Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP LỒNG GHÉP NỘI DUNG GIÁO DỤC DINH DƯỠNG VÀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM CHO TRẺ 45 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 21 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cuốn những điều cần biết về trẻ thơ có viết: “Trẻ em là nguồn hạnh
phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc, trẻ em hôm nay là thế giới ngày
mai. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của đất nước, của toàn xã
hội và mỗi gia đình.”
Thật vậy, ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, nền kinh tế không ngừng phát triển vượt trội, với một sự thay đổi căn
bản về cơ cấu xã hội để tiếp cận với một nền văn minh phát triển cao. Thực hiện
nhiệm vụ của bộ giáo dục và đào tạo, ngành học mầm non đã đưa nội dung chăm sóc,
nuôi dưỡng vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Đây là việc làm vô cùng cần
thiết, nó không chỉ tạo được sự liên thông chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục từ độ tuổi
mầm non cho đến lứa tuổi học đường.
Bởi vậy, dinh dưỡng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của trẻ ở lứa
tuổi mầm non, là nhu cầu sống hàng ngày của con người, trẻ em cần dinh dưỡng để
phát triển thể lực và trí tuệ, còn người lớn cần dinh dưỡng để duy trì sự sống và làm
việc, hay nói cách khác dinh dưỡng quyết định sự tồn tại và phát triển của cơ thể.
Chính vì vậy chúng ta có thể khẳng định rằng: Dinh dưỡng vô cùng quan trọng đối
với đời sống của con người. Đặc biêt là đối với trẻ ở lưa tuổi mầm non.
Đây là việc làm vô cùng cần thiết đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non cả về thể lực
và trí tuệ. Nếu được chăm sóc, được nuôi dưỡng đầy đủ sẽ phát triển tốt, ít ốm đau,
bệnh tật, khỏe mạnh. Giáo dục dinh dưỡng ở lứa tuổi mầm non góp phần phát triển
toàn diện cho trẻ đó là:
Giáo dục dinh dưỡng giúp trẻ nhận biết, phân biệt được 4 nhóm thực phẩm
thông thường về nguồn gốc, theo nhóm, đăc điểm giống và khác nhau.Trẻ nhận biết
được các chất dinh dưỡng cơ bản, tác dụng của các chất đối với sự phát triển của cơ
thể, biết thành phần những món ăn quen thuộc, và các cách chế biến đơn giản.

1


Giáo dục dinh dưỡng giúp trẻ hình thành thói quen tốt, chia sẻ, giúp đỡ bạn bè,


biết yêu quý và tôn trọng người lao động, có ý thức tiết kiệm trong ăn uống, yêu quý
các con vật nuôi cây trồng, có ý thức bảo vệ chăm sóc môi trường sống.
Là một giáo viên mầm non, bản thân tôi luôn nhận thức sâu sắc được tầm quan
trọng của giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối vớí sức khỏe của
con người đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi mầm non, đây chính là độc lực thôi thúc tôi luôn
tìm tòi những giải pháp, biện pháp, nhằm nâng cao chhất lượng lồng ghép nội dung
giáo dục giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ đạt hiệu quả cao.
Và đây cũng chính là đề tài mà tôi chọn làm sáng kiến kinh nghiệm của mình.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống quốc dân, sự phát triển
của trẻ thời kỳ này có một vị trí đặc biệt quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ, có vai
trò quyết định, tạo tiền đề vững chắc cho phát triển về sau, xuyên suốt cả một đời
người. Vì thế mà nhà giáo dục nổi tiếng Macaenco nói:“Những gì mà trẻ không có
được trước 5 tuổi thì sau này rất khó hình thành và sự hình thành nhân cách ban đầu
bị lệch lạc thì sau này giáo dục lại rất khó”. Bà Crupkaia nêu: “ Những cảm giác
đầu tiên thời thơ ấu để lại dấu vết suốt đời, cho nên ngay từ buổi đầu ta phải thận
trọng ngay trong việc dạy trẻ, nếu ta nuốn giáo dục một cách đúng đắn lớp người
của chủ nghĩa công sản”.
Vì lứa tuổi này vốn có một tiềm lực mạnh mẽ nếu được giáo dục nuôi dưỡng
chăm sóc tốt, các cháu sẽ sớm phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm một cách đúng
hướng. Sức khỏe của trẻ em phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Chế độ dinh dưỡng,
phòng bệnh, di truyền, môi trường.. trong đó dinh dưỡng có vai trò quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của trẻ em. Thiếu ăn, ăn không đủ chất, ăn không có
khoa học, đều gây tác hại cho sức khỏe của trẻ. Lứa tuổi mầm non là giai đoạn cơ thể
phát triển rất mạnh, rất nhanh, các cơ quan của cơ thể đang trên đà hoàn thiện. Đây
cũng là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ.. sức khỏe là yếu tố có tính quyết định
đến sự phát triển của con người. Sức khỏe tốt tạo điều kiện cho con người phát triển
2



về thể chất nói chung, học tập và lao động nói riêng. Trong thời đại của nền văn minh
trí tuệ giáo dục mầm non đang có những chuyển biến mới về chất lượng, đổi mới
chung của ngành giáo dục. Dưới ánh sáng của Nghị quyết về công tác cải cách giáo
dục điều lệ trường mầm non cũng đãc nêu lên nhiệm vụ hàng đầu trong 4 nhiệm vụ
của trường mầm non, vì vậy việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhằm phát triển cân đối
hài hòa, nhằm chống đỡ bệnh tật. Vì thế nếu chúng ta chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh
không tốt về cá nhân trẻ, môi trường trong và ngoài lớp đều gây cho trẻ ốm đau, bệnh
tật, dẫn đến sự phát triển về thể chất bị kìm hãm, các quá trình tâm sinh lý đang trên
đà hình thành và phát triển cũng không thể nào phát triến trên một cơ thể gầy còm,
ốm yếu.
Từ những lý luận và thực tiễn trên, tôi đã xác định được có tới 90% trẻ em trí
tuệ kém phát triển là do sức khỏe, thể lực phát triển không tốt, vì vậy chúng ta cần
tránh một số quan điểm chưa đúng đối với ngành học mầm non đó là: Quan điểm
đánh giá về chất lượng, chỉ đánh giá về kết quả học tập của các môn như : Khám phá
khoa học, âm nhạc, tạo hình, toán .. mà chưa thực sự quan tâm đến công tác chăm
sóc, nuôi dưỡng và lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm cho trẻ ở trường mầm non. Điều kiện để trẻ sẽ được chăm sóc nuôi dưỡng chu
đáo, nuôi dạy con theo phương pháp khoa học, trẻ được phát triển cân đối giữa 2 mặt
thể lực và trí tuệ. Từ đó hình thành cho trẻ tình cảm yêu thương, nhường nhịn, giúp
đỡ lẫn nhau, biết kính trọng người trên, yêu quý mọi người xung quanh mình.
Chính vì vậy lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm cho trẻ trong các hoạt động trong ngày là việc làm vô cùng quan trọng vì sức
khỏe vốn là quý, qua đây tao điều kiện cho trẻ phát triển tốt cả về thể lực và trí tuệ
sau này.
II.THỰC TRẠNG.
Trường mầm non Xã Nga Điền là một trường đạt chuẩn quốc gia, năm học
2012-2013 trường được công nhận là trường tiên tiến cấp huyện. Hơn nữa được sự
quan tâm của phòng giáo dục huyện Nga Sơn, Các cấp ủy Đảng chính quyền địa
phương tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy

3


và học. Bên cạnh đó nhà trường lại có một đội ngũ cán bộ trẻ cốt cán có tinh thần
năng động nhiệt huyết, tận tâm với nghề, yêu trẻ. Đặc biệt là có kiến thức về vấn đề
dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Qua đó đã tạo được niềm tin cho các bậc phụ
huynh và nhân dân trong toàn xã.
Là giáo viên mầm non, được nhà trường phân công dạy lớp 4-5 tuổi với số trẻ
là 30 cháu. Phần lớn các cháu chưa được học qua lớp nhà trẻ và mẫu giáo bé mà lên
thẳng lớp 4- 5 tuổi, nên những năm đầu gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện
chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thế nhưng vấn đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đã được
phụ huynh học sinh quan tâm ủng hộ nhiệt tình. Bên cạnh đó vẫn còn một số phụ
huynh, các cấp các nghành vẫn còn coi nhẹ vấn đề này. Để đưa chất lượng giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm được nâng cao, bản thân tôi luôn coi trọng
chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm là một chuyên đề trọng
tâm của môn học. Vì trẻ em phát triển thể lực kém là do khẩu phần ăn của trẻ chưa
đáp ứng được nhu cầu là do nguyên nhân:
- Do tập quán ăn uống của một số gia đình.
- Ít cho trẻ ăn các loại gấc, cá, giầu thực vật.
- Chất lượng ăn uống còn phụ thuộc vào mức thu nhập của cha mẹ.
- Cha mẹ thiếu kiến thức, hiểu biết, cũng như kinh nghiệm về nuôi dưỡng,
chăm sóc trẻ.
- Một số bậc cha mẹ chưa thực sự quan tâm sức khỏe của trẻ, để trẻ ăn, ngủ, vệ
sinh tùy thích, mất vệ sinh, dẫn đến trẻ suy dinh dưỡng và mắc các bệnh như: ngoài
da, đau mắt, tiêu chảy, hô hấp..
Cho đến nay chuyên đề đã đươc tổng kết nhưng việc tổ chức và thực hiên
chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế, kết
quả đạt chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra.


4


* Kết quả kháo sát ban đầu cho thấy ( tháng 9 năm 2012)
Nội

Vệ sinh cá nhân

dung

Trẻ nhận biết

Trẻ kể tên các

được 4 nhóm

món ăn mà trẻ

thực phẩm

biết

Kết quả cân đo

Số lượng

T

K


TB



T

K

TB



T

K

TB



KBT

KSDD

CHSVT

T.Số 30

6


8

9

7

5

8

1

6

7

8

9

6

27

3

0

Tỷ lệ %


20

27

30

23

17

7

6

0

3

7

30

20

90

10

0


Qua bảng khảo sát cho thấy tổng số cháu có kiến thức về giáo dục dinh dưỡng
và vệ sinh an toàn thực phẩm còn hạn chế. Xuất phát từ thực trạng trên để nâng cao
chất lượng giáo dục dinh dưỡng và an toàn thực phẩm cho trẻ đạt kết quả cao hơn
nữa, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và biện pháp tổ chức thự hiện như
sau:
III.CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIÊN
Thông qua qúa trình tổ chức thực hiện chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm tôi đã có giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện mang lại
kết quả khả thi như sau:
1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩm.
Mặc dù chuyên đề đã được tổng kết, nhưng sức khỏe của con người là vô cùng
quan trọng, đặc biệt là trẻ em ở lứa tuổi mầm non thì vấn đề giáo dục dinh dưỡng và
vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn là vấn đề cấp bách nhất, nó luôn tác động và ảnh
hưởng trực tiếp đến trẻ. Chính vì vậy chuyên đề này luôn được nâng cao cả về kiến
thức và thực hành cho học sinh, phụ huynh và coi đây là chuyên đề trọng tâm của
năm học.
Để thực hiện tốt chuyên đề này ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch
một cách cụ thể, sát thực với tình hình thực tế của lớp mình phân công phụ trách
giảng dạy. Sau một thời gian khi xây dựng xong tôi đã đưa cho Ban giám hiệu và

5


hiệu phó chuyên môn bổ sung góp ý để thống nhất khẳng định mục tiêu, giải pháp
thực hiện.
Ngay sau khi được ban giám hiệu và hiệu phó chuyên môn nhất trí và góp ý tôi
đã xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, biện pháp, thời gian thực hiện và cụ thể
từng nội dung thưc hiện lồng ghép giáo dục, làm đồ dùng đồ chơi, bổ sung trang thiết
bị cụ thể từng tháng một rõ ràng

* Kết quả : Bản thân tôi đã dựng được kế hoạch thực hiện chuyên đề và đây
cũng là tiêu chí đánh giá xếp loại thi đua giáo viên trong năm học.
2. Lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm cho trẻ thông qua các hoạt động của môn học.
a. Giờ đón - trả trẻ:
Bản thân tôi thường cho trẻ xem tranh ảnh, trò chuyện với trẻ về các loại thực
phẩm mà trẻ biết, về tác dụng, lợi ích của thực phẩm đó đối với sức khỏe con người
phù hợp với chủ đề, giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường trong và
ngoài lớp và cả những nơi công cộng.
Ví dụ: Học ở chủ đề: “.Thế giới động vật”. Tôi cho trẻ làm quen với đồ chơi
mới do bản thân tôi tự làm về thế giới: Các con vật sống trong gia đình( con vịt, gà,
ngan, chim bồ câu, lơn..) các con vật sống dưới nước như: Các loài tôm, cua, ốc, các
loại cá: Cá nước ngọt, nước mặn, mà ở địa phương tôi không có như: cá chim, cá thu,
cá hồi… Sau đó tôi giới thiệu về tên gọi của từng loại cá và cho trẻ biết, các loại cá
này chỉ có ở vùng biển nên ở địa phương không có các loại cá này. Thịt, trứng của
các con vật: Vịt, gà, lợn,.. là loại thực phẩm chứa nhiều chất đạm.
- Ở chủ đề “Thế giới thực vật”. Tôi trò chuyện với trẻ về các loại rau, quả, như
tên gọi, đặc điểm,… là thực phẩm chứa nhiều VitaminA và muối khoáng, ăn các loại
rau củ quả giúp cơ thể tăng sức đề kháng, phòng chống bệnh tật. Nhưng trước khi ăn
phải rửa sạch quả, gọt vỏ, rửa tay, rửa chân, vệ sinh các dụng cụ chế biến. Đặc biệt
hơn là khi trẻ trực tiếp tham gia vào trò chơi phân vai: Trẻ vào vai cô bán hàng, người
mua hàng,... một cách thoải mái hứng thú nhưng đem lại hiệu quả giáo dục rất cao đó
6


là trẻ không những chỉ biết lựa chọn thực phẩm mà còn biết cách chế biến những món
ăn đơn giản. Ngoài ra trẻ còn biết được quy trình chế biến của từng loại thức ăn..
Bên cạnh đó tôi còn khuyến khích, động viên trẻ kể tên các món ăn mà trẻ biết
và để trẻ tự kể mình thích ăn những món ăn gì nhất, qua đó tôi cũng giới thiệu thêm
về tên các món ăn khác để góp phần làm tăng vốn hiểu biết phong phú về các món ăn

cho trẻ.
b. Hoạt động học có chủ định:
Tổ chức giờ hoạt động có chủ định là hoạt động chủ đạo để giúp tôi lồng ghép,
tích hợp giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ một cách tốt nhất.
Bởi vậy, căn cứ vào nội dung cụ thể của từng hoạt động mà tôi tiến hành lồng ghép
như sau:
* Với hoạt động khám phá khoa học( môi trường xung quanh):
Đây cũng chính là hoạt động giúp trẻ tiếp thu những kiến thức cơ bản về các
loại thực phẩm, các chất dinh dưỡng – sức khỏe và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thông qua các hoạt động cho trẻ khám phá về các loại rau, củ quả, các con vật
nuôi trong gia đình. Tôi dạy trẻ biết gọi tên các loại thực phẩm, tên gọi các món ăn
chế biến từ các loại thực phẩm ấy và giúp trẻ biết được các nguồn gốc các loại thực
phẩm có trong các loại thực phẩm đó.
Ví dụ : Bước đầu cho trẻ khám phá về các con vật nuôi trong gia đình cụ thể là
con vịt, hoặc (con gà mái), vịt, gà đẻ ra trứng, trứng là thực phẩm có nhiểu chất đạm,
ăn trứng giúp cơ thể lớn nhanh. Qua đó động viên khuyến khích trẻ chưa thích ăn
trứng để trẻ tự giác ăn, đồng thời giáo dục trẻ thích ăn các loại trứng gà, vịt, ngan …
ở mức độ vừa phải, nếu ăn trứng vịt, gà..hằng ngày và ăn quá nhiều, sẽ bị mắc bệnh
không tốt cho sức khỏe. Trứng có thể chế biến thành nhiều món ăn: Trứng rán, trứng
luộc, trứng nấu canh cà chua, trứng kho thịt, nấu đông..
* Với hoạt động tạo hình:
Thông qua hoạt đông tạo hình tôi cũng khóe léo lồng ghép giáo dục dinh
dưỡng: Giúp trẻ biết thêm về các loại thực phẩm, tên thực phẩm, đặc điểm thực
7


phẩm, các chất có bên trong thực phẩm đó. Trẻ được trức tiếp tham gia hoạt động
như:Vẽ, xé dán, cắt, nặn…Từ đó giúp trẻ nhớ lâu các thực phẩm đó.
Ví dụ: với hoạt động nặn “Cây cải” .Tôi cho trẻ gọi tên các loại rau: Rau ăn củ,
quả, lá, màu sắc, qua đó giáo dục trẻ ăn rau, củ, quả hàng ngày cung cấp nhiều vi ta

min a và muối khoáng, giáo dục trẻ trước khi ăn phải nhặt, rửa sạch và ngâm nước
muối, nấu chín. Nhặt rau song phải bỏ vào thùng rác, khi rửa rau phải biết tiết kệm
nước.
Ví dụ: Với hoạt động vẽ “Vườn cây ăn quả”. Với hoạt động vẽ “Vườn cây ăn
quả”.Tôi cho trẻ gọi tên các loại quả, màu sắc của các loại quả, đồng thời giáo dục trẻ
ăn quả cung cấp cho ta nhiều vi ta min, giáo dục trẻ trước khi ăn quả phải rửa sạch,
gọt vỏ, bỏ hạt, sau khi ăn song phải bỏ vỏ, hạt vào thùng rác, khi rửa tay, rửa quả phải
biết tiết kiệm nước.
Với hoạt động “xé dán củ cà rốt”. Tôi cũng cho trẻ gọi tên loại củ, màu sắc,
cho trẻ kể tên các loại rau ăn củ, qua đó giáo dục trẻ biết củ cà rốt là loại củ cung cấp
nhiều vi ta min a, giúp cơ thể nhanh lớn khỏe mạnh da dẻ hồng hào, mắt sáng. Đồng
thời giáo dục trẻ ăn nhiều cà rốt, khi ăn phải gọt vỏ, rửa sạch, nấu chín.
* Với hoạt động làm quen với tác phẩm văn học:
Văn học là tác phẩm nghệ thuật, ngôn ngữ của văn học là ngôn ngữ biểu cảm
lôi cuốn người nghe, các tác phẩm văn học có các tình huống hấp dẫn thu hút sự chú
ý của trẻ. Vì vậy những hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là những hoạt động
lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm một cách nhẹ nhàng và
thoải mái nhất, từ đó trẻ lĩnh hội nhanh những kiến thức mà cô truyền đạt.
Ví dụ: Qua câu truyện: “Bát cháo khi đói” trẻ biết phân biệt nguồn gốc của hạt
gạo, gạo nấu thành cơm nuôi sống con người, trong gạo có rất nhiều chất bột đường,
lúa gạo là do người nông dân trồng, chăm sóc, từ đó mà trẻ quý trọng hạt gạo hay nói
cách khác là quý trọng sản phẩm của người lao động làm ra, yêu quý người lao động
đã vất vả một nắng hai sương, đổ mồ hôi, sôi nước mắt để làm ra hạt gạo.

8


Hoặc khi dạy bài thơ: “Hạt gạo làng ta” của Nhà thơ: Trần Đăng Khoa. Để
lồng ghép phù hợp với ý tưởng của bài thơ tôi đã đưa giáo dục vào phần giới thiệu
bài: Cô cho trẻ nghe hát bài “ Hạt gạo làng ta” sau khi cho trẻ nghe song cô hỏi:

+ Bài hát nói về hạt gì?
+ Ai đã làm ra hạt gạo?
+ Gạo cung cấp chất gì?
Từ đó giáo dục trẻ biết gạo giầu chất bột đường cung cấp năng lượng giúp cơ
thể khỏe mạnh, gạo còn được chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như: Bánh
cuốn, bánh rán, bánh trưng, bánh nếp,bánh đa, bún, cháo, cơm rang….
* Thông qua hoạt động âm nhạc:
Âm nhạc là nhu cầu cuộc sống, là món ăn tinh thần không thể thiếu được với
đời sống con người. Âm nhạc là ngôn ngữ chung của nhân loại. Nếu cuộc sống mà
thiếu âm nhạc thì chẳng khác gì thiếu ánh sáng mặt trời. Đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi
mầm non. Chính vì vậy thông qua hoạt động âm nhạc là những hoạt động lồng ghép
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Giúp trẻ biết tên các loại quả, rau,
… có tác dụng, lợi ích.
Ví dụ : Dạy hát bài: “Quả” nhạc và lời: Xanh Xanh. Tôi lồng ghép giáo dục trẻ
để trẻ biết được có rất nhiều loại quả khác nhau, trẻ kể tên các loại quả có trong bài
hát và giáo dục trẻ biết trong các loại quả đó chứa nhiều vi ta mina và muối khoáng,
khi ăn phải rửa sạch, gọt vỏ, bỏ hạt, rửa tay sạch sẽ, khi ăn song bỏ vỏ vào thùng rác.
- Hoặc bài hát: “Bầu và bí”. Tôi cũng giáo dục trẻ biết tên gọi, đặc điểm của
các loại rau ăn quả, quả bầu và bí là loại quả cung cấp nhiều chất vi ta min a và muối
khoáng. Giáo dục trẻ ăn các loại rau hàng ngày giúp cơ thể khỏe mạnh.Qua đó trẻ biết
bỏ rác vào đúng nơi quy định, biết nấu chín khi ăn.
* Thông qua hoạt động làm quen với toán:
Ví dụ: Cho trẻ làm quen với số 5 chủ đề thế giới động vật, tôi sử dụng các
nhóm đồ vật gồm 5 con thỏ và 5 củ cà rốt để trẻ nhận biết và luyện tập số 5. Sau đó
tôi lồng ghép giáo dục dinh dưỡng bằng cách: Trò chuyện với trẻ , thỏ rất thích ăn cà
9


rốt vì cà rốt cung cấp chất vi ta min a, giúp da dẻ hồng hào, khỏe mạnh, mắt sáng….
Các con thích ăn cà rốt không? Ăn cà rốt cung cấp chất gì?...

Cứ như thế tôi nhẹ nhàng vận dụng, lồng ghép tích hợp giáo dục dinh dưỡng
vào các hoạt động, trẻ đạt hiệu quả rất cao, trẻ nhân biết tốt.
c. Hoạt động ngoài trời:
Tổ chức cho trẻ hoạt động ngoài trời cũng có ý nghĩa rất quan trọng, trẻ được
trực tiếp tham quan, dạo chơi ngoài trời, giúp trẻ biết tên các loại thực phẩm, trực tiếp
quan sát các đặc điểm của các loại thực phẩm
Ví dụ: Quan sát vườn rau trẻ được gọi tên các loại rau, quan sát đặc điểm của
các loại rau, củ, quả… Các con vật tôm, cua, cá, ốc, ngao,trai, gà vịt, ngan, ngỗng,
trâu bò, lợn…

10


( Hình ảnh : Cô và Bé chăm sóc vườn rau)
d. Tổ chức các trò chơi:
Tôi luôn tìm tòi những trò chơi phù hợp với hoạt động có lồng ghép giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ đó trẻ lĩnh hội được những kiến thức
một cách nhẹ nhàng, nhớ lâu. Tôi đã sử dụng các trò chơi : “Bé tập làm nội trợ”,
“Thi tài phân loại nhóm thực phẩm theo 4 nhóm chất”, “Bé thích ăn món nào”,
“Cùng mẹ đi chợ,” “ vườn rau sạch của bé,” “Trang trai gia đình”, “ Xếp chuồng
cho các con vật”, “ Thi tài chế biến món ăn”…
Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm vào
các hoạt động học có chủ định, việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi, tạo điều kiện để
trẻ tiếp thu và phản ánh những hiểu biết của mình về dinh dưỡng là hoạt động hết sức
quan trọng. Trẻ được tiếp xúc với các đồ vật đồ chơi, qua trò chơi tạo điều kiện cho
trẻ tự học hỏi nhau, thể hiện sự hiểu biết của mình về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm.
Thông qua các trò chơi, tôi tạo điều kiện để trẻ vui chơi với đồ chơi, khi trẻ gọi
tên các thực phẩm, trẻ học cách chế biến các món ăn và trẻ thực hiện các thao tác chế
biến món ăn, cách chế biến thực phẩm và vệ sinh thực phẩm, vệ sinh cá nhân và vệ

sinh chung.
đ. Với hoạt động góc
Việc tổ chức cho trẻ hoạt động góc với tất cả các góc mở giúp trẻ được trải
nghiệm hoạt động của người lớn, trẻ được làm thí nghiệm, từ đó giúp trẻ hiểu biết
thêm về dinh dưỡng.
* Qua hoạt động góc: Trẻ gọi tên các loại thực phẩm, biết đặc điểm của các
loại thực phẩm, trẻ tự học cách chế biến những thực phẩm thành những món ăn. Biết
cách tạo ra những thực phẩm trong cuộc sống, biết vệ sinh cá nhân và hành vi văn
minh.
Ví dụ : Ở góc phân vai trẻ mua hàng nuuốn mua loại thực phẩm gì thì hỏi
người bán hàng “Bác ơi bác có dứa không?” người bán hàng nhớ đặc điểm của quả
dứa mà lấy bán cho người mua hàng. Từ đó giúp trẻ biết tên và nhớ các loại rau củ
11


quả.

( Hình ảnh trẻ đang chơi bán hàng các loại rau củ quả)
Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ đóng vai con hỏi trẻ đóng vai mẹ: “Mẹ ơi! mẹ nấu
món gì đấy?” Mẹ trả lời: “Mẹ nấu nón tôm chiên”, từ đó giúp trẻ biết tôm được chế
biến thành các món ăn khác nhau. Cũng ở góc phân vai trẻ được trực tiếp chơi với
những dụng cụ nấu ăn bằng đồ chơi và biết cách thao tác các dụng cụ khi chế biến
thực phẩm.
Ví dụ: Khi thái thịt, làm cá, chặt xương,..phải cần dao và thớt.
Đồng thời trẻ cũng biết thao tác chế biến món ăn.
12


Ví dụ: Muốn nấu món thịt kho thì phải rửa sạch thịt, thái thịt, cho gia vị vào
kho.., ở góc xây dựng giúp trẻ biết cách tạo ra thực phẩm như tự trồng rau cải, tự

trồng rau ăn quả, nuôi các con vật, qua trò chơi xây dựng vườn rau, quả, khu chuồng
trại.., còn ở góc thiên nhiên trẻ lại được trực tiếp trồng và chăm sóc rau quả, chăm sóc
các vật nuôi, …
Còn ở góc học tập, góc nghệ thuật trẻ lại được chơi lô tô, được ra những bức
tranh, được đọc thơ ca dao, đồng dao, hò vè về các loại thực phẩm.
Từ đó giúp trẻ nhớ thêm về các loại thực phẩm, biết các loại thực phẩm được
phân thành 4 nhóm, trẻ biết thêm được tầm quan trọng của các chất đối với sự phát
triển của trẻ. Việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở hoạt động góc
có hiệu quả vô cùng to lớn để lại ấn tượng rất tốt cho trẻ.

13


( Hình ảnh: Bé tập làm nội trợ )
d. Thời điểm cho trẻ ăn:
Bên cạnh việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
vào các hoạt động trên, việc giáo dục dinh dưỡng ở giờ ăn cũng rất quan trọng và rất
thực tế đối vớ trẻ.
Ở giờ ăn: Trẻ học cách tự phục vụ bản thân, lấy ghế, bát, thìa.., trẻ còn giúp
nhau kê bàn ghế, biết vệ sinh cá nhân trước khi ăn, biết chào mời người khác trước
khi ăn, khi ăn trẻ biết giữ vệ sinh chung và những hành vi văn hóa khác..

14


Vào giờ chia ăn tôi luôn tranh thủ giới thiệu các món ăn cho trẻ và thành phần
các món ăn chứa nhiều chất gì? Tác dụng của chất đó đối với cơ thể trẻ, động viên trẻ
ăn món đó tập ăn dần, lúc đầu ăn ít sau đó ăn đủ..
Ví dụ: Tôi giới thiệu: Hôm nay các cô cấp dưỡng nấu cho các con ăn món
trứng rán thịt lợn, ăn trứng, thịt chứa nhiều chất đạm giúp cơ thể nhanh lớn thông

minh, học giỏi. Vì vậy các con ăn nhiều trứng, thịt nhé!.
Ngoài việc giới thiệu các món ăn cho trẻ tôi còn lồng ghép và cho trẻ thực hành
Giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ như: Cho trẻ thực hành một số thao tác rửa mặt, rửa

15


tay bằng xà phòng trước và sau khi trẻ ăn, và sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn…

( Hình ảnh Bé thực hành rửa tay, rửa mặt )
e. Hoạt động chiều:
Trong hoạt động chiều, khi trò chuyện với trẻ ở giờ trả trẻ tôi hỏi trẻ hôm nay
các con được ăn những món ăn gì? Cung cấp chất gì? Để trẻ nhớ được tên món ăn và
chất dinh dưỡng mà món ăn đó cung cấp. Đồng thời tôi cho trẻ quan sát tranh các loại
rau, củ, quả, các con vật, chơi các trò chơi phân loại các chất dinh dưỡng theo 4 nhóm
bằng lô tô, trò chơi bằng nhựa.
16


* Kết quả :Tôi đã lồng ghép giáo dục dinh dưỡng vào các môn học như làm
quen với tác phẩm văn học, môi trừng xung quanh, tạo hình, hoạt động góc, hoạt
động ngoài trời, làm quen với toán, thể hiện rõ nhất vào hoạt động vui chơi của trẻ đó
chính là: “ Bé tập làm nội trợ”. Qua hoạt động này nội dung giáo dục dinh dưỡng
được thể hiện một cách nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả cao, tối đã dạy trẻ biết cách sử
dụng thành thạo các đồ dùng như: Thớt, dao, muỗm, đũa.. ngoài ra còn biết chế biến
một số món ăn đơn giản thông thường.
- 100% các cháu nắm được kiến thức về 4 nhóm thực phẩm. Biết giữ gìn hành
vi trong ăn uống và vệ sinh thân thể.
3. Phát động phụ huynh, học sinh tìm kiếm, sưu tầm các bài thơ, bài hát,
câu truyện, tranh ảnh có nội dung về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.

Để được chuyển tải kiến thức dinh dưỡng và về sinh ăn toàn thực phẩm đến trẻ
không bị nhàm chán, cứng nhắc ngoài sự sưu tầm của tôi thì bên cạnh đó tôi cũng
phát động phụ huynh học sinh tìm kiếm sưu tầm các tranh truyện, sách truyện, bài thơ
câu đố, bài hát, trò chơi, tiểu phẩm và bài viết tuyên truyền về dinh dưỡng và an toàn
thực phẩm.
Ví dụ: Khi thực hiên chủ đề “ Thế giới động vật - thực vật” tôi tuyên truyền
với các bậc phụ huynh cho trẻ làm quen với các loại rau củ, quả, các con vật nuôi tại
gia đình. Hay còn phô tô sưu tầm các bài thơ bài hát câu chuyện có nội dung về dinh
dưỡng và sức khỏe để các bậc phụ huynh cho trẻ học tại nhà như câu truyện: “ Người
làm vườn và các con trai, hai anh em, cây khế, sự tích quả dưa hấu, sự tích bánh
trưng, bánh giầy”, thơ bắp cải, bác bầu, bác bí.., rong và cá, tìm ổ, chú bò tìm bạn,
giàn gấc,hạt gạo làng ta” , bài hát “tôm, cá, cua thi tài, năm ngón tay ngoan, mời bạn
ăn, tập rử mặt,.. cứ như vậy sẽ giúp trẻ khắc sâu kiến thức nhanh nhất.
Kết quả: Trong một năm học vừa phát động, bản thân tôi và tập thể phụ huynh
của lớp tôi đã thu được kết quả như sau:
* Sưu tầm được:
- 17 quyển sách truyện.
- 14 câu đố
- 8 bài hát.
- 2 bài viết tuyên truyền.
4. Làm đồ dùng đồ chơi phục vụ giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm
Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho
trẻ vào hoạt động trên , tôi luôn tìm tòi sáng tạo ra những đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp
dẫn, có tính thẩm mỹ cao có đầy đủ số lượng và nhiều chủng loại để trẻ được học,
đựợc trực tiếp hoạt động với đồ dùng đồ chơi giúp trẻ nhớ lâu và hiểu thêm về những
thực phẩm có trong cuộc sống của chúng ta.
Ví dụ: Tôi dùng ống nước rửa bát màu xanh lá cây làm sạch, sau đó cắt thành
hình lá bắp cải để trẻ ghép thành cây bắp cải, cắt thành nhiều loại rau, quả khác nhau
để trẻ được chơi, được trực tiếp hoạt động.

Tôi dùng các loại giấy màu phù hợp để bồi thành hình các loại quả cho trẻ học
và trẻ chơi như:quả xoài, cam, na, đu đủ, khế, dứa..
17


Ngoài ra tôi còn dùng các loại phế liệu có sẵn ở địa phương để cắt tạo ra những
con vật, những loại quả… phục vụ cho các hoạt động học tập, vui chơi và trưng bày
tại môi trường xung quanh lố đẹp, hấp dẫn, phù hợp với chủ đề như: Vườn cau, bộ
ấm chén, lợn con …
- Bên cạnh đó tôi dùng các loại mo cau phơi khô để làm các loại cá. Cắt hình
con cá vàng đang bơi, rong tạo thành bức tranh về các loại cá…
- Tôi còn dùng các vỏ con trai, hến làm các loại cua, bướm, các vỏ(hộp thuốc )
và xốp màu vàng, màu xanh tạo nên quả dứa.
* Kế quả: Bản thân tôi và trẻ đã làm được khá nhiều đồ dùng đồ chơi như:
- 20 con cua làm bằng vỏ trai và xốp màu.
- 25 cây bắp cải.
- 3 bức tranh bằng mo cau khô về các loài cá.
- 10 quả dứa
- 11 củ xu hào.
- 15 củ cà rốt.
- 16 con gà cuộn bằng len, xốp màu và vỏ hến.
5. Tự bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền cho bản thân
Công tác phối hợp vận động phụ huynh là dặc biệt quan trọng, vì thế bản thân
phải có kỹ năng tuyên truyền, trình bày chuyển tải nội dung đến phụ huynh một cách
tự tin lưu loát, thuyết phục làm cho phụ huynh hiểu vấn đề để có thái độ hưởng ứng
tốt tôi đã soạn thảo nội dung tuyên truyền sao cho ngắn gọn, thiết thực với nhu cầu,
lợi ích của phụ huynh.
Muốn làm được điều đó tôi phải vững vàng lập trường quan điểm, hiểu tường
tận chính xác vấn đề mình cần truyền đạt để có thể giải đáp thắc mắc khi phụ huynh
có yêu cầu.Những nội dung nào chưa làm cho phụ huynh thỏa mãn, thì hẹn ại đợi giải

pháp sau, đồng thời tôi luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của phu huynh có
như thể mới tạo được òng tin đối với họ để họ có thái độ hợp tác với nhà trường trong
công tác chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và vấn đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩm nói riêng. Các hình thức tổ chức tuyên truyền:

18


Tổ chức cho phụ huynh nghe báo cáo và tọa đàm về dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm như: “Giá trị kiến thức dinh dưỡng cho trể mầm non”, nấu ăn duy trì
dinh dưỡng, bệnh suy dinh dưỡng, bệnh viêm đường hô hấp,bệnh thủy đậu...
Các hình thức tuyên truyền còn thể hiên ở bản tin phụ huynh cần biết

Xem băng hình, nghe trên loa qua giờ đón trả trẻ, qua đài truyền thanh của xã
vào các buổi sáng, buổi tối. Qua việc tuyên truyền cho các bậc phụ huynh, kết quả về
giáo dục dinh dưỡng được nâng lên cụ thể là:
- Riêng bản thân tôi đã có kỹ năng tuyên truyền tốt
19


- 90% phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng về công tác chăm
sóc giáo dục trẻ góp phần thực hiện tốt chuyên đề.
IV. KIỂM NGHIỆM:
Có thể nói rắng sau khi áp dụng một số biện pháp trên, bản thân được trau dồi
kiến thức về nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ngoài ra bản thân luôn tự học hỏi đồng nghiệp, học hỏi kinh nghiêm của những
người đi trước, tìm tòi những biện pháp hay trong tài liệu sau đó áp dụng vào việc
chăm sóc giáo dục trẻ.
Được phụ huynh tín nhiệm, tin yêu, họ yên tâm công tác vì con họ có kiến thức
về dinh dưỡng, và an toàn thực phẩm, được chăm sóc tốt khi trẻ đến trường mầm non.

Với trẻ có những tiến bộ rõ rệt, trẻ có kỹ năng phân loại thực phẩm theo 4
nhóm, trẻ tự vệ sinh cá nhân, kể tên các món ăn mà trẻ biết
Đối với phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo điều kiện cùng cộng tác với các cô giáo để
việc giáo dục dinh dưỡng của trẻ đạt kêt quả cao.
* Sau khi áp dụng các biện phápvào tổ chức
sau:
Nội
Vệ sinh cá nhân
Trẻ nhận biết
dung
đươc 4 nhóm
thực phẩm
Số lượng T
Tổng số 11
30
Tỷ lệ % 37

K

TB



10

8

1


34

36

3

T

K

thực hiện tôi đã đạt được kết quả
Trẻ biết kể tên Kết qủa cân đo
các món mà trẻ
biết
T

K

TB



KTB

KSDD

2

12


10

8

0

29

1

0

6

40

34

36

0

97

3

0

TB




10 11

7

34 37

23

CHSVT

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN:
Qúa trình nghiên cứu, chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm, Ban giám hiệu trường Mầm non Nga Điền đã có kế hoạch cụ thể rõ ràng, triển
khai chuyên đề đến từng giáo viên một cách có hiệu quả. Thông qua đó bản thân tôi
đã nắm chắc được mục đích, yêu cầu nội dung của chủ đề đặt ra, để từ đó có phương
pháp, biện pháp tổ chức một cách đồng loạt, thiết thực. Nâng cao chất lượng giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ bằng cách lồng ghép nội dung giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm qua các hoạt động trong ngày cho trẻ,
cũng là nâng cao chât lượng hoạt động toàn diện. Và đây cũng là một trong những nội
dung trọng tâm cơ bản là một trong những tiêu chí xếp loại thi đua của trường.
II. ĐÊ XUẤT:
Đề nghị các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương, phối hợp với trung tâm y tế
dự phòng tỉnh, huyện quản lý chặt chẽ hơn nữa, tới chất lượng các nguồn thực phẩm
trên thị trường còn nhiều hàng nhái, hàng giả, kém chất lượng ảnh hưởng tới sức khoẻ
và đời sống của con người.
20



Tăng cường công tác phối kềt hợp giữa y tề dự phòng. Phòng chống suy dinh
dưỡng.
Thường xuyên mở các lớp bối dưỡng kiến thức về dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm cho tất cả các đối tượng tham gia trự tiêp công tác chăm sóc nuôi
dưỡng trẻ.
Tạo điều kiện vế cơ sở vật chất trang thiềt bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi trong
và ngoài lớp, trang thiết bị chăm sóc nuôi dưỡng, đồ dùng tiếp cận với công nghệ
thông tin để đảm bảo chăm sóc trẻ được tốt hơn.
Cần tổ chức hội nghị phụ huynh toàn trường tuyên truyền với các bậc phụ
huynh tăng thêm khẩu phần ăn cho các cháu để đảm bảo năng lượng hơn nữa cho các
cháu.
Phòng Giáo Dục : Thường xuyên tổ chức buổi tập huấn về dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm vào các dịp hè cho toàn bộ giáo viên trong huyện được tham
dự.
Trên đây là những kinh nghiệm qua quá trình thực hiện chuyên đề giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, rất mong được sự góp ý của Ban giám hiệu
nhà trường, cũng như các bạn đồng nghiệp để tôi tổ chức thực hiện tốt hơn “ Chuyên
đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm”
Tôi xin trân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Mai Thị Cam

Nga Sơn, ngày 12 tháng 4 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.


Trần Thị Trang

21



×