Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân tích nội dung quy luật lượng đổi dẫn đến chất đổi. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong hoạt động thực tiễn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.25 KB, 5 trang )

Nguyễn Khánh Linh
Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN
MSSV: 12040509
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
BÀI TIỂU LUẬN
Phân tích nội dung quy luật lượng đổi dẫn đến chất đổi.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
Đối với nhiều nhà triết học cổ đại Hy Lạp, vật chất thường được đồng nhất với sự vật, từ
đó, họ cố gắng hiểu sự vật và các hình thức biểu hiện của nó từ phương diện chất của sự vật.
Trái lại, những người thuộc trường phái Pitago lại xem đặc trưng về lượng của thế giới vật
chất là cái nền tảng của mọi cái đang tồn tại. Đối với họ, những phương diện được biểu hiện
bằng con số là cơ sở của mọi tồn tại. Con số được đồng nhất với bản thân sự vật. Về sau,
quan niệm này dẫn tới việc tách rời số lượng ra khỏi các sự vật hiện thực, xuất hiện học
thuyết “‎ niệm mang tính số lượng”. Theo học thuyết đó, con số là bản chất của mọi sự vật. Lí
luận này được phát triển trong Triết học Platon.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Arixtot xem chất là tất cả những gì có thể phân ra
thành những bộ phận cấu thành. Ông phân lượng thành hai loại: số lượng (loại lượng mang
tính rời rạc, như: 2 cái bàn, 5 cái giường,…) và đại lượng (loại lượng mang tính liên tục, như:
lít, mét,…). Ông cũng là người đầu tiên nêu quan niệm về tính chất nhiều chất của sự vật –
cái sẽ xuất hiện (hay mất đi) cùng với sự sinh thành (hay mất đi) của bản thân sự vật. Ông
cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu phạm trù độ, xem độ là cái thống
nhất, cái không thể phân chia giữa chất và lượng.
Quan điểm biện chứng về chất và lượng đạt được bước phát triển mới trong triết học cổ
Đức, đặc biệt là trong triết học Hêghen. Với quan điểm biện chứng, Hêghen cho rằng chất
phát triển từ “‎chất thuần túy” đến “‎chất được xác định”, chất phát triển đến tột độ thì ra đời
lượng. Lượng cũng không ngừng tiến hóa, “‎số lượng” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hóa của
lượng. Hêghen cũng xem xét tính độc lập tương đối giữa sự thay đổi về lượng và thay đổi về
chất trong một khoảng nhất định, đó là cơ sở để hình thành phạm trù “‎độ”.
Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất, Hêghen đặc
biệt chú tới phạm trù bước nhảy. Dựa trên tư tưởng nàym V.I.Lênin đã rút ra kết luận quan
trọng: việc thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan


điểm biện chứng hay siêu hình về sự phát triển.
Tuy nhiên, là nhà triết học duy tâm, Hêghen đã xem các phạm trù chất, lượng, độ chỉ
như những nấc thang tự phát triển của tinh thần, của “‎ý niệm tuyệt đối”. Sự ra đời của phép
biện chứng duy vật đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong quan niệm về chất,
lượng và quy luật về mối quan hệ qua lại giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
nói chung.


I – PHẠM TRÙ “CHẤT” VÀ “LƯỢNG”:
1. Khái niệm về “chất”:
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là
sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái
khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng.
Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác. Thuộc tính của sự vật là những tính
chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật,... Đó là những cái vốn có của sự vật từ
khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy
nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác
động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật. Do
vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời
nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có
chất nằm ngoài sự vật.
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ
thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và
thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự
vật, quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi
hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác.
Bởi vậy, sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ

mang tính tương đối.
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn
bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong
hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác
nhau.
2. Khái niệm về “lượng”:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính
của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn
hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,... Trong thực tế lượng của sự vật
thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000
km trong một giây, một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hyđrô liên kết với một nguyên
tử ôxy,... bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát
như trình độ tri thức khoa học của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công


dân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng
con đường trừu tượng và khái quát hóa. Có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên
trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa học, số lượng lĩnh vực cơ bản
của đời sống xã hội), có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều
dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy định
trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của
sự vật và ngược lại. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về
lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật.
II – MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG VÀ THAY
ĐỔI VỀ CHẤT
Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi
căn bản về chất của sự vật đó. Ở thời điểm này, sự vật vẫn còn là nó mà chưa thành cái khác.

Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật, được gọi
là độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng
giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật
ấy.
Những điểm giới hạn mà khi sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ làm thay đổi về chất của
sự vật được gọi là điểm nút. Bất cứ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút.
Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất
giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Quá trình đó liên tiếp diễn ra
trong sự vật vì thế nên sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy.
Vậy bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay
đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự
thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu
thuẫn , tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và
nhỏ, cục bộ và tòan bộ, tự phát và tự giác,…
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một
giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục
của sự vật. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự
liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Như vậy, sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong
độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình


ấy không cố định mà có thể có những thay đổi. Sự thay đổi ấy do tác động của những điều
kiện khách quan và chủ quan quy định.
Và, sau khi chất mới ra đời, chất mới sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng, có thể
làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vần động và phát triển
của sự vật đó.

Mối quan hệ biện chứng qua lại giữa chất là lượng trên thể hiện rất rõ trong sự chuyển
hóa trạng thái của nước. Trong khoảng nhiệt độ dưới 0°C, nước là chất rắn, từ 0°C đến
100°C nước là chất lỏng. Vậy 0°C là điểm nút dẫn đến sự thay đổi chất mới (từ rắn sang
lỏng) và trong khoảng nhiệt độ này nước vẫn luôn ở trạng thái lỏng, không biến thành chất
mới, đó chính là một “‎độ”. Từ 100°C trở lên nước hóa hơi, khi đó quá trình chuyển hóa trạng
thái của nước đã đạt được một giới hạn mới làm biến đổi nước thành dạng hơi, sự thay đổi
này là “‎bước nhảy”. Và, khi nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của các
phân tử nước cao hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng
thái lỏng với cùng một khối lượng, tính chất hoà tan một số chất tan của nó cũng sẽ khác đi,
v.v.. Đó là sự tác động trở lại của chất mới đến lượng, làm cho lượng thay đổi.
Tóm lại, Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa Chất và Lượng.
Chất là mặt tương đối ổn định, Lượng là mặt thường xuyên biến đổi của sự vật. Lượng
thay đổi dần dần, khi vượt quá giới hạn độ sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản về Chất của sự
vật thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời cùng với Lượng mới quy định quy mô, tốc độ,
nhịp điệu phát triển của Lượng mới. Quá trình tác động lẫn nhau giữa Chất và Lượng tạo
ra con đường vận động liên tục, lúc biến đổi dần dần, lúc nhảy vọt rồi lại biến đổi dần dần
chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp theo.
III – Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN:
1. Về nhận thức:


Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dẫn những thay đổi
về lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện
chín muồi.



Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa
biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy.




Chống lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm
nút nhưng không thực hiện bước nhảy.



Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức
bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được
thực hiện một cách kịp thời.




Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các điều
kiện chín muồi.

2. Về thực tiễn:
Quy luật này có thể vận dụng vào mục tiêu giáo dục tiếng anh ở phổ thông của nước ta
hiện nay đó là: Tất cả các học sinh tốt nghiệp phổ thông phải đạt được một trình độ Tiếng
Anh tối thiểu vào năm 2020. Muốn vậy thì ngay từ giờ phải tích lũy dần về lượng:
Đó là cần phải có một chương trình hiện đại, khoa học, nhất là, cần xây dựng hệ thống
sách tiếng Anh tiểu học theo phương pháp mới, đồng thời đào tạo giáo viên chính quy, huấn
luyện giáo viên hiện đang dạy tiếng Anh trong các trường tiểu học một cách đúng hướng.
Quy trình giáo dục có chất lượng cần có ba yếu tố: giáo viên, tài liệu học tập (sách giáo khoa,
sách tham khảo...), điều kiện dạy và học. Một bộ sách phục vụ cho công tác giảng dạy và học
tập hiện đại cần xuất phát từ những đặc thù của đối tượng học khác nhau như: học sinh bậc
tiểu học, THCS, THPT..., từ đó những người viết sách đưa ra một cấu trúc cho toàn cuốn
sách trên cơ sở nhất định về ngữ liệu và chủ đề cũng như chức năng ngôn ngữ. Trong xây
dựng hệ thống tài liệu dạy ngoại ngữ hiện nay, một số bộ sách biên soạn trong nước cũng

từng bước chú ý đến tổ chức ngữ liệu và xác định hàm ý giáo học pháp, sau đó là tổ chức một
bài học nhằm xây dựng năng lực giao tiếp cho trẻ thông qua bốn kỹ năng nghe, nói, đọc và
viết. Đó là những tích lũy về lượng vô cùng quan trọng để thay đổi trình độ ngoại ngữ của
học sinh.
Tóm lại, để thực hiện tốt dạy và học môn tiếng Anh, việc sử dụng các bộ sách cần có sự
nhìn nhận đúng đắn, tránh tình trạng nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, thiếu khuyến khích
tính sáng tạo của người học. Tài liệu cho học tập môn tiếng Anh cần bảo đảm tính chính xác,
khoa học, hiện đại, cập nhật và tiếp cận được trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong
khu vực, đáp ứng xu thế phát triển của đất nước thời kỳ hội nhập quốc tế. Cần thực hiện các
chương trình đổi mới về dạy học các môn học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân,
đặc biệt là chương trình nâng cao hiệu quả dạy, học và sử dụng tiếng Anh nhằm bảo đảm học
sinh được học liên tục một ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh từ lớp 3 cho tới giáo dục nghề
nghiệp, đại học và đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế nhằm xây dựng nền học vấn phổ
thông cơ bản, vững chắc và phát triển năng lực cá nhân của người học, phù hợp với điều kiện
học tập của mỗi học sinh. Chỉ khi tích lũy được đủ lượng bằng cách thực hiện tốt các biện
pháp nêu trên thì mới có thể có được bước nhảy để thay đổi về chất, chất mới đó chính là
mục tiêu đào tạo tiếng anh ở phổ thông hiện nay.



×