MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………...…1
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………1
1.2. Mục đích nghiên cứu..………………………………………………………1
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………….2
1.4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………...………….2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM………………………………….2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh ngiệm……………………………………..2
2.2. Thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại trường mầm
non Nga thiện trong những năm vừa qua………………………………………..3
2.2.1. Thuận lợi…………………………………………………………………..4
2.2.2. Khó khăn………………………………………………………………….4
2.2.3. Kết quả khảo sát ban đầu………………………………………………….5
2.3. các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi ở
trường mầm non Nga Thiện……………………………………………………..5
Biện pháp 1: Lựa chọn những nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp để dạy
trẻ...........................................................................................................................5
Biện pháp 2: Tích hợp giáo dục kỹ năng sống trong các nội dung, các hoạt động
giáo dục trong chương trình giáo dục Mầm non………………………………...8
Biện pháp 3: Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các hoạt
động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường………………….…………11
Biện pháp 4: Tích cực tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm trong thực tế tạo cơ
hội cho trẻ rèn luyện kỹ năng sống qua các tình huống………………………..13
Biện pháp 5: Sưu tầm các bài thơ, câu chuyện có nội dung giáo dục kỹ năng
sống ngoài chương trình để tạo môi trường giáo dục kỹ năng sống phong phú
cho trẻ…………………………………………………………………………..15
Biện Pháp 6: Phối hợp với gia đình, cộng đồng tạo môi trường giáo dục an toàn,
thân thiện……………………………………………………………………….17
2.4. Hiệu quả…………………………………………………………………...17
* Hiệu quả trên trẻ……………………………………………………………...18
* Hiệu quả của bản thân………………………………………………………..18
* Hiệu quả của đồng nghiệp……………………………………………………18
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ…………………………………………………..19
3.1. Kết luận……………………………………………………………………19
3.2. Kiến Nghị……………………………………………………………….....19
* Đối với phòng GD&ĐT………………………………………………………19
* Đối với nhà trường…………………………………………………………...19
* Đối với giáo viên……………………………………………………………..19
1
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Trong những năm gần đây, sự phát triển có tính đột phá và vượt bậc của kỹ
thuật khoa học, công nghệ và cả kinh tế - xã hội đã đưa con người lên một vị trí
văn minh cao nhất trong lịch sử hình thành và tồn tại của nhân loại. Song sự
phát triển của nguồn lực con người mới là yếu tố cốt lõi không thể thiếu trong
quá trình bắt kịp với nhịp sống thời đại. Do đó, để phát triển con người toàn
diện, sự phát triển đó phải được bắt đầu đặt nền móng từ sớm, từ khi còn ở lứa
tuổi Mầm Non.
Ở Việt nam, từ năm học 2008 - 2009, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu
cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động
giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý
thức sáng tạo. Trong các mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non (Ban
hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT- BGD&ĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009)
có mục tiêu giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục
tiêu trên, nội dung quan trọng cần đưa vào giáo dục trẻ là dạy một số kỹ năng
sống cho trẻ mầm non.
Về phía các bậc phụ huynh: Hiện nay, phụ huynh thường coi trọng văn hóa
của con hơn, hay nói đúng hơn là chạy theo “Thành tích”. Một số khác lại cho
rằng con nhỏ thì không nên bắt con vào khuôn phép mà mất đi nét hồn nhiên vì
vậy luôn bao bọc, nựng con, tất cả mọi việc đều làm giúp con.
Đối với giáo viên mầm non: Giáo viên thường luôn quan tâm đến việc làm
sao để kích thích tính tích cực học tập của trẻ, làm sao để trẻ được tham gia và
trải nghiệm vào các hoạt động vui chơi hay học tập tích cực để từ đó trẻ lĩnh hội
được các kinh nghiệm sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và sẵn sàng ứng phó với
các tình huống trong cuộc sống.
Đối với trẻ mầm non: Tình trạng trẻ còn thụ động, không biết ứng phó
trong các hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy
hiểm hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Có nhiều nguyên nhân khác nhau
nhưng trong đó việc thiếu kỹ năng sống là nguyên nhân sâu xa nhất.
Với vai trò là giáo viên lớp 5 – 6 tuổi, trong những năm học gần đây tôi
luôn lo lắng liệu học sinh của mình có đủ kỹ năng sống để ứng phó với những
tình huống trong thực tế, đặc biệt là khi trẻ bước vào lớp một hay không? Vì vậy
tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi tại trường mầm non Nga Thiện” làm đề tài nghiên cứu cho năm học này.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn ở trường
Mầm non Nga Thiện.
- Nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ mầm non.
2
- Giúp trẻ chuyển tải những gì mình biết (Nhận thức), những gì mình cảm
nhận (Thái độ), và những gì mình quan tâm( Giá trị) thành những khả năng thực
thụ giúp trẻ biết phải làm gì và làm như thế nào (Hành vi) trong những tình
huống khác nhau của cuộc sống hàng ngày. Từ đó phát triển toàn diện nhân cách
trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi và các hoạt động giáo dục giúp trẻ có kỹ năng sống
tích cực ở trường Mầm non Nga Thiện – Nga Sơn – Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích tổng hợp các tài liệu có liên
quan đến thực tiễn và công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra: Điều tra về mức độ trẻ đạt được các nhóm kỹ năng
sống. Tìm hiểu các biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
- Phương pháp quan sát: Quan sát các biểu hiện, hành vi, các kỹ năng của
trẻ thông qua ngôn ngữ và hoạt động hàng ngày.
- Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với các đồng nghiệp để trao đổi các
kinh nghiệm hay trong dạy kỹ năng sống cho trẻ. Đàm thoại với phụ huynh để
tìm hiểu đặc điểm của trẻ khi ở gia đình. Đàm thoại trực tiếp với trẻ trong quá
trình thực hiện các biện pháp giáo dục.
- Phương pháp trực quan: Bao gồm phương pháp làm mẫu, làm gương
giúp trẻ quan sát và bắt chước thực hành thường xuyên những kỹ năng sống cần
hình thành.
- Phương pháp thực hành: Trò chơi, giao việc, trải nghiệm. Những phương
pháp này giúp trẻ bắt chước, tập thử và tích cực thực hành thường xuyên các kỹ
năng sống giáo viên cần dạy trẻ.
- Phương pháp toán học: Xử lý những số liệu khảo sát, đã đạt được kết
quả, mức độ đạt được, để rút ra kinh nghiệm hay cho vấn đề nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
- Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là khả năng để có hành
vi thích ứng và tích cực giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu
cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
- Theo UNESCO, kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học
để biết, gồm các kỹ năng tư duy như: giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, ra
quyết định, nhận thức được hậu quả…; Học làm người gồm các kỹ năng cá nhân
như: Ứng phó với căng thẳng, giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác,
làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông; Học để cùng làm, gồm các kỹ năng
3
thực hiện công việc và các nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách
nhiệm.
Như vậy, kỹ năng sống là hành động tích cực, có liên quan đến kiến thức
và thái độ trực tiếp hướng vào hoạt động của cá nhân, hoặc tác động vào người
khác, hoặc hướng vào những hoạt động làm thay đổi môi trường xung quanh,
giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả các yêu cầu, thách thức của cuộc sống.
Lứa tuổi mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội những giá trị sống
để phát triển nhân cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành
và phát triển về các mặt thể chất, tình cảm - xã hội, ngôn ngữ, nhận thức, giúp
trẻ sẵn sàng đi học lớp một ở trường tiểu học sau này. Cụ thể là:
- Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo bền bỉ,
có khả năng thích ứng với thay đổi của điều kiện sống.
- Trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương, đồng cảm với mọi
người xung quanh.
- Có kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tôn trọng người
khác, có khả năng giao tiếp tốt, trẻ biết lắng nghe, nói năng lịch sự, hòa nhã, cởi
mở, ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt động học tập
ở lớp một như: Sẵn sàng hòa nhập, nỗ lực vượt qua, khó khăn để hoàn thành
nhiệm vụ, có trách nhiệm với bản thân, với công việc, với các mối quan hệ xã
hội…
Từ đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các nội dung đơn giản và
hết sức gần gũi, thiết thực với trẻ như: Giao tiếp và ứng xử phù hợp với những
người gần gũi xung quanh, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng học
tập. Các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau,
được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình huống nào
xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ có nhân
cách tốt
2.2. Thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại trường
mầm non Nga Thiện trong những năm học vừa qua.
Trường mầm non Nga Thiện thuộc xã đồng chiêm, là địa bàn kinh tế còn
gặp rất nhiều khó khăn, trường đang phấn đấu lên trường chuẩn. Đội ngũ cán bộ
giáo viên trẻ, trình độ đạt chuẩn trở lên. Ban giám hiệu nhà trường tích cực bồi
dưỡng cho Giáo viên về chuyên môn, xây dựng phương pháp đổi mới hình thức
tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi có đủ những
nguyên vật liệu, tài liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi cho trẻ.
Năm học 2015 - 2016 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 5 - 6 tuổi
với tổng số cháu là 29, trong đó có 15 cháu nữ, 14 cháu nam. Đa số trẻ ngoan
ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về tất cả các lĩnh vực, biết cảm thụ cái
hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh.
4
Trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại trường tôi gặp những
thuận lợi và khó khăn như sau:
2.2.1. Thuận lợi.
* Đối với trẻ:
Trẻ đã học qua lớp mẫu giáo nhỡ nên đã có kiến thức và kỹ năng nhất định.
Trẻ mạnh dạn ham học hỏi và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh.Các
cháu đã có một số kỹ năng nhận thức về bản thân, kỹ năng giao tiếp và quan hệ
xã hội, kỹ năng quản lí cảm xúc.
* Đối với giáo viên:
Là một giáo viên trẻ, năng động, có tâm huyết với nghề, có trình độ Đại
học, tích cực nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non từ
đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
* Đối với nhà trường:
Trường, lớp có đủ đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị cần thiết trong các hoạt
động chăm sóc và giáo dục trẻ. Không gian hoạt động sạch sẽ, an toàn, hệ thống
cống rãnh hợp vệ sinh.
* Đối với phụ huynh:
Sự “bùng nổ” nhu cầu học kỹ năng sống của trẻ em là một trong những dấu
hiệu đáng mừng của xã hội. Điều đó thể hiện sự quan tâm của các bậc phụ
huynh đối với việc giáo dục con em mình.
Phụ huynh luôn sát cánh cùng nhà trường cho nên công tác phối kết hợp
giữ gia đình trẻ và cô giáo đạt hiệu quả cao.
2.2.2. Khó khăn.
* Đối với trẻ:
Trẻ lớp tôi đa số là con em nông thôn nên sự hiểu biết về kỹ năng sống còn
nhiều hạn chế. Một số trẻ ngoan ngoãn và nhanh trí thì có nhiều kỹ năng cơ bản
tốt, với sự hướng dẫn, động viên của cô giáo trẻ luôn biết phát huy những kỹ
năng tốt đó. Ngược lại, một số trẻ nhận thức còn chậm hay nghịch ngợm thì kết
quả dạy kỹ năng sống của cô trên trẻ đó đạt kết quả thấp. Bên cạnh đó có một số
trẻ được bố mẹ và người thân cưng chiều khiến vốn kỹ năng sống của trẻ chưa
có.
* Đối với giáo viên:
Là một giáo viên trẻ mới vào nghề, chưa có nhiều kinh nghiệm.Thường chỉ
quan tâm đến việc truyền thụ kiến thức cho trẻ qua các giờ học ít chú trọng đến
việc rèn luyện kỹ năng sống.
Khối lượng công việc lớn, không có nhiều thời gian cho công tác phối hợp
với gia đình và xã hội trong việc giáo dục trẻ.
5
* Đối với nhà trường:
Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ
chức một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy Kỹ
năng sống cho trẻ còn hạn chế và chưa thường xuyên.
* Đối với phụ huynh:
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100% phụ
huynh là nông thôn. Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các
anh chị hoặc ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít.
2.2.3. Kết quả khảo sát ban đầu.
Xuất phát từ thực tế trên tôi đã tiến hành khảo sát lần 1 trên tổng số 29 trẻ
trong lớp với 5 nội dung để khảo sát trẻ 5 tuổi trong nhóm kỹ năng sống có thể
dạy cho trẻ em lứa tuổi mầm non như sau:
T
T
Nội dung khảo sát
Số
trẻ
Kết quả trên trẻ
Đạt
T
%
K
%
TB
%
CĐ
Y
%
1
- Nhóm kỹ năng nhận thức
bản thân
29
6
20,7 7 24,1 10 34,5
6 20,7
2
- Nhóm kỹ năng quản lí
cảm xúc
29
5
17,3 8 27,6 8
27,6
8 27,6
3
- Nhóm kỹ năng giao tiếp
và quan hệ xã hội
29
6
20,7 7 24,1 8
27,6
8 27,6
4 - Nhóm kỹ năng học tập
29
5
17,3 7 24,1 8
27,6
9
5 - Nhóm kỹ năng tương tác
29
5
17,3 5 17,3 7
24,1 12 41,3
31
Qua bảng khảo sát cho thấy kết quả chung trên trẻ còn thấp: Trẻ đạt (TốtKhá) chưa cao, tỷ lệ trẻ chưa đạt còn nhiều. Từ thực trạng trên để giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ tôi đã nghiên cứu tìm tòi sáng tạo và áp dụng các hình thức
giáo dục phù hợp giúp trẻ tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Từ đó giúp trẻ
phát triển một cách toàn diện hơn.
2.3. Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6
tuổi ở trường mầm non Nga Thiện.
Biện pháp 1: Lựa chọn những nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp
để dạy trẻ.
Việc lựa chọn những kỹ năng sống phù hợp để dạy trẻ có vai trò hết sức
quan trọng, không những giúp trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá trong
suốt năm học mà còn giúp trẻ rèn luyện các kỹ năng qua thực tế và học tốt khi
có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận
thức, cảm xúc và xã hội. Vì vậy tôi đã tiến hành dạy trẻ các kỹ năng sau:
6
* Kỹ năng sống tự tin:
Hình thành kỹ năng tự tin ghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về
cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác, trẻ tự tin làm theo ý
tưởng, tự tin bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà không e ngại. Do đó,
tôi luôn tôn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những khả năng của trẻ mọi lúc mọi nơi
một cách kịp thời và nói cho trẻ biết “Con có thể làm được”.
Ví dụ: Khi trẻ xung phong lên kể về ước mơ của mình trước cả lớp, tôi sẽ
khen ngợi là trẻ rất giỏi, rất mạnh dạn, tự tin và nếu ngay từ bây giờ con luôn
ngoan ngoãn, nghe lời người lớn và chăm chỉ học thì chắc chắn sau này ước mơ
của con sẽ trở thành sự thực. Để lần sau trẻ muốn và không e ngại khi nói lên trả
lời hay bày tỏ ý kiến của mình trước đám đông nữa.
Hình ảnh trẻ tự tin nói về mơ ước của bản thân
* Kỹ năng hợp tác:
Để dạy trẻ kỹ năng hợp tác tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm việc theo
nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động.
Ví dụ: Tổ chức cho trẻ chơi trò chơi “Đôi bạn hợp tác hoặc nhóm bạn hợp
tác”: Đôi bạn sẽ hợp tác để cùng chơi trò chơi đi guốc đôi thật khéo léo và ăn ý
nhau. Hoặc cho trẻ tìm thêm 1 số bạn để cùng nhau chơi trò chơi. Nhóm bạn sẽ
dùng những chiếc vòng thể dục xếp cạnh nhau sao cho thành 1 ống chui và 1
bạn còn lại sẽ thực hành chui qua cổng đó.
7
Hình ảnh trẻ chơi trò chơi đôi bạn, nhóm bạn
* Kỹ năng tự nhận thức bản thân:
- Kỹ năng này giúp trẻ nhận thức sự khác nhau giữa mình với các bạn khác,
nhận thức mỗi cá nhân có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những
suy nghĩ tích cực về bản thân mình. Trẻ nhận ra điểm yếu của mình cũng giúp
trẻ dự đoán được những khó khăn trong quá trình hoạt động từ đó tìm ra cách
khắc phục khó khăn đó.
Với vai trò là một người giáo viên, tôi luôn tôn trọng cá tính của từng cá
nhân trẻ trong lớp đồng thời dạy trẻ biết chấp nhận sự đa dạng của mình với các
bạn khác, từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp để hạn chế điểm yếu, phát huy
điểm mạnh của từng trẻ.
Ví dụ: Tôi đã trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua 1 số câu
hỏi như: Con là ai? Con thích gì và không thích gì? Con thấy mình có những
tính tốt đẹp nào?
8
Hình ảnh trẻ trò chuyện cùng cô
* Kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội:
Tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác từ
đó dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình, cách
giải quyết vấn đề.
Ví dụ: Có 2 trẻ đánh nhau, điều đầu tiên cần làm là hỏi hai trẻ lý do vì sao
lại như vậy để từng trẻ có cơ hội thể hiện suy nghĩ bằng lời nói về sự việc đó.
Sau đó giải thích cho trẻ hiểu bạn nào đúng, bạn nào chưa đúng. Giáo dục trẻ lần
sau chơi đoàn kết với bạn hơn.
* Kỹ năng học tập:
Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng
nhưng có vai trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa ở
trường phổ thông sau này. Với trẻ ở lớp tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác
định cụ thể mục tiêu, hướng dẫn cụ thể nội dung, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ
trao đổi cách thực hiện với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình,
đồng thời tôi cũng khuyến khích và tuyên dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ,
giúp đỡ những trẻ thực hiện kém, động viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao với tâm trạng thoải mái và hứng thú nhất.
Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình vẽ ngôi nhà (Theo đề tài). Tôi cho trẻ quan
sát và nhận xét một số tranh vẽ ngôi nhà đã chuẩn bị trước để gợi ý cách vẽ cho
trẻ. Trong quá trình trẻ thực hiện tôi bao quát để kịp thời tuyên dương những trẻ
có sáng tạo như biết vẽ thêm các chi tiết trang trí cho bức tranh, đồng thời giúp
đỡ những trẻ chưa biết cách thực hiện hoàn thành sản phẩm của mình.
Sau khi sử dụng biện pháp trên tôi thấy trẻ tự tin hơn, biết trao đổi, thảo
luận và hợp tác với nhau, hăng hái tham gia vào hoạt động học, từ đó trẻ n hanh
chóng thực hiện được mong muốn của mình đồng thời khả năng hòa nhập với
cộng đồng được nâng cao.
Biện pháp 2: Tích hợp giáo dục kỹ năng sống trong các nội dung, các
hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục Mầm non.
9
* Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động có chủ định
Hoạt động có chủ định là hoạt động giúp trẻ lĩnh hội được nhiều kiến thức,
kỹ năng sống. Những kiến thức mà trẻ lĩnh hội được đều có hệ thống, từ đơn
giản đến phức tạp và mang tính logic cao. Giúp trẻ học các kỹ năng sống nhanh
và chính xác nhất. Vì vậy, tôi đã tiến hành lựa chọn các nội dung phù hợp để
giáo dục trẻ thông qua các hoạt động có chủ định.
Ví dụ: Đối với hoạt động KPKH chủ đề “Gia đình” với đề tài “Tìm hiểu về
một số đồ dùng trong gia đình”. Ngoài việc cung cấp kiến thức cho trẻ để trẻ
hiểu tên gọi, đặc điểm, cấu tạo, chức năng của các đồ dùng đó. Tôi còn lồng
ghép vào đó những hình ảnh giáo dục an toàn cho trẻ khi chơi hoặc khi sử dụng
những đồ dùng hoặc cũng có thể dùng trò chơi cho trẻ phân loại hành vi đúng,
hành vi sai bằng cách dán hành vi đúng tương ứng với khuôn mặt cười, hành vi
sai tương ứng với khuôn mặt mếu.
Hình ảnh trẻ phân loại hành vi đúng - sai
Ví dụ: Với hoạt động khám phá khoa học “Một số hiện tượng tự nhiên”.
Tôi cho trẻ khám phá trải nghiệm các hình ảnh về mưa, các hiện tượng tự nhiên,
sấm, chớp, sét. Tôi tạo tình huống để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, để giúp trẻ
có kiến thức ứng phó với mưa, các hiện tượng tự nhiên đúng cách để bảo vệ sức
khỏe như: Khi trời mưa các con phải làm gì? (Mặc áo mưa, đội mũ); Khi có sấm
sét các con phải như thế nào? (Không đứng dưới gốc cây to).
Cứ như vậy thông qua các hoạt động có chủ định tôi khéo léo lồng các nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ
nhàng, thoải mái, không gò ép, thụ động. Từ đó, nhóm kỹ năng học tập của trẻ
cũng được nâng lên rõ rệt.
10
* Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi
Đối với trẻ mầm non, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ ở trường.
Thông qua hoạt động chơi, trẻ được đóng các vai khác nhau trong xã hội, trẻ
đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong cuộc sống. Tất cả những
kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có sẽ được trẻ thể hiện qua họat
động vui chơi. Chính vì vậy, tôi rất chú trọng đến việc tạo các tình huống khi trẻ
chơi để trẻ tìm cách giải quyết, cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được
những kiến thức mà trẻ đã có. Qua đó giúp trẻ phát triển các kỹ năng ý thức về
bản thân, quan hệ xã hội, giao tiếp, thực hiện công việc, ứng phó với những thay
đổi và có nhiều cơ hội được trải nghiệm.
Ví dụ: Ở trò chơi hoạt động góc, sau khi trẻ chơi xong, trẻ để đồ chơi bừa
bãi, tôi hỏi trẻ “Con đã cất đồ chơi chưa?”, “Con nhìn xem các bạn đang làm
gì?”, “Con cùng cất đồ chơi với các bạn nhé”. Dần dần tạo cho trẻ có kỹ năng
sắp xếp đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp, đúng nơi quy định.
Hình ảnh trẻ chơi hoạt động góc
Với trò chơi “Đi ô tô” ở hoạt động ngoài trời tôi cũng chú ý xem cách thể
hiện của trẻ để có những gợi mở kịp thời như: Các bác không được thò đầu, thò
tay ra ngoài khi xe đang chạy nhé.
Như vậy, bằng việc thực hiện các trò chơi tôi đều nhẹ nhàng giáo dục trẻ
các kỹ năng sống đơn giản qua việc tái hiện, mô phỏng các hoạt động của người
lớn, tạo ra “xã hội thu nhỏ” để trẻ được thực hành trải nghiệm và lĩnh hội kiến
thức cũng như rèn các kỹ năng sống khi tham gia vào các chơi. Từ đó, nhóm kỹ
năng hợp tác và nhóm kỹ năng tự tin cũng được hình thành và phát triển theo.
11
* Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Không chỉ trong hoạt động học, hoạt động vui chơi. Tôi còn tiến hành cho
trẻ rèn luyện kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động như: Giờ đón - trả
trẻ; Hoạt động tự chọn và hoạt động tích hợp lồng ghép vào các môn học khác.
* Ở hoạt động đón - trả trẻ
Trong thời gian này trẻ chưa thực sự bước vào hoạt động học nên tâm lý rất
thoải mái, cởi mở, không căng thẳng. Do đó tôi đã tiến hành trò chuyện với trẻ
những nội dung về chủ đề trẻ đang thực hiện.
Ví dụ: Ở chủ đề “Bản thân” khi đón trẻ vào lớp tôi nhắc nhở trẻ cất đồ
dùng cá nhân gọn gàng đúng nơi quy định. Đây cũng là lúc mà tôi rèn cho trẻ kỹ
năng sống gọn gàng ngăn nắp. Đồng thời giáo dục trẻ ứng xử giao tiếp có văn
hóa, chào hỏi lễ phép với cô giáo, bố mẹ, biết thưa gửi, gọi dạ, bảo vâng, biết
nhận lỗi khi mình mắc lỗi.
Việc cho trẻ rèn luyện kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi giúp trẻ được rèn
luyện các kỹ năng sống một các thuần thục hơn bên cạnh đó thì trẻ có thêm hiểu
biết về thế giới xung quanh trẻ một cách sâu rộng hơn. Nhờ đó khi bước vào giờ
học trẻ đã được rèn luyện kỹ năng tự tin để tham gia trả lời câu hỏi một cách sôi
nổi và hứng thú hơn. Và như vậy giờ học trở thành cuộc trò chuyện giữa cô và
trẻ chứ không mang tính áp đặt, gò bó.
* Ở hoạt động ăn – ngủ
- Trong giờ ăn: Tôi thường tạo ra các tình huống để giáo dục trẻ các nghi
thức văn hóa trong ăn uống và giao tiếp như: Phải ăn hết xuất, khi ăn không nói
chuyện riêng, khi ho, hắt hơi phải lấy tay che miệng, ăn chậm, nhai kỹ, không ăn
miếng to, ăn vội vàng, phải giữ gìn vệ sinh chung trong ăn uống, không làm cơm
rơi vãi. Trước khi ăn phải mời cô, mời bạn và mọi người xung quanh. Khi ăn
xong phải cất bát, thìa, ghế đúng nơi quy định, uống nước súc miệng và lau
miệng sạch sẽ.
- Trong giờ ngủ: Tôi cho trẻ làm vệ sinh cá nhân sau đó trẻ tự lấy gối, đi
ngủ đúng giờ, không nói chuyện, khi ngủ dậy biết cất gối, đồ dùng cá nhân gọn
gàng.
Như vậy, sau khi áp dụng biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông
qua hoạt động và ở mọi lúc mọi nơi tôi thấy trẻ tự tin hơn trong giao tiếp, sống
gọn gàng ngăn nắp, vệ sinh sạch sẽ đúng nơi quy định, thực hiện giờ nào việc
ấy, biết nhường nhịn bạn, vui chơi đoàn kết. Từ đó kết quả đạt được của nhóm
kỹ năng nhận thức về bản thân, nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội, cũng
như nhóm kỹ năng hợp tác ở trẻ cũng được hình thành và phát triển.
Biện pháp 3: Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các
hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Nội dung phong trào“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách
thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức
12
các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp
với lứa tuổi.
Cụ thể tôi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau:
- Tháng 10, với chủ đề Gia đình trẻ được đến thăm nhà bạn theo từng tổ,
từng nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có thể giúp
trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè
tại gia đình.
- Tháng 2 trẻ được đi vui chơi các trò chơi dân gian trong dịp đầu xuân
như: Nhảy lò cò, cướp cờ, chơi đu tại sân vận động hoặc nhà văn hoá xã, giúp
trẻ có dịp đến tham quan tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng ở địa phương.
- Tháng 2, tháng 3 trẻ được tham gia hội thi “Hội khỏe bé Mầm non” cấp
lớp và cấp trường, qua hội thi trẻ được tập luyện, được chơi các trò chơi tập thể,
được thể hiện mình, từ đó giúp trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp cũng như
trong các hoạt động tập thể.
Hình ảnh trẻ tham gia hội thi “Hội khỏe bé Mầm non” cấp trường
- Tháng 4, với chủ đề Quê hương – Đất nước trẻ được tham quan các công
trình công cộng (Như trạm y tế, Động từ thức, đền thờ Nữ tướng Lê Thị Hoa)
nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, giáo dục lòng yêu quê hương đất nước con
người.
13
Hình ảnh trẻ đi thăm đền thờ nữ tướng Lê Thị Hoa
- Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “Triển lãm tranh”, tổ
chức hoạt động phát triển tư duy qua một số hội thi có sự tham gia trực tiếp của
cha mẹ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn, kỹ năng hợp tác
với cha mẹ, ông bà để chiến thắng những yêu cầu thử thách của luật chơi, phát
triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.
Khi áp dụng biện pháp này vào giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi thấy trẻ
khỏe mạnh, nhanh nhẹn, hứng thú tham gia vào các hoạt động một cách tự tin
hơn, vui vẻ, sôi nổi, hòa đồng với bạn bè và cô giáo, luôn biết động viên nhau
gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách tốt nhất. Từ đó, làm giàu thêm kỹ
năng sống cho trẻ, trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, tham gia trò chơi một
cách thành thạo, tích cực tham gia các hoạt động do lớp, trường tổ chức và thành
tích đạt được của lớp luôn luôn dẫn đầu.
Biện pháp 4: Tích cực tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm trong thực
tế tạo cơ hội cho trẻ rèn luyện kỹ năng sống qua các tình huống.
Trước đây khi giáo dục kỹ năng sống và dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ
không an toàn và cách phòng tránh thì tôi thường giáo dục trẻ với những lời dặn
dò nhắc nhở đơn giản nên kết quả không cao, trẻ không được thực hành trải
nghiệm. Vì vậy, trong năm học này, tôi nghiên cứu lựa chọn những tình huống
bất trắc thường xảy ra đưa ra những tình huống cụ thể để dạy trẻ có kỹ năng ứng
biến khi gặp tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và giải quyết.
Từ những kiến thức về giáo dục kỹ năng sống đã được tôi cung cấp ở trên,
tôi luôn suy nghĩ tìm ra các tình huống tạo điều kiện để trẻ được thực hành trải
nghiệm trong thực tế như:
14
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Bản thân”. Trước đây thông qua câu chuyện
“Chú vịt xám” hoặc nội dung bài hát “Đàn Vịt con” tôi chỉ dùng lời giáo dục
trẻ:
+ “Khi đi chợ hoặc đến những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ, không
được chạy lung tung để khỏi bị lạc”.
Tôi chưa đưa ra tình huống dạy trẻ “Nếu chẳng may bị lạc trẻ sẽ phải xử lý
như thế nào?”.
Với cách giáo dục như vậy tôi thấy kết quả đạt trên trẻ chưa đạt hiệu quả.
Trẻ ghi nhớ một cách thụ động, và thường chóng quên. Và điều cốt yếu trẻ
không hiểu cốtlõi của vấn đề là tại sao không nên làm như vậy và nếu xảy ra thì
phải làm thế nào. Do đó ngoài việc giáo dục như vậy vào giờ hoạt động chiều,
tôi đã đưa ra tình huống:
+ “Khi bé đi chợ cùng mẹ mà bị lạc, bé sẽ làm gì?
Tôi đã cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết của riêng trẻ.
Lắng nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ và trả lời theo ý kiến của mình, gợi
mở cho trẻ bằng các câu hỏi:
+ Theo con làm như vậy có được không? Tại sao? Sau đó, tôi giúp trẻ rút ra
phương án tối ưu nhất:
+ “Khi bị lạc mẹ, các con hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung tung mà
hãy đứng yên tại chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ quay lại chỗ đó để tìm con. Tuyệt đối
không đi theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ. Vì có thể đó sẽ
là kẻ xấu lợi dụng cơ hội đó bắt cóc hoặc làm hại các con đó”.
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có
thể xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc, xâm hại. Tôi đã đưa ra những tình huống để
dạy trẻ như:
+ “Nếu có người không quen biết cho con quà thì con làm như thế nào?”
Ở tình huống này, với đặc điểm của lứa tuổi trẻ Mầm non là trẻ rất thích
khi được cho quà và sẽ không biết tại sao không được nhận. Khi trẻ thảo luận,
tôi đưa ra những giả thiết, những tình huống xấu:
+ “Nếu đó là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho các con”.
Tôi phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết đó là:
+ “Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể bị người
xấu tẩm thuốc mê và trúng mưu của kẻ xấu. Khi gặp trường hợp này bé nên nói
“Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”.
Với chủ đề “Gia đình”, ngoài việc giáo dục trẻ nhận biết và tránh những đồ
dùng nguy hiểm như bàn là, phích nước, bếp đang đun. Tôi đưa tình huống trẻ
biết tránh những mối nguy hiểm khác như:
+ “Nếu con đang ở nhà một mình, có người đến gọi mở cửa con sẽ làm gì?”
Tôi cho trẻ nói suy nghĩ, cách giải quyết của mình. Trong khi thảo luận với trẻ
tôi gợi mở: cũng có trường hợp kẻ xấu có thể gây hại cho bé hoặc lấy trộm đồ
15
của gia đình lại chính là người thu tiền điện, hoặc chính là người quen biết với
bố mẹ bé để giúp trẻ suy đoán tìm cách giải quyết. Sau đó tôi giúp trẻ rút ra
phương án tối ưu nhất trong trường hợp này:
+ “Tuyệt đối không mở cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ,
người thu tiền điện, hẹn họ nhắn lại gì hoặc tối đến gặp bố mẹ”.
Trong thời gian gần đây, cháy nổ là hiểm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi
nhà. Chính vì vậy, với trẻ mẫu giáo tuy trẻ còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng cũng
cần dạy cho trẻ một số kỹ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra. Tôi
đã đưa tình huống:
+ “Nếu bé thấy có khói, hoặc cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm thế nào?” Qua
tình huống này tôi dạy trẻ:
+ “Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu, trước hết bé phải chạy xa chỗ cháy.
Hãy hét to để báo với người nhà và những người xung quanh có thể nghe thấy.
Nếu không có người ở nhà thì chạy báo cho hàng xóm”.
Từ những tình huống cụ thể trong cuộc sống mà rất dễ xảy ra đối với trẻ,
bằng cách cho trẻ thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của
mình đã có để tìm cách giải quyết vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra
phương án tối ưu nhất, đó cũng chính là kinh nghiệm mà ta cần dạy trẻ. Thông
qua hoạt động đó cũng giúp trẻ có sự tư duy lôgic, có khả năng tư duy, so sánh,
phán đoán các vấn đề và đặc biệt hơn nữa là trẻ biết cách diễn đạt suy nghĩ của
mình, từ đó phát triển kỹ năng sống cho trẻ, đặc biệt nhóm kỹ năng nhận thức về
bản thân được phát triển mạnh.
Biện pháp 5: Sưu tầm các bài thơ, câu chuyện có nội dung giáo dục kỹ năng
sống ngoài chương trình để tạo môi trường giáo dục kỹ năng sống phong phú
cho trẻ.
Trước đây thông qua nội dung các bài thơ, câu chuyện, có nội dung giáo
dục kỹ năng sống. Song trên thực tế, trong chương trình số lượng bài hát, bài
thơ, câu chuyện có nội dung đó còn hạn chế.
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là rất thích nghe kể chuyện.
Nội dung các câu chuyện thường để lại ấn tượng cho trẻ khó phai mờ. Chính vì
vậy tôi đã sưu tầm một số câu chuyện phù hợp lồng vào đó các tình huống để
giáo dục trẻ. Giúp trẻ tiếp nhận một cách hứng thú, tự nguyện.
Trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, có rất nhiều tình huống bất trắc trẻ
rất dễ gặp, tuy nhiên chúng ta ít khi đưa vào dạy trẻ.
Với chủ đề “Giao thông” tôi đưa tình huống và giáo dục cho trẻ qua các
câu chuyện sưu tầm. Tôi trình chiếu cho trẻ xem các hình ảnh không an toàn,
các hành vi đúng, sai khi tham gia giao thông. Tôi nhấn mạnh vào những tình
huống không an toàn trong mỗi câu chuyện như sau:
CHUYỆN: “CHIẾC MŨ BẢO HIỂM”
Chuyện kể về bạn Hải khi được mẹ đưa đến trường đã quên mũ bảo hiểm,
nhưng Hải nhất định không cho mẹ quay về lấy. Thế rồi Hải và mẹ đã bị ngã xe,
16
rất may không xảy ra hậu quả nghiêm trọng. Mẹ ân hận xin lỗi chú công an và
nói với Hải:
- Mẹ con mình lần sau dù có vội hay muộn đến mấy cũng phải nhớ đội mũ
bảo hiểm con nhé!
Bé đội mũ bảo hiểm trước khi đi xe máy
Sau khi cho trẻ nghe chuyện và trò chuyện với trẻ về nội dung câu chuyện,
tôi thấy có nhiều cháu cũng nhận là thường xuyên không đội mũ bảo hiểm khi đi
xe máy đi học. Sau đó, nhiều bậc phụ huynh đã chia sẻ với cô giáo: Bản thân
phụ huynh cũng ít khi nhớ cho con đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy đến trường,
bởi một phần vướng, một phần công an thường không phạt trường hợp này nên
các phụ huynh cũng hay bỏ qua. Nhưng bây giờ, các con đòi đội mũ bảo hiểm
khi đi học. Tôi thấy rằng, qua câu chuyện trẻ đã nhận thức được sự cần thiết của
việc đội mũ bảo hiểm khi đi xe. Biết được nếu không thực hiện tốt thì có thể xảy
ra rủi ro như thế nào. Từ đó tạo cho trẻ ý thức chấp hành luật giao thông từ bé.
Với chủ đề “Bản thân” tôi đưa tình huống và giáo dục cho trẻ qua câu
chuyện:
CHUYỆN: “Ổ KHOÁ”
Chuyện kể về bạn Kiên được mẹ đưa đến nhà người quen chơi. Khi vào
nhà vệ sinh để rửa tay bạn Kiên đã tò mò vặn chốt cửa. Cửa chốt Kiên không
sao mở được… Kiên sợ quá khóc oà lên… Cuối cùng bác Luyến phải thuê thợ
cắt kính vào cắt để có thể thò tay vào mở khoá cửa… Khi Kiên đã bình tĩnh, mẹ
ôn tồn giải thích và nhắc nhở. Lần sau, đi đâu con không được nghịch khoá như
thế nữa nhé, khoá mỗi nhà có cách sử dụng khác nhau.
- Với câu chuyện này tôi giáo dục trẻ: Khi vào nhà vệ sinh tự ý mở và chốt
khoá cửa. Bên cạnh đó tôi còn đưa ra những tình huống khác đối với trẻ như:
Không tự ý xả nước ở vòi vì dễ xảy ra bỏng khi sử dụng bình nóng lạnh.
17
- Ngoài những câu chuyện kể trên tôi còn sưu tầm các bài thơ: “Khách đến
nhà”, “Dạ vâng”, “Nhận quà”, “Chào hỏi”, “Biết lỗi”, “Lời cô bé nhớ”. Đây
là những bài thơ có nội dung giáo dục trẻ kỹ năng trong giao tiếp ứng xử với
mọi người đó là: Biết chào khi có khách đến nhà, lễ phép với người lớn, khi
nhận được quà biết nói cảm ơn và biết nói “xin lỗi” khi mắc lỗi. Hay bài thơ
“Nhặt lá rụng” có nội dung giáo dục trẻ kỹ năng sống sạch sẽ, gọn gàng.
Như vậy, thông qua việc sử dụng biện pháp này tôi thấy tất cả các nhóm kỹ
năng của trẻ được phát triển hơn, đặc biệt là nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ
xã hội.
Biện pháp 6: Phối hợp với gia đình, cộng đồng tạo môi trường giáo dục
an toàn, thân thiện.
Đây là một giải pháp vô cùng quan trọng. Nó không chỉ đơn thuần lôi cuốn
sự quan tâm của các bậc phụ huynh để họ cùng tham gia phối hợp dạy kỹ năng
sống cho trẻ, mà còn tạo cơ hội để các bậc phụ huynh hiểu được công tác chăm
sóc giáo dục trẻ vất vả như thế nào. Từ đó thực hiện tốt lượng thông tin hai
chiều để phối kết hợp chặt chẽ hơn bằng nhiều hình thức như:
- Tăng cường công tác tuyên truyền cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ
con, phải dạy trẻ tính tự lập từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách tự vệ,
nhận biết những mối nguy hiểm từ xung quanh và cách xử lý thì sẽ vững vàng
vượt qua những thử thách trong mọi tình huống. Điều đó được chứng minh rõ
ràng từ thực tế. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính là dạy trẻ biết cách
tự bảo vệ bản thân.
- Trò chuyện, trao đổi với các bậc phụ huynh, thông qua giờ đón trả trẻ
hàng ngày để họ hiểu được trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa
trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ
dùng một cách chính xác và thuần thục khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải
thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là
cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn
minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
- Thông qua các buổi họp phụ huynh theo định kỳ. Bản thân tôi phối hợp
một cách chặt chẽ và hợp lý với cha mẹ trẻ để họ tham gia tình nguyện vào quá
trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với
giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự các
hoạt động trong ngày; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là
phải học cả đời.
- Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh
thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình
một cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
Thông qua biện pháp phối hợp với phụ huynh tôi thấy tất cả các nhóm kỹ
năng tôi khảo sát đều đã đạt được kết quả tốt. Trẻ tự tin, hòa đồng và xử lí các
tình huống một cách tự tin hơn, nhanh nhạy hơn.
18
2.4. Hiệu quả
- Từ khi áp dụng những sáng kiến, kinh nghiệm trên cùng với sự cố gắng
nỗ lực của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích
cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ
lớp mình các KNS cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
* Hiệu quả trên trẻ.
- Từ những nỗ lực của bản thân, cùng với sự giúp đỡ của đồng nghiệp cũng
như sự hợp tác của của các bậc phụ huynh đã giúp tôi đạt được một số kết quả
trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống cơ bản, thể hiện ở kết quả sau:
T
T
Nội dung khảo sát
Số
trẻ
Kết quả trên trẻ
Đạt
T
%
K
%
TB
%
CĐ
Y
%
1
- Nhóm kỹ năng nhận thức
29
bản thân
19 65,6 5
17,2
5
17,2 0
0
2
- Nhóm kỹ năng quản lí
29
cảm xúc
16 55,2 7
24,1
6
20,7 0
0
3
- Nhóm kỹ năng giao tiếp
29
và quan hệ xã hội
16 55,2 8
27,6
5
17,2 0
0
4
- Nhóm kỹ năng học tập
29
15 51,7 7
24,1
6
20,7 1
3,5
5
- Nhóm kỹ năng tương tác
29
16 55,2 8
27,6
4
13,7 1
3,5
Qua bảng khảo sát lần 2 cho thấy sau khi áp dụng các biện pháp giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ, kết quả chung trên trẻ tăng lên rõ rệt: Trẻ đạt (Tốt - Khá)
tăng cao, (Trung bình) giảm và chiếm tỷ lệ ít; Đặc biệt trẻ chưa đạt chiếm rất ít.
Điều này cho thấy kết quả rất khả quan trong công tác giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ sau khi áp dụng đề tài nghiên cứu ở các tỷ lệ đạt khá cao.
* Hiệu quả của bản thân.
Bản thân chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ, giải
quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp. Trong
giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn.
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự
chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.
* Hiệu quả của đồng nghiệp.
Thông qua các biện pháp thôi triển khai trên trẻ 5 – 6 tuổi lớp mình, tôi
cũng đã tham mưu với đồng nghiệp trong việc lựa chọn nội dung kỹ năng phù
hợp với từng lứa tuổi cũng như các biện pháp phù hợp để giáo viên có thể áp
dụng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tốt nhất, đem lại hiệu quả trên các nhóm lớp
là tương đối như nhau. Đồng thời thông qua sáng kiến này không những riêng
19
bản thân tôi mà còn giúp cho các giáo viên trong trường có thêm những kinh
nghiệm hay hơn nữa trong việc dạy trẻ kỹ năng sống trong trường mầm non.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đóng một vai trò vô cùng quan trọng,
không chỉ giúp trẻ phát triển tư duy, óc quan sát, ghi nhớ, chú ý có chủ định mà
còn giúp trẻ so sánh, phân tích, tổng hợp. Còn là những kinh nghiệm bổ ích đối
với thực tiễn cuộc sống hàng ngày diễn ra xung quanh trẻ. Giúp trẻ có một hành
trang vững vàng, một tâm lí tự tin bước vào cuộc sống.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi thấy sự nghiên cứu tìm hiểu việc
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở trường mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo lớn
nói chung là rất quan trọng. Nó không những góp phần cho giáo viên nâng cao
chất lượng hoạt động, mà còn giúp cho trẻ 5 – 6 tuổi có một hành trang tốt để
sẵn sàng bước vào lớp 1 đầy tự tin đúng như sự mong đợi của các bậc phụ
huynh.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với phòng GD&ĐT.
- Phòng GD&ĐT cần làm tốt hơn nữa công tác tham mưa với sở GD&ĐT
trong việc bồi dưỡng thêm các chuyên đề, đặc biệt là chuyên đề “Giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ mầm non”
- Tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền, UBND huyện cần quan tâm
hơn nữa đến điều kiện, cơ sở vật chất ở trường Mầm non chưa đạt chuẩn nhằm
nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ nói chung và giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ nói riêng.
- Tổ chức có hiệu quả hơn nữa các buổi học chuyên đề, các buổi bồi dưỡng
chuyên môn về kỹ năng sống cho cán bộ và giáo viên mầm non.
* Đối với nhà trường.
- Quan tâm trang bị cơ sở vật chất phù hợp, đầy đủ phục vụ cho công tác
giáo dục trẻ.
- Tổ chức một số buổi học chuyên đề để cung cấp thêm kiến thức về giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ đến tất cả các giáo viên trong trường.
- Mua bổ sung thêm tài liệu, hình ảnh, đồ dùng đồ chơi trong công tác giáo
dục trẻ nói chung và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 tuổi nói riêng.
- Tổ chức buổi gặp gỡ phụ huynh đầu năm để tư vấn thông tin về giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ.
* Đối với giáo viên.
- Nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của trẻ lớp mình phụ trách, nắm vững nội
dung chương trình, phương pháp và hình thức tổ chức, từ đó tổ chức các hoạt
động phù hợp, hứng thú, mang lại chất lượng cho việc giáo dục trẻ. Không
20
ngừng tìm tòi, học hỏi, sáng tạo để tổ chức các hoạt động giáo dục ngày càng
phong phú, sinh động, lôi cuốn trẻ hơn.
- Phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong công tác chăm sóc và giáo
dục trẻ.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ được rút ra trong quá trình tôi giảng
dạy nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ. Những kinh nghiệm trên của tôi không tránh
khỏi thiếu sót và hạn chế. Những vấn đề đó nếu được cấp trên, các đồng chí,
đồng nghiệp đóng góp ý kiến xây dựng, tôi sẽ khắc phục trong quá trình chăm
sóc và giáo dục trẻ nói chung và giáo dục kỹ năng sống nói riêng trong những
năm học tiếp theo đạt kết quả tốt hơn.
XÁC NHẬN CỦA
Nga Thiện, Ngày 10 tháng 04 năm 2016
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người thực hiện
Trần Thị Hà
Yên Thị Lệ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
21
1. Tâm lí học trẻ em lứa tuổi Mầm non. Nguyễn Thị Ánh Tuyết – NXB giáo dục
1994
2. Nguyễn Thị Ngọc Châm, tài liệu “tập huấn giáo viên Mầm non hè năm 2002”
3. Phan Thị Châu, Nguyễn Thị Oanh, Trần Thị Sinh (2002) “Giáo dục học trẻ
em” Đại học quốc gia Hà Nội
4. Trần Thị Trọng, Phạm Thị Sửu (chủ biên), chương trình chăm sóc, giáo dục
Mẫu giáo và hướng dẫn thực hiện (5 – 6 tuổi), nhà xuất bản giáo dục.
5. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lí, giáo viêm Mầm non năm
học 2013 – 2014 của Bộ giáo dục và đào tạo.
22