, nghiên cứu xây dựng văn hóa doanh nghiệp cũng được
rất nhiều sự quan tâm của các tác giả và doanh nghiệp, đặc biệt là từ thời kỳ
đổi mới đến nay. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu của các tác giả về
văn hóa doanh nghiệp như: Văn hóa doanh nghiệp và triết lý kinh doanh của

6


PGS.TS Đỗ Minh Cương; Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của PGS.TSKH
Trần Ngọc Thêm; Nhân cách doanh nhân và văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế của GS.TS Phùng Xuân Nhạ; Văn
hóa Kinh doanh của PGS.TS Dương Thị Liễu; Đạo đức kinh doanh và văn
hóa công ty của PGS.TS Nguyễn Mạnh Quân; hay các công trình nghiên cứu

của TS. Nguyễn Viết Lộc như Những yếu tố tâm lý – xã hội cản trở đến văn
hóa doanh nhân Việt Nam trên Tạp chí Kinh tế phát triển, chuyên san tháng
6/2011, Tinh thần kinh doanh – cơ sở xây dựng hệ giá trị văn hóa doanh nhân
Việt Nam trên chuyên san Kinh tế và Kinh doanh, tập 27,số 4 năm 2011 của
tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nộị hay Luận án tiến sĩ Quản trị kinh doanh
với đề tài Văn hóa doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Đặc biệt trong ngành CNTT tại Việt Nam hiện nay, có nhiều tác giả trẻ
nghiên cứu về văn hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp lớn như FPT,
CMC, MISA JSC… để làm khóa luận tốt nghiệp hay luận văn thạc sỹ của
mình.
Các nghiên cứu trên đều cho thấy sự quan trọng của việc xây dựng văn
hóa doanh nghiệp, nhân tố sống còn để phát triển và tăng sức cạnh tranh trên
thương trường của các doanh nghiệp. Tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên
cứu về xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp
công nghệ thông tin trên địa bàn thành phố Hà Nội để đưa ra mô hình phát
triển và quy trình triển khai phù hợp với tiềm năng và thế mạnh của các doanh
nghiệp trên địa bàn thủ đô Hà Nội.

7


8


1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người 1.
Dưới mỗi góc nhìn và cách tiếp cận, mỗi tác giả nghiên cứu lại xem xét văn

hóa ở những khía cạnh khác nhau và có những khái niệm, định nghĩa khác
nhau. Nhìn từ khái niệm niệm rộng, mỗi xã hội nhất định được phân định rõ
bằng văn hoá đặc sắc.
Tuy có nhiều khái niệm về văn hóa, về cơ bản, các nhà nghiên cứu
thống nhất những phạm trù thuộc văn hóa, cụ thể: Văn hoá là tập hợp giá trị,
niềm tin, hiểu biết chung, suy nghĩ và các chuẩn mực cho hành vi được thừa
nhận chung bởi tất cả thành viên của xã hội. Mỗi cá nhân khó có thể xác định
rõ ràng chính xác văn hóa là gì nhưng có thể cảm nhận đó và cảm thấy nó.
Văn hoá cung cấp sự định hướng, hướng dẫn hành vi trong xã hội và đôi khi
không thể nhận thấy được một cách rõ ràng; và nó ảnh hưởng một cách sâu
sắc đến việc ra quyết định của mỗi cá nhân trong xã hội đó.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được
con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội”. Tác giả Tylor
đã đồng nhất khái niệm văn hóa và văn minh là một; Theo đó, nội dung của
văn hóa sẽ bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người,
từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Đây là khái niệm
được thừa nhận chung của nhiều người khi định nghĩa cảm quan về khái niệm
văn hóa – nó đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người.
1 Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.com

9


Năm 1921, F. Boas đưa ra định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản
ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân
cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong
mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với
những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”.

Năm 2002, UNESCO định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên
được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và
nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung
sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin..
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả kế thừa quan điểm tại
định nghĩa: văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
Về phân loại văn hóa, cũng căn cứ vào cách đánh giá và góc nhìn của
mỗi học giả, ta có sự phân chia về văn hóa bao gồm: Văn hóa tinh thần và văn
hóa vật chất; Văn hóa lý tưởng và văn hóa thực tế; Phân theo loại hình văn
hóa; Phân theo đối tượng hình thành văn hóa;
Văn hóa có 3 đặc tính cơ bản gồm: Tính hệ thống, tính giá trị và tính
lịch sử, tính nhân sinh.
Tính hệ thống: Ngay trong định nghĩa đã thể hiện điều này. Nó giúp
cho văn hóa thực hiện được chức năng tổ chức xã hội, góp phần tăng sự ổn
định của xã hội, cung cấp cho xã hội phương tiện cần thiết ứng phó với sự
biến đổi của môi trường tự nhiên và bản thân nó trong quá trình vận hành.
Tính giá trị: đặc tính này thể hiện qua sự phân loại về văn hóa. Nếu
chia văn hóa theo chất liệu thì văn hóa có giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Theo ý nghĩa, phân chia giá trị văn hóa thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức,

10


giá trị thẩm mỹ. Theo thời gian, phân chia thành giá trị vĩnh cửu, giá trị nhất
thời…
Tính lịch sử: Nó thể hiện ở chỗ văn hóa bao giờ cũng được hình thành
từ một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Chính đặc tính này tạo cho

văn hóa bề dày, chiều sâu. Trong quá trình vận động của xã hội, tính lịch sử
giúp văn hóa tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bổ lại các giá trị cho
phù hợp với thực tiễn đời sống. Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng
truyền thống văn hóa – với cơ chế tích lũy, truyền đạt kinh nghiệm qua không
gia và thời gian trong cộng đồng. Đặc tính tồn tại thông qua chức năng giáo
dục.
Tính nhân sinh: Văn hóa là một hiện tượng xã hội, là một sản phẩm
xuất phát từ hoạt động thực tiễn của con người. Đặc tính này cho phép phân
biệt văn hóa với những giá trị tự nhiên chưa mang dấu ấn của con người theo
tiến trình lịch sử.
1.2.1.2. Văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là góc nhìn nhỏ của khía cạnh văn hóa. Nó được
xem xét trên một cộng đồng người nhỏ có sự tương tác bởi các mối quan hệ
trong doanh nghiệp. Từ khái niệm về văn hóa đã được thừa nhận phần trên,
định nghĩa văn hóa doanh nghiệp được xem xét đến: Văn hóa doanh nghiệp
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do các cá nhân
trong doanh nghiệp sáng tạo và tích luỹ, kế thừa thông qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa các cá nhân đó với nhau và với môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân loại văn hóa doanh nghiệp – có thể thấy, văn hóa doanh nghiệp
khác văn hóa nói chung ở tính hữu hình đối với các thành tựu văn hóa. Nếu
như tác động của văn hóa đem lại cho xã hội nói chung sẽ bao gồm cả giá trị
vật chất và tinh thần thì văn hóa doanh nghiệp mang lại chủ yếu giá trị tinh

11


thần, từ đó, gián tiếp tác động vào hiệu quả, giá trị vật chất thu được của
doanh nghiệp. Từ nghiên cứu văn hóa doanh nghiệp trên góc độ quản trị chiến
lược, trong phạm vi luận văn, tác giả phân loại văn hóa doanh nghiệp với 03

loại hình chính, gồm: văn hóa mạnh và yếu; văn hóa kém hiệu quả; văn hóa
thích ứng2.
Trong đó, văn hóa mạnh là: là một tổng thể có kết cấu thống nhất và
mạnh mẽ, bao gồm 2 mối quan hệ bên trong và bên ngoài có tác động qua lại
với nhau.
Văn hóa yếu là: tồn tại bên trong nhiều văn hóa nhỏ, có ít các tiêu
chuẩn, giá trị và thói quen chung, truyền thống kinh nghiệm.
Văn hóa kém hiệu quả là: thường áp dụng đối với dạng sử dụng văn
hóa doanh nghiệp với mục đích thống trị tư tưởng. Phân tích sâu hơn đó là, tại
các doanh nghiệp đó các nhà quản trị tiến hành các quyết định theo hướng
thống trị duy nhất. Loại văn hóa này khiến cho doanh nghiệp luôn phải đối
mặt với sự biến đổi nhưng bản thân văn hóa nội tại của doanh nghiệp lại khó
biến đổi thích ứng. Văn hóa đề cao các nhà quản trị nắm rõ về công tác quản
lý hơn là các nhà quản trị hiểu về sứ mạng, tầm nhìn, các chiến lược, khả
năng cạnh tranh, … Dạng khép kín, không chịu tiếp thu học hỏi các chuẩn
mực và phương pháp khác bên ngoài tổ chức.
Văn hóa thích ứng là: Là loại hình văn hóa mà ở đó Các thành viên chia
sẻ những cảm nghĩ riêng để tổ chức có thể giải quyết bất cứ mối đe doạ nào,
dễ dàng tiếp thu và chấp nhận các tình huống nguy hiểm, sự thử nghiệm mới,
sự đổi mới, thay đổi các chiến lược và thói quen nếu như cần thiết nhằm đáp
ứng quyền lợi của các bên liên quan.
Quy chiếu các đặc tính cơ bản của văn hóa đối với văn hóa doanh
nghiệp có thể thấy, tính hệ thống của văn hóa doanh nghiệp cũng được thể
2 Bài giảng: Văn hóa doanh nghiệp & Lãnh đạo chiến lược trong thực thi chiến lược – Bộ môn Quản trị
chiến lược – Đại học Thương mại.

12


hiện thông qua các biểu hiện của từng cá nhân trong tổ chức. Cụ thể là mọi

hiện tượng, sự kiện thuộc nền văn hóa của một doanh nghiệp đều có liên quan
mật thiết với nhau. Theo đó, văn hóa doanh nghiệp được coi như là sự phức
hợp tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, cũng như
mọi khả năng và thói quen khác mà các thành viên trong doanh nghiệp tiếp
thu được từ giá trị cốt lõi có được từ doanh nghiệp đó.
Tính lịch sử: Văn hóa doanh nghiệp được hình thành, xây dựng và điều
chỉnh dựa trên nguyên tắc cơ bản của nhà quản trị, chịu tác động của văn hóa
dân tộc, luật pháp; kế thừa, tham khảo từ các mẫu khác và duy trì từ thế hệ
này sang thế hệ khác hoặc từ lớp nhân viên nọ đến lớp nhân viên kia. Tính
lịch sử thường biểu hiện ở các nội dung như nhân viên mới vào thừa kế các
giá trị đồng thời phải tuân theo, học cách thích ứng dần với văn hóa doanh
nghiệp đã và đang tồn tại.
Tính giá trị: Như đã nói ở trên, văn hóa doanh nghiệp khác với văn hóa
nói chung ở việc mang lại giá trị tinh thần lớn. Từ việc xác định chiến lược,
hoạt động và phương thức quản trị, hình thành các mục tiêu, tầm nhìn, sứ
mệnh… thúc đẩy tinh thần hoạt động của những người đang tồn tại tại văn
hóa doanh nghiệp đó để đạt được mục tiêu cuối cùng thông qua những chỉ số,
những hoạt động về tăng trưởng, doanh số, phát triển…
Cuối cùng, đặc tính nhân sinh lúc này với quy mô nhỏ hơn. Nó không
còn sử dụng đơn thuần giữa những giá trị văn hóa do con người xây dựng nên
với những giá trị có được từ tự nhiên hoang sơ. Đặc tính nhân sinh sẽ xác
định tính khác biệt giữa từng văn hóa doanh nghiệp khác nhau. Nó được đánh
giá bằng việc mục tiêu hướng đến, sứ mệnh hướng đến của doanh nghiệp có
“vị nhân sinh hay không”. Đồng thời, trong quá trình phát triển, đối với từng
thời kỳ, thời điểm quan trọng, đặc tính nhân sinh của văn hóa doanh nghiệp sẽ
là yếu tố then chốt để người lãnh đạo cũng như bản thân doanh nghiệp quyết

13



định được dạng văn hóa doanh nghiệp, chiến lược nào để áp dụng tăng cường
văn hóa doanh nghiệp. Theo đó, nó mang dấu ấn lịch sử của những người đã
từng là lãnh đạo của doanh nghiệp đó.
1.2.2. Công nghệ thông tin và Doanh nghiệp công nghệ thông tin
1.2.2.1. Công nghệ thông tin
Công nghệ Thông tin (CNTT)(Information Technology hay là IT) là
một nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để
chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin.
CNTT là ngành quản lý công nghệ và mở ra nhiều lĩnh vực khác nhau
như phần mềm máy tính, hệ thống thông tin, phần cứng máy tính, ngôn ngữ
lập trình nhưng lại không giới hạn một số thứ như các quy trình và cấu trúc
dữ liệu. Tóm lại, bất cứ thứ gì mà biểu diễn dữ liệu, thông tin hay tri thức
trong các định dạng nhìn thấy được, thông qua bất kỳ cơ chế phân phối đa
phương tiện nào thì đều được xem là phần con của lĩnh vực CNTT. CNTT
cung cấp cho các doanh nghiệp bốn nhóm dịch vụ lõi để giúp thực thi các
chiến lược kinh doanh đó là: quá trình tự động kinh doanh, cung cấp thông
tin, kết nối với khách hàng và các công cụ sản xuất.
Từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, Việt Nam đã có
những định nghĩa cơ bản về ngành này. Theo đó, CNTT là tập hợp các
phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ
yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức, khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm
tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. CNTT phục vụ
trực tiếp cho hoạt động cải cách trong quản lý Nhà nước, nâng cao hiệu quả
của các hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội
khác, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. CNTT

14



được phát triển trên nền tảng phát triển của các công nghệ Điện tử - Tin học Viễn thông và tự động hoá.
Trên thế giới, các lĩnh vực chính của CNTT được phân chia đơn giản
thành quá trình tiếp thu, xử lý, lưu trữ và phổ biến hóa âm thanh, phim ảnh,
văn bản và thông tin số bởi các vi điện tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính
và truyền thông.
Một vài lĩnh vực hiện đại và nổi bật của CNTT như: các tiêu chuẩn
Web thế hệ tiếp theo, sinh tin, điện toán đám mây, hệ thống thông tin toàn
cầu, tri thức quy mô lớn và nhiều lĩnh vực khác. Các nghiên cứu phát triển
trên thế giới hiện nay tập trung chủ yếu trong ngành khoa học máy tính.
* Vai trò của CNTT đối với đời sống xã hội
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ
của CNTT. CNTT đã ở một bước phát triển cao đó là số hóa tất cả các dữ liệu
thông tin, luân chuyển mạnh mẽ và kết nối tất cả chúng ta lại với nhau. Mọi
loại thông tin, số liệu âm thanh, hình ảnh có thể được đưa về dạng kỹ thuật số
để bất kỳ máy tính nào cũng có thể lưu trữ, xử lý và chuyển tiếp cho nhiều
người. Những công cụ và sự kết nối của thời đại kỹ thuật số cho phép chúng
ta dễ dàng thu thập, chia sẻ thông tin và hành động trên cơ sở những thông tin
này theo phương thức hoàn toàn mới, kéo theo hàng loạt sự thay đổi về các
quan niệm, các tập tục, các thói quen truyền thống, và thậm chí cả cách nhìn
các giá trị trong cuộc sống. CNTT đến với từng người dân, từng người quản
lý, nhà khoa học, người nông dân, bà nội trợ, học sinh tiểu học….Không có
lĩnh vực nào, không có nơi nào không có mặt của CNTT. CNTT là một trong
các động lực quan trọng nhất của sự phát triển…ứng dụng và phát triển
CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh
thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện
đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh

15



nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng và tạo khả
năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. (CT số 58-CT/TW ngày 17- 10- 2000 của BCT khoá VIII). Tác
động của CNTT đối với xã hội loài người vô cùng to lớn, nó không chỉ thúc
đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, mà còn kéo theo sự biến đổi trong
phương thức sáng tạo của cải, trong lối sống và tư duy của con người Trong
nền kinh tế tri thức, các quy trình sản xuất đều được tự động hoá. Máy móc
không chỉ thay thế con người những công việc nặng nhọc, mà thay thế con
người ở những khâu phức tạp của sản xuất và quản lý, không chỉ thay thế thao
tác lao động của con người mà cả thao tác tư duy. Trong nền kinh tế toàn cầu,
với sự phát triển của internet, thương mại điện tử đang trở thành một lĩnh vực
phát triển rất mạnh mẽ, nó thúc đẩy các ngành sản xuất dịch vụ trên phạm vi
toàn thế giới, và đặc biệt quan trọng với các nước đang phát triển, nhất là đối
với vùng xa xôi hẻo lánh, các nước và các vùng này có cơ hội tiếp cận thị
trường quốc tế. CNTT là chiếc chìa khoá để mở cánh cổng vào nền kinh tế tri
thức. Mạng thông tin là môi trường lý tưởng cho sự sáng tạo, là phương tiện
quan trọng để quảng bá và nhân rộng nhanh vốn tri thức, động lực của sự phát
triển, thúc đẩy phát triển dân chủ trong xã hội, phát triển năng lực của con
người…CNTT sẽ nhanh chóng thay đổi thế giới một cách mạnh mẽ, sự
chuyển đổi này có vị thế trong lịch sử như một cuộc cách mạng kinh tế - xã
hội và có ảnh hưởng to lớn đến đời sống con người. Đối với y tế, việc ứng
dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và CNTT đã trở thành một hình
thức phổ biến có tác dụng hỗ trợ kịp thời và thiết thực trong việc chữa bệnh
cho nhân dân. Ví dụ, hiện nay đã dùng công nghệ siêu âm 3D (ba chiều), hoặc
các bác sĩ có thể hội chẩn từ xa (thậm chí từ nhiều nước khác nhau trên thế
giới). Sử dụng CNTT để hỗ trợ về mặt kỹ thuật và phương pháp điều trị cho

16



những vùng xa trung tâm y tế đã mang lại giá trị to lớn về mặt tinh thần cũng
như vật chất cho nhân dân. Trong lĩnh vực Giáo dục, đào tạo việc ứng dụng
CNTT đã góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở các cấp, các bậc học,
mở rộng thêm nhiều loại hình đào tạo như đào tạo từ xa, phối hợp liên kết
giữa các trường, các Quốc gia với nhau đang nhằm đưa chất lượng giáo dục
của nước ta ngang bằng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính
phủ điện tử trên cơ sở điện tử hoá các hoạt động quản lý nhà nước đang hình
thành và ngày càng trở nên phổ biến. Mạng thông tin lớn và mạnh có thể nối
các cơ quan quản lý với đối tượng quản lý, giúp cho quá trình ra quyết định
được thực hiện nhanh chóng, kịp thời và chính xác và tiết kiệm thông qua các
hoạt động giao ban trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở theo định kỳ hoặc khi
có sự vụ đột biến xảy ra. Thương mại điện tử xuất hiện, khách hàng có thể
tiếp xúc và tìm hiểu mọi thông tin về công ty dễ dàng ở bất cứ nơi nào, lúc
nào. công ty sẽ nhận được phản hồi của khách hàng nhanh chóng về chiến
lược tiếp thị hoặc danh mục hàng hoá của các doanh nghiệp để từ đó có
những thay đổi về chiến lược kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu của thị
trường. An ninh quốc phòng cũng có những thay đổi cơ bản, CNTT đã tạo ra
những thế hệ vũ khí, phương tiện chiến tranh "thông minh", từ đó xuất hiện
hình thái chiến tranh, phương thức tác chiến mới, làm thay đổi sâu sắc học
thuyết quân sự của nhiều quốc gia. Sự phát triển của CNTT đã làm thay đổi
cơ bản cơ cấu kinh tế, phương thức tổ chức và sản xuất, cách tiếp cận của
từng người tới tri thức, giải trí, phương pháp tư duy và giải quyết công việc và
các mối quan hệ trong xã hội. Sáng tạo ra những giá trị mới và các việc làm
mới, cuộc cách mạng này sẽ mang lại những thị trường mới và những nghề
nghiệp mới với những đột phá công nghệ có tính thách thức đối với toàn thế
giới. Hơn nữa, chính bản thân CNTT đã trực tiếp tạo ra sự biến đổi lớn lao
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội loài người. Chưa bao giờ quá

17



trình dân chủ hoá lại được mở rộng và có nhiều điều kiện để thực hiện như
bây giờ. CNTT đi vào cuộc sống sẽ lan toả đến mọi nơi, mọi lĩnh vực, máy
tính sẽ có mặt ở khắp mọi nơi, việc kết nối mạng cũng trở nên dễ dàng và
thuận tiện nhất cho tất cả mọi người dân. Bên cạnh đó, mặt trái của CNTT ,
của nền kinh tế tri thức đang đặt ra những thách thức rất lớn, đó là sự cách
biệt giàu nghèo, sự phân hoá giữa một bên là các quốc gia, dân tộc biết nắm
bắt và khai phá những nguồn lợi từ CNTT , hạn chế những mặt tiêu cực mà
nó đưa lại với các quốc gia dân tộc không có hoặc chưa phát triển những công
nghệ đó. Vì vậy với sự phát triển như vũ bão của CNTT hiện nay, quốc gia
nào, dân tộc nào nhanh chóng nắm bắt và làm chủ được CNTT thì sẽ khai
thác được nhiều hơn, nhanh hơn lợi thế của mình. Và cũng chính từ đây nảy
sinh một thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển như nước ta đó là
làm thế nào để phát huy được thế mạnh của CNTT thúc đẩy sự phát triển của
xã hội mà không mất đi văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc. Sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay tất yếu phải khai thác được
những tiềm năng thế mạnh của CNTT, thúc đẩy những ứng dụng và phát triển
CNTT, coi đó là một điều kiện cần thiết để đạt được những mục tiêu của giai
đoạn đẩy mạnh nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.2.2. Doanh nghiệp Công nghệ thông tin
Doanh nghiệp: Theo Luật Doanh nghiệp thì “Doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh. Trong đó, quá trình kinh doanh thực hiện một cách liên tục, một
số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích để sinh lợi. Như
vậy doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức

18



doanh nghiệp thành lập công ty có các hoạt động không hoàn toàn nhằm mục
tiêu lợi nhuận.
Từ đó, có thể định nghĩa doanh nghiệp CNTT là: tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh liên
quan đến lĩnh vực cung ứng dịch vụ CNTT theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
1.2.2.3. Phân loại Doanh nghiệp Công nghệ thông tin
Do không tập trung sâu vào phân tích các chỉ tiêu về kinh tế nên tác
giả không phân loại doanh nghiệp theo các tiêu chí như: Theo bản chất kinh
tế của chủ sở hữu; Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp; Căn cứ vào
chế độ trách nhiệm. Theo mục đích nghiên cứu luận văn, tác giả phân loại
theo 1) quy mô doanh nghiệp, 2) theo lĩnh vực hoạt động CNTT
Phân loại theo quy mô doanh nghiệp
Theo khoản 1 điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của
Chính phủ thì Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh
doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa
theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được
xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình
quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Bảng 1.1. Phân loại doanh nghiệp theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP
Quy mô
Khu vực

Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Số lao động


Doanh nghiệp nhỏ
Tổng
nguồn vốn

Số lao
động

Doanh nghiệp vừa
Tổng nguồn
Số lao động
vốn

từ trên 10 từ trên 20 tỷ
I. Nông, lâm
10 người 20 tỷ đồng
người đến đồng đến
nghiệp và thủy sản trở xuống trở xuống
200 người 100 tỷ đồng
từ trên 10 từ trên 20 tỷ
II. Công nghiệp và 10 người 20 tỷ đồng
người đến đồng đến
xây dựng
trở xuống trở xuống
200 người 100 tỷ đồng

19

từ trên 200
người đến
300 người

từ trên 200
người đến
300 người


từ trên 10 từ trên 10 tỷ từ trên 50
III. Thương mại và 10 người 10 tỷ đồng
người đến đồng đến 50 người đến
dịch vụ
trở xuống trở xuống
50 người tỷ đồng 100 người
(Nguồn: cổng thông tin điện tử Chính phủ )
-

Phân loại theo ngành nghề thuộc lĩnh vực CNTT
Theo điều 47 và điều 52 của Luật công nghệ thông tin năm 2006, tác
giả phân loại như sau:
Doanh nghiệp CNTT là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp CNTT, ngành kinh tế - kỹ thuật công nghệ cao sản xuất và cung cấp
sản phẩm CNTT, bao gồm sản phẩm phần cứng, phần mềm và nội dung thông
tin số.
Phần cứng là sản phẩm thiết bị số hoàn chỉnh; cụm linh kiện; linh kiện;
bộ phận của thiết bị số, cụm linh kiện, linh kiện. Sản phẩm thiết bị số là thiết
bị điện tử, máy tính, viễn thông, truyền dẫn, thu phát sóng vô tuyến điện và
thiết bị tích hợp khác được sử dụng để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý,
lưu trữ và trao đổi thông tin số. Bao gồm, thiết bị điện tử nghe nhìn; thiết bị
điện tử gia dụng; thiết bị điện tử chuyên dùng; và thiết bị thông tin - viễn
thông, đa phương tiện
Phần mềm là chương trình máy tính được mô tả bằng hệ thống ký hiệu,
mã hoặc ngôn ngữ để điều khiển thiết bị số thực hiện chức năng nhất định.

Sản phẩm phần mềm là phần mềm và tài liệu kèm theo được sản xuất
và được thể hiện hay lưu trữ ở bất kỳ một dạng vật thể nào, có thể được mua
bán hoặc chuyển giao cho đối tượng khác khai thác, sử dụng.
Sản phẩm nội dung thông tin số là sản phẩm nội dung, thông tin bao
gồm văn bản, dữ liệu, hình ảnh, âm thanh được thể hiện dưới dạng số, được
lưu giữ, truyền đưa trên môi trường mạng.
Dịch vụ nội dung thông tin số là dịch vụ được cung cấp trên môi
trường mạng hoạt động trực tiếp hỗ trợ, phục vụ việc sản xuất, khai thác, phát

20


hành, nâng cấp, bảo hành, bảo trì sản phẩm nội dung thông tin số và các hoạt
động tương tự khác liên quan đến nội dung thông tin số.
1.2.2.4. Những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp CNTT
- Mới thành lập: trong vòng khoảng 20 năm trở lại đây
Về số năm hoạt động, các doanh nghiệp CNTT chủ yếu được thành lập
và hoạt động trong khoảng từ 10 năm trở lại đây, trong đó 36% số doanh
nghiệp có từ 5 đến 10 năm kinh nghiệm, 27% số doanh nghiệp có từ 2 đến 5
năm hoạt động. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trên 10 năm không
nhiều (chiếm khoảng trên 10%). Đặc biệt, số lượng các doanh nghiệp mới
thành lập là hoạt động trong khoảng 2 năm chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Những
doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực phần mềm và nội dung
số. Đây là những lĩnh vực có tiềm năng phát triển và có cơ hội cho các doanh
nghiệp mới thành lập, đặc biệt là những doanh nghiệp có những sản phẩm,
giải pháp công nghệ tiên tiến, phù hợp với xu hướng và nhu cầu thực tiễn của
xã hội.
Các doanh nghiệp chủ yếu hoạt động tại các quận nội thành Hà Nội do
thuận lợi về điều kiện giao thông, thuận tiện trong quá trình giao dịch... Tuy
nhiên, đây cũng là điểm hạn chế, đặc biệt đối với những doanh nghiệp hoạt

động trong lĩnh vực phần mềm, nội dung số do các lĩnh vực này chủ yếu cần
mặt bằng ở những khu vực yên tĩnh, xa trung tâm để thuận lợi trong quá trình
sản xuất, sáng tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Ngoài ra, việc các doanh nghiệp hoạt
động phân tán cũng là hạn chế trong việc trao đổi, gắn kết và tạo ra môi
trường làm việc cộng tác, tạo ra nơi giao dịch các sản phẩm, dịch vụ CNTT.
- Lực lượng lao động tương đối trẻ (đa số dưới 35 tuổi)
Các doanh nghiệp CNTT mới hình thành và phát triển trong khoảng
thời gian từ hơn 10 năm trở lại đây, nguồn nhân lực để phát triển ngành này
tương đối còn trẻ, đại đa số nằm trong khoảng từ 23 - 35 tuổi.

21


Dự báo trong tương lai 5 năm tới, các doanh nghiệp CNTT trong nước
có nhu cầu tuyển dụng tới hơn 400.000 người có trình độ chuyên môn về
CNTT.
Nguồn nhân lực này được đào tạo bài bản về chuyên môn và kỹ năng
làm việc. Trong ngành yêu cầu tư duy và sáng tạo nhiều như CNTT , đối
tượng này được đánh giá là có nhiều hoài bão, ước mơ, dám nghĩ dám làm và
chính điều đó là điều kiện cần thiết để phát triển ngành công nghiệp trẻ này.
- Đa số ở quy mô vừa và nhỏ:
Theo kết quả thống kê từ các doanh nghiệp CNTT qua khảo sát thì số
lượng lao động của các doanh nghiệp này như sau:
Bảng 1.2. Số lượng doanh nghiệp CNTT trên địa bàn TP Hà Nội
Thống kê số lao động
Tỉ lệ (%)
Tổng số lao động dưới 20
24.12
Tổng số lao động từ 20 đến dưới 50
28.51

Tổng số lao động từ 50 đến duới 200
18.86
Tổng số lao động có 200 lao động trở lên
8.77
Không khai báo
19.74
(Nguồn: Sở Thông tin và Truyền thông TP Hà Nội)
Qua số liệu trên có thể thấy, đa số các doanh nghiệp có qui mô vừa và
nhỏ. Số lượng doanh nghiệp có dưới 50 lao động chiếm trên 50%. Chỉ có
khoảng 8% số doanh nghiệp CNTT có trên 200 lao động. Số lượng nhân lực
của doanh nghiệp là một tiêu chí rất quan trọng thể hiện qui mô của doanh
nghiệp.
Về doanh thu của các doanh nghiệp CNTT:
Bảng 1.3. Phân loại Doanh nghiệp CNTT theo doanh thu (năm 2014)
Thống kê doanh thu
Tỉ lệ (%)
Doanh thu dưới 1 tỷ
4.39
Doanh thu từ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ
8.77
Doanh thu từ 5 tỷ đến dưới 15 tỷ
7.02
Doanh thu từ 15 tỷ trở lên
19.74

22


Thống kê doanh thu


Tỉ lệ (%)
Không khai báo
60.09
(Nguồn: Sở Thông tin và Truyền thông TP Hà Nội)
Có gần 20% doanh nghiệp có doanh thu trên 15 tỷ, 7% doanh nghiệp có
doanh thu từ 5 đến 15 tỷ và trên 13% doanh nghiệp có doanh thu nhở hơn 5
tỷ. Trong các nhóm lĩnh vực mà doanh nghiệp CNTT tham gia: đối với những
doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực phần cứng hoặc phần cứng và các
lĩnh vực khác như phần mềm, nội dung số thì thường có doanh số cao do tỷ
trọng doanh số của mảng phần cứng thường chiếm giá trị lớn. Các doanh
nghiệp CNTT tham gia lĩnh vực phần mềm chủ yếu thuộc nhóm doanh thu
cao từ 15 tỷ đồng trở lên (do tham gia hoạt động kinh doanh lĩnh vực phần
cứng hoặc lĩnh vực kinh doanh khác), hoặc thuộc nhóm doanh thu thấp dưới 5
tỷ đồng.
- Đa số thuộc loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, TNHH,
loại hình doanh nghiệp DN NN không nhiều.
Cùng với sự bùng nổ của internet vào đầu những năm 90 của thế kỉ 20,
số lượng các doanh nghiệp tham gia vào ứng dụng và phát triển CNTT ngày
càng nhiều. Các doanh nghiệp phần cứng cần nhiều vốn nên ngoài những
doanh nghiệp lớn, có vốn đầu tư nhiều thì đại đa số các doanh nghiệp trong
nước xác định lĩnh vực phần mềm và nội dung số là ngành chủ lực để phát
triển doanh nghiệp.
Bảng1.4: Tổng Số lượng doanh nghiệp đăng ký hoạt động lĩnh vực CNTT
2009
2010
2011
2012
2013
Công nghiệp
992

1273
2763
2431
2485
phần cứng
Công nghiệp
1756
2958
7044
7246
6832
phần mềm
Công nghiệp
2844
2312
3289
3883
4498

23


nội dung số
(Nguồn: Sách trắng CNTT Việt Nam 2014)
Từ năm 2011 đến 2013, tổng số lượng doanh nghiệp hoạt động trong
ngành công nghiệp phần mềm và nội dung số chiếm tới hơn 90% số lượng
doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp CNTT . Đại đa số các
doanh nghiệp này là doanh nghiệp tư nhân, hoạt động theo mô hình công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và một số hình thức khác. Bên cạnh đó,
có một số doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài có đầu tư vào

phát triển CNTT ở Việt Nam, tuy nhiên số doanh nghiệp này đa số hoạt động
trong ngành phần cứng – điện tử và phát triển dịch vụ CNTT .
1.2.3. Nội dung của văn hóa doanh nghiệp
1.2.3.1. Vai trò của văn hóa doanh nghiệp
Môi trường văn hoá của doanh nghiệp có ý nghĩa tác động quyết định
đến tinh thần, thái độ, động cơ lao động của các thành viên và việc sử dụng
đội ngũ lao động và các yếu tố khác, giúp cho doanh nghiệp trở thành một
cộng đồng làm việc trên tinh thần hợp tác, tin cậy, gắn bó, thân thiện và tiến
thủ. Trên cơ sở đó hình thành tâm lý chung và lòng tin vào sự thành công của
doanh nghiệp. Do đó nó xây dựng một nề nếp văn hoá lành mạnh tiến bộ
trong tổ chức, đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân trong doanh nghiệp, thu
hút nhân tài, tăng cường sự gắn bó người lao động, tạo ra khả năng phát triển
bền vững, văn hoá doanh nghiệp là tài sản tinh thần của doanh nghiệp và phân
biệt doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác tạo nên bản sắc (phong thái, sắc
thái, nề nếp, tập tục) của doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp di truyền, bảo tồn cái bản sắc của doanh nghiệp
qua nhiều thế hệ thành viên, tạo ra khả năng phát triển bền vững của doanh
nghiệp, truyền tải ý thức, giá trị của tổ chức tới các thành viên trong tổ chức
đó,văn hoá tạo nên một cam kết chung vì mục tiêu và giá trị của tổ chức, nó

24


lớn hơn lợi ích của từng cá nhân trong tổ chức đó, văn hoá tạo nên sự ổn định
của tổ chức.
Một khi doanh nghiệp sở hữu văn hóa mạnh và phù hợp với mục tiêu
và chiến lược dài hạn đã đề ra, điều này giúp tạo niềm tự hào của nhân viên
về doanh nghiệp. Thúc đẩy các cá nhân có các hoạt động hướng về doanh
nghiệp, đồng lòng trong việc hoàn thành mục tiêu chung của doanh nghiệp
một cách tự nguyện, giúp cho Lãnh đạo dễ dàng hơn trong công việc quản lý

công ty, nhân viên thoải mái và chủ động hơn trong việc định hướng cách
nghĩ và cách làm của mình, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp được xem xét trên các khía cạnh như: chất
lượng sản phẩm, chi phí, sự linh hoạt (trước phản ứng của thị trường), thời
gian giao hàng… Để có được những lợi thế này doanh nghiệp phải có những
nguồn lực như nhân lực, tài chính, công nghệ, máy móc, nguyên vật liệu,
phương pháp làm việc (phương pháp 5 M: man, money, material, machine,
method). Nguồn lực tài chính, máy móc, nguyên vật liệu đóng vai trò lợi thế
so sánh với đối thủ cạnh tranh trước khách hàng. Nguồn nhân lực đóng vai trò
tham gia toàn bộ quá trình chuyển hoá các nguồn lực khác thành sản phẩm
đầu ra.
Vì vậy, văn hóa doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong:
(1) quyết định tạo ra những lợi thế cạnh tranh như chất lượng sản
phẩm, thời gian giao hàng;
(2) tác động đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào yếu tố văn hoá doanh nghiệp.
(3) ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành mục tiêu, chiến lược và
chính sách;
(4) tạo ra tính định hướng có tính chất chiến lược cho bản thân doanh
nghiệp;

25


×