Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tóm tắt các chiến lược đế quốc mỹ đã sử dụng ở chiến tranh việt nam (1954 - 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.36 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Khoa Lý luận Chính trị
Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
-------------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

Đề tài

TÓM TẮT CÁC CHIẾN LƯỢC ĐẾ QUỐC MỸ ĐÃ SỬ DỤNG Ở
CHIẾN TRANH VIỆT NAM (1954 - 1975)

Mã môn học:

LLCT 230214

Giảng viên hướng dẫn:

ThS. Nguyễn Vinh Thắng

TP HỒ CHÍ MINH, THÁNG 12/2016


MỤC LỤC


PHẦN 1 – PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài:
Thời kỳ 1954 – 1975 là thời gian nhân dân ta vừa kết thúc 80 năm đô hộ của


thực dân Pháp, bước sang giai đoạn vừa kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa xây
dựng Chủ Nghĩa xã hội. Đây là một thử thách đầy cam go đối với Đảng cộng sản
Việt Nam – một chính Đảng còn non trẻ. Lần này đối mặt với ta là đế quốc Mỹ, tên
thực dân hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự thời bấy giờ. Tìm hiểu về những âm
ưu, thủ đoạn và các chiến lược mà đế quốc Mỹ đã sử dụng nước ta thời bấy giờ giúp
chúng ta có nhận thức sâu sắc hơn về sự lãnh đạo của đẳng cũng như hiểu rỏ hơn
các âm mưu của Mỹ đối với nước ta thời bấy giờ. Dù có sử dụng bao nhiêu thủ
đoạn, bao nhiêu chiến lược thì dưới sự lãnh đạo khôn khéo của Đảng nhân dân ta
đều chiến thắng.
Chính vì thế nhóm xin trình bày đề tài “Tóm tắt các chiến lược đế quốc mỹ
đã sử dụng ở chiến tranh việt nam (1954 - 1975)”. Trong đề tài tiểu luận này, nhóm
xin trình bày 5 chiến lược chính là: Chiến lược đấu tố diệt cộng, chiến lược chiến
tranh đặc biệt, chiến lược chiến tranh cục bộ, chiến lược chiến tranh phá hoại miền

2.

bắc, chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh.
Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ được âm mưu của đế quốc Mỹ và cách đối phó của Đảng ta đối với
từng chiến lược chiến tranh cụ thể từ năm 1954 đến 1975, từ đó rút ra những kinh
nghiệm và những bài học để áp dụng vào xây dựng và bảo vệ đất nước ta trong giai
đoạn hiện nay.

Trang 3


PHẦN 2 – KIẾN THỨC CƠ BẢN
TÓM TẮT CÁC CHIẾN LƯỢC ĐẾ QUỐC MỸ ĐÃ SỬ DỤNG Ở CHIẾN TRANH
VIỆT NAM (1954 - 1975)


1.

Chiến lược tố cộng diệt cộng
1.1. Âm mưu của Mỹ
Tháng 7-1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam thắng lợi,

buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ và cùng các nước dự Hội nghị Giơnevơ
ký Tuyên bố cuối cùng. Đại diện Chính phủ Mỹ không ký Tuyên bố cuối cùng của Hội
nghị Giơnevơ. Mỹ dựa vào đó để ngang nhiên không chấp nhận các điều khoản của Hiệp
định, xúc tiến kế hoạch xâm nhập miền Nam Việt Nam để thay thế thực dân Pháp, xâm
chiếm miền Nam bằng chính sách thực dân mới.
Mục tiêu và hành động trước mắt của Mỹ là phá hoại Hiệp định Giơnevơ, phá hoại
công cuộc thống nhất nước Việt Nam, gạt Pháp ra khỏi miền Nam, phân hoá và loại trừ
các giáo phái thân Pháp, xây dựng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, ra
sức xây dựng lại và nắm trọn quyền chỉ huy quân ngụy trước đó là của Pháp, tổ chức các
đảng phái phản động thân Mỹ. Biện pháp chiến lược cơ bản của chúng là thực hành chính
sách“tố cộng, diệt cộng”, tập trung đánh phá cách mạng miền Nam vô cùng tàn khốc. Đây
là chính phủ độc tài, khát máu, gia đình trị.
Tính gia đình trị





Tổng thống: Ngô Đình Diệm
Cố vấn chính trị: Ngô Đình Nhu (em trai của Ngô Đình Diệm)
Tổng giám mục: Ngô Đình Thục (anh của Ngô Đình Diệm)
Hội phụ nữ liên đới: Trần Lệ Xuân ( vợ Ngô Đình Nhu)

Tính khát máu

 Khẩu hiệu: ‘đã thực, bài phong, diệt cộng’  Coi việc chống cộng là quốc sách
 Tuyên truyền: ‘7 tên cộng sản không bẻ gãy một cọng đu đủ’, ‘ thà giết nhằm còn

hơn bỏ sót’
Trang 4


 Thủ đoạn: chào cờ quốc gia, động viên các sĩ quan lấy vợ của những người cộng

sản
Mỹ-Diệm huy động mọi lực lượng quân sự, an ninh, hành chính, tình báo, thông
tin tuyên truyền, v.v., thực hành cuộc khủng bố, đàn áp toàn diện cả về quân sự, chính trị,
tâm lý, kinh tế, v.v., cực kỳ thâm độc, tàn bạo. Chúng gây ra những cuộc thảm sát đẫm
máu ở Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên), Chợ Được (Quảng Nam), Mỏ Cày, Bình Đại
(Bến Tre), v.v...Chúng dùng quân đội mở nhiều cuộc hành quân càn quét quy mô lớn, dài
ngày như các “chiến dịch Thoại Ngọc Hầu” kéo dài 9 tháng (5-1956 đến 2-1957) ở 18
tỉnh miền Tây Nam Bộ, “chiến dịch Trương Tấn Bửu” trong 7 tháng (7-1956 đến 2-1957)
ở 8 tỉnh miền Đông Nam Bộ, v.v. để triệt phá cách mạng, tàn sát những người yêu nước,
khủng bố những người kháng chiến cũ mà chúng gọi là cộng sản hoặc phần tử thân cộng
sản. Mỹ-Diệm đã ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả
miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung.
Bài thơ “Lá thư Bến Tre” của nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện được chính sách tàn bạo của
Ngô Đình Diệm :
Anh,
Phải chi em đến được cùng anh
Chỉ một ngày thôi, kể ngọn ngành!
Thư viết đôi trang, lòng cuộn cuộn
Như dòng sông cuốn lá tre xanh...
Anh ạ, từ hôm Tết tới nay
Giặc đi ruồng bố suốt đêm ngày

Thới Lai, Thới Thuận, liền hai trận
Ba bốn ngàn quân, bảy máy bay.
Biết không anh? Giồng Keo, Giồng Trôm.
Thảm lắm anh à, lũ ác ôn
Trang 5


Giết cả trăm người, trong một sáng
Máu tươi lênh láng đỏ đường thôn.
Có những ông già, nó khảo tra
Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh, không chịu nhục
Lấy vồ nó đập, vọt thai ra.
Anh biết không? Long Mỹ, Hiệp Hưng
Nó giết thanh niên, ác quá chừng.
Hầm sáu đầu trai bêu cọc sắt
Ba hôm mắt vẫn mở trừng trừng!
Có em nhỏ nghịch, ra xem giặc
Nó bắt vô vườn, trói gốc sau
Nó đốt, nó cười... em nhỏ hét:
"Má ơi, nóng quá, cứu con mau!"
1.2. Đối phó của Đảng
Để chống lại sự đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm, nhân dân miền Nam đã
tổ chức nhiều hình thức đấu tranh chính trị, vũ trang để chống lại sự bắt bớ, đàn áp của
chính quyền Ngô Đình Diệm, bảo vệ quyền chính trị, đòi tuyển cử để thống nhất nước
nhà bị chia cắt. Cuộc Đồng khởi ở Bến Tre năm 1960 đã nhanh chóng lan rộng ra khắp
các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và một số tỉnh Nam Trung Bộ... Thắng lợi lớn của cuộc
Đồng khởi đã đặt ra yêu cầu mới là phải tập hợp, đoàn kết rộng rãi hơn nữa các tầng lớp
nhân dân miền Nam trong một Mặt trận Dân tộc thống nhất để đẩy mạnh cuộc đấu tranh
nhằm chấm dứt sự can thiệp của Mỹ, lật đổ bộ máy chính quyền Ngô Đình Diệm, tiến tới

thống nhất đất nước.

Trang 6


Trước sức đánh phá qua nhiều đợt “tố cộng, diệt cộng” cực kỳ ác liệt và những
chiến dịch càn quét khốc liệt của quân đội ngụy tay sai, những phong trào chống Mỹ ở
miền Nam đã chịu những tổn thất nặng nề chưa từng có. Trong tình hình đó, Đảng Lao
động Việt Nam đã động viên được 12 triệu lượt quần chúng (1955-1958) đấu tranh chính
trị dưới những hình thức khác nhau. Trước tình thế khó khăn, hiểm nghèo, đại bộ phận
người dân miền Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh bất khuất chống lại Ngô Đình Diệm.
Một số khá đông Đảng viên bị thất tán do chuyển vùng và rút vào hoạt động bí mật để
chống khủng bố, vẫn duy trì liên lạc với Đảng Lao động Việt Nam và các phong trào
Cách mạng.
Tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá II) đã
họp tại Hà Nội, do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ. Hội nghị đã xác định con đường tiến
lên của cách mạng miền Nam, vạch rõ mục tiêu và phương pháp cách mạng, mối quan hệ
giữa 2 chiến lược cách mạng ở 2 miền Nam, Bắc, giữa cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà, tích
cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông-Nam á và thế giới.
Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng miền Nam là: giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến.
Nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ, thực
hiện dân tộc độc lập và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh. Phương pháp cách mạng và phương pháp đấu tranh là dùng bạo lực cách
mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, và
dự kiến xu hướng phát triển từ khởi nghĩa của nhân dân có thể tiến lên cuộc đấu tranh vũ
trang trường kỳ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử,
giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam trong tình thế thực sự chín

muồi, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của cán bộ và đồng bào miền Nam. Nó là ngọn lửa
dấy lên phong trào Đồng khởi làm xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam lúc bấy
giờ.

2.

Chiến lược chiến tranh đặc biệt
Trang 7


2.1 Âm mưu của Mỹ
Từ giữa năm 1961, Mỹ-Diệm đã tiến hành cuộc “chiến tranh đặc biệt”. Đó là cuộc
chiến tranh “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”, kết hợp những thủ đoạn chiến
tranh xâm lược tàn bạo của đế quốc có vũ khí và trang bị kỹ thuật hiện đại với những biện
pháp khủng bố, đàn áp dã man. Lực lượng chủ yếu của Mỹ-ngụy trong chiến tranh đặc
biệt là quân đội của ngụy quyền tay sai do Mỹ tổ chức, trang bị, huấn luyện và chỉ huy.
Tiến hành cuộc “chiến tranh đặc biệt”, ngoài mục đích xâm lược miền Nam Việt Nam, đế
quốc Mỹ còn âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành nơi thí nghiệm cuộc chiến tranh đó
để rút kinh nghiệm đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, đe doạ các nước mới giành
được độc lập, bắt các nước đó phải chấp nhận chính sách thực dân mới.
Để tiến hành“chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đề ra kế hoạch Xtalây-Taylo với 3
biện pháp chiến lược:
1- Tăng cường xây dựng lực lượng quân ngụy, do cố vấn Mỹ chỉ huy, được một số
đơn vị quân Mỹ yểm trợ, áp dụng chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng và xe thiết
giáp nhanh chóng đập tan lực lượng cách mạng lúc còn đang nhỏ, yếu.
2- Giữ vững thành thị, xây dựng bộ máy kìm kẹp ngụy quyền thật mạnh để ngăn
chặn phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, khống chế, dập tắt các cuộc đấu tranh
cách mạng ở nông thôn, bình định đồng bằng, lập ấp chiến lược.
3- Ra sức phong toả biên giới, kiểm soát ven biển, cắt đứt sự chi viện từ miền Bắc,
cô lập cách mạng miền Nam.

Đế quốc Mỹ hy vọng chuyển sang thế tiến công để giành lại thế chủ động hòng
“bình định” xong miền Nam trong vòng 18 tháng. Cuối năm 1962, quân Mỹ ở miền Nam
Việt Nam đã lên tới 11.300 tên, quân ngụy chính quy tăng lên đến 36,2 vạn.
Mỹ-Ngụy coi bình định, dồn dân, lập ấp chiến lược là nội dung cơ bản, là “xương
sống” của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, là biện pháp chủ yếu để tiến hành cuộc chiến
Trang 8


tranh tổng lực, trong đó hành quân càn quét, đánh phá, triệt hạ làng mạc, dồn dân, chiếm
đóng, khống chế quần chúng là chính. Năm 1961, khi bắt đầu thí điểm lập ấp chiến lược ở
miền Nam, Mỹ-nguỵ đã mở 1.253 cuộc hành quân càn quét từ cấp tiểu đoàn trở lên, tăng
hơn năm 1960 gấp 4 lần. Năm 1962 chúng tổ chức 2.577 cuộc hành quân, trong đó có trên
200 cuộc hành quân bằng“trực thăng vận”.
Với tất cả những cố gắng trên, địch thu được một số kết quả, nhất là trên mặt trận
“bình định”, gom dân, lập ấp chiến lược, gây cho cách mạng miền Nam những khó khăn,
tổn thất.

2.2 Đối phó của Đảng
Tháng 1-1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp để đánh giá tình hình miền
Nam sau khi Đồng khởi và vạch ra phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của
cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị quyết định đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh chính
trị và đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, ra sức xây dựng lực lượng
chính trị và quân sự, xây dựng và mở rộng căn cứ địa, tạo điều kiện và nắm mọi thời cơ
để đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm.
Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang cách mạng được thống nhất thành Quân
giải phóng miền Nam Việt Nam. Tính đến cuối năm 1961, quân và dân miền Nam đã phá
thế kìm kẹp ở 8.118 thôn, giải phóng hoàn toàn 3.610 thôn với 6,5 triệu/14 triệu dân.
Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam, do Đảng lãnh đạo, phong trào cách mạng miền Nam đã giữ vững và phát triển mạnh
mẽ. Ngay từ những ngày đầu, kế hoạch lập “ấp chiến lược” của địch đã vấp phải sự chống

đối kiên quyết của đồng bào miền Nam. Việc dồn dân, lập “ấp chiến lược”đã không diễn
ra như ý muốn của địch. Một số “ấp chiến lược” bị phá ngay từ lúc mới thành lập. Một số
bị phá đi phá lại nhiều lần. Một số ấp đã biến thành làng chiến đấu của nhân dân.

Trang 9


Trong năm 1962, quân và dân miền Nam đã đánh 19.108 trận, giết và làm bị
thương 55.119 tên địch, bắt 5.118 tên, nâng số lính đào ngũ, rã ngũ lên hơn 16.000 tên,
thu 8.846 súng các loại, bắn rơi 61 máy bay, phá huỷ 317 xe quân sự.
Ngày 2-1-1963, chiến thắng vang dội của quân và dân miền Nam ở ấp Bắc (xã Tân
Phú, huyện Cai Lậy, Mỹ Tho) đã làm cho đồng bào thêm tin tưởng vào khả năng đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược. Tại đây, lần đầu tiên, với số quân ít hơn địch mười lần, quân và
dân miền Nam đã đánh thắng trận càn quét của trên 2.000 tên địch, thuộc đủ các binh
chủng, sử dụng hàng chục máy bay lên thẳng và xe bọc thép M.113. Chiến thắng ấp Bắc
báo hiệu khả năng đánh thắng những chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng và xe
tăng, thiết giáp của Mỹ-ngụy, đồng thời nêu bật sức mạnh của lực lượng đấu tranh chính
trị kết hợp với đấu tranh vũ trang.
Sau chiến thắng này, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát
động “Thi đua ấp Bắc, diệt giặc lập công”, kiên quyết tiến công tiêu diệt địch, làm phá
sản chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của chúng.
Đi đôi với cuộc đấu tranh về quân sự, phá “ấp chiến lược” là những cuộc đấu tranh
chính trị rộng lớn, mãnh liệt, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Trong năm 1963,
toàn miền Nam có 34 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị. Nhân dân đã phá hoàn
toàn 2.895 “ấp chiến lược” trong số 6.164 ấp do địch lập ra. Nhân dân cũng đã phá được
thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở 12.000 thôn trong tổng số 17.000 thôn toàn miền
Nam, giải phóng hơn 5 triệu dân trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệu
ha trên tổng số 3,5 triệu ha ruộng đất đã về tay nông dân; hơn 23.000 thanh niên đã tòng
quân. Hàng nghìn “ấp chiến lược” đã biến thành làng chiến đấu.
Do tác động của đấu tranh vũ trang và phong trào phá “ấp chiến lược” ở các vùng

nông thôn, phong trào đấu tranh chính trị của công nhân, nhân dân lao động, học sinh,
sinh viên, tín đồ Phật giáo ở đô thị phát triển rộng khắp. Mỹ-ngụy lún sâu vào thế bị động,
lúng túng, mâu thuẫn trong nội bộ ngụy quyền Sài Gòn càng thêm sâu sắc. Nổi bật trong
phong trào đô thị thời gian này là cuộc đấu tranh của tín đồ Phật giáo. Điển hình là cuộc
Trang 10


đấu tranh ở Huế ngày 22-5-1963, đòi được treo cờ Phật nhân lễ Phật đản; là cuộc đấu
tranh ở Đà Nẵng, Sài Gòn; là vụ tự thiêu của Hoà thượng Thích Quảng Đức (ở Sài Gòn),
vụ tự thiêu của Đại đức Thanh Tuệ và Hoà thượng Thích Tiêu Diêu (ở Huế) để phản đối
chính sách khủng bố của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đỉnh cao của phong trào đấu tranh
chính trị ở các đô thị miền Nam là cuộc xuống đường đấu tranh của 70 vạn nhân dân Sài
Gòn ngày 16-6-1963, và cuộc tổng bãi khoá của học sinh, sinh viên Sài Gòn tháng 81963.
Sau một năm rưỡi thực hiện kế hoạch Xtalây-Taylo vẫn không cứu vãn được tình
thế, Mỹ cho rằng nguyên nhân chính là do bọn tay sai Ngô Đình Diệm bất tài, bất lực.
Tháng 11-1963, đế quốc Mỹ làm đảo chính, lật đổ Ngô Đình Diệm, đưa Dương Văn Minh
rồi Nguyễn Khánh lên thay. Nhưng bọn tay sai mới tiếp tục đấu đá nhau và không chống
đỡ nổi cuộc tiến công nổi dậy ngày càng mạnh mẽ của quân và dân miền Nam.
Từ tháng 3-1964, đế quốc Mỹ thực hiện kế hoạch mới, kế hoạch Giônxơn - Mắc
Namara, nhằm bình định miền Nam trong vòng hai năm (1964-1965). Chúng lập ra bộ chỉ
huy liên hợp Việt-Mỹ, tăng thêm 6.000 cố vấn và lính chiến đấu Mỹ, đưa số quân Mỹ ở
miền Nam lên 2 vạn tên vào cuối năm 1964.
Âm mưu mới của Mỹ đã vấp phải sức phản kháng vô cùng mãnh liệt của các tầng
lớp nhân dân cả nước, trực tiếp là nhân dân miền Nam. Phong trào chống Mỹ-Khánh từ
Huế, Sài Gòn lan ra các thành phố và thị xã toàn miền Nam.
Phong trào đấu tranh sôi sục của nhân dân miền Nam đã đẩy nhanh cuộc khủng
hoảng trong nguỵ quyền Sài Gòn. Chỉ trong vòng 1 năm rưỡi, từ tháng 11-1963 đến tháng
6-1965, đã xảy ra 14 cuộc đảo chính và phản đảo chính giữa bọn tay sai Mỹ. Nhân dân
thành phố Sài Gòn và nhiều thành phố khác đã tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang
giải phóng tổ chức nhiều trận đánh rất táo bạo, có hiệu suất cao, nhằm thẳng vào bọn chỉ

huy Mỹ và các lực lượng kỹ thuật của chúng ở sào huyệt: Trận tiến công Toà đại sứ Mỹ
diệt 217 tên; trận tập kích rạp chiếu bóng Kinh Đô diệt 150 tên Mỹ; trận đánh đắm tàu
chở máy bay Cađơ 15 nghìn tấn ở cảng Sài Gòn; trận tiến công sân bay Plâycu diệt 359
Trang 11


tên Mỹ và 42 máy bay; trận đánh sân bay Đà Nẵng, diệt 139 tên Mỹ và phá huỷ 47 máy
bay, v.v...
Từ ngày 1 đến ngày 8-11-1964, tại một địa điểm thuộc vùng giải phóng Tây Ninh,
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ II, nhằm động
viên nhân dân miền Nam dốc toàn lực, thực hiện đến cùng cuộc kháng chiến toàn diện và
trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước, tiến lên giành thắng lợi
to lớn hơn nữa trong thời gian trước mắt.
Tháng 12-1964, quân và dân miền Nam giành thắng lợi lớn trong trận Bình Giã
(Bà Rịa) đây là trận đầu tiên quân chủ lực giải phóng chủ động tiến công quân chủ lực
ngụy trong 6 ngày đêm, diệt gọn 2 tiểu đoàn cơ động và 1 chi đoàn xe bọc thép M.113 của
địch, bắn rơi, bắn hỏng 37 máy bay. Sau chiến thắng Bình Giã, quân giải phóng tiếp tục
tiêu diệt nhiều tiểu đoàn quân chủ lực nguỵ trong các trận An Lão, Đèo Nhông, Plâycu,
Đồng Xoài, Ba Gia. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 1965, quân và dân miền Nam đã
loại khỏi vòng chiến đấu 90 nghìn tên địch, trong đó có 3 nghìn tên xâm lược Mỹ.
Thắng lợi của quân và dân miền Nam và thất bại của địch đã làm thay đổi so sánh
lực lượng trên chiến trường theo hướng có lợi cho quân và dân miền Nam. Lực lượng vũ
trang giải phóng với ba thứ quân đã lớn mạnh vượt bậc. Vùng giải phóng đã mở rộng,
chiếm phần lớn lãnh thổ miền Nam, trở thành hậu phương trực tiếp và vững chắc của cách
mạng miền Nam. Trong vùng giải phóng, quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Về phía địch,
chỗ dựa chủ yếu của “chiến tranh đặc biệt“ là nguỵ quân, nguỵ quyền; hệ thống “ấp chiến
lược” và thành thị đều bị lung lay tận gốc. Hầu hết các lực lượng vũ trang địa phương của
địch bị tan rã, chủ lực ngụy không chống đỡ nổi những quả đấm của chủ lực quân giải
phóng. Hệ thống “ấp chiến lược” bị sụp đổ đến 4/5, các tầng lớp trung gian ngày càng ngả
về xu hướng chống Mỹ, ủng hộ hoà bình, trung lập.

Thấy rõ nguy cơ sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền và sự thất bại hoàn toàn của
“chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ trực
Trang 12


tiếp tiến hành “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại,
chủ yếu bằng không quân đối với miền Bắc hòng cứu vãn tình thế.

3.

Chiến lược chiến tranh cục bộ

3.1 Âm mưu của Mỹ
Bị thất bại trong cuộc “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đã chuyển sang “chiến tranh cục
bộ” ở miền Nam Việt Nam và gây ra chiến tranh phá hoại rất ác liệt đối với miền Bắc.
Cuối năm 1965, số quân Mỹ và quân chư hầu Mỹ được đưa vào miền Nam đã lên tới hơn
20 vạn, gồm 18 vạn quân Mỹ và hơn 2 vạn quân chư hầu, chưa kể 7 vạn hải quân và
không quân Mỹ xuất phát từ các tầu chiến trên mặt biển hoặc từ đất Thái Lan và
Philíppin.
Đế quốc Mỹ từ chỗ dựa vào lực lượng quân ngụy là chủ yếu, lúc này đã phải dựa
vào hai lực lượng chiến lược là quân đội viễn chinh Mỹ và quân ngụy; chúng tiến hành
các cuộc hành quân với mục tiêu “tìm diệt và bình định” các căn cứ và lực lượng quân
giải phóng miền Nam Việt Nam.

3.2 Đối phó của Đảng
3.2.1 Chiến thắng Vạn Tường (Quảng Ngãi)
Ngày 18/08/1965, sau khi chiếm được Chu Lai, Mĩ đã huy động hơn 9.000 lính
thủy đánh bộ cùng với nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc tấn công vào Vạn
Tường để “tìm diệt” lực lượng của ta. Tại đây, chúng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt
của quân ta, sau một ngày chiến đấu ta đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, tiêu diệt

được hơn 900 tên, phá hủy hàng chục xe bọc thép và máy bay của địch.
Chiến thắng Vạn Tường đã mở đầu cho phong trào “tìm Mĩ mà đánh, tìm ngụy mà
diệt” trên khắp miền Nam. Và đồng thời cho thấy ta có thể đánh bại chiến lược “chiến
tranh cục bộ” của Mĩ.
Trang 13


3.2.2 Đánh tan hai cuộc phản công mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967
* Mùa khô 1965 - 1966
Tháng 01/1965, Mĩ-ngụy tập trung lực lượng mở cuộc phản công lần thứ nhất với
72 vạn quân. Địch mở 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm
diệt” then chốt, nhằm vào hai hướng chính là Đông Nam Bộ và Đồng bằng khu 5 nhằm
tiêu diệt chủ lực quân giải phóng, “bẻ gãy xương sống Việt Cộng”, giành lại thế chủ động
trên chiến trường.
Với thế trận chiến tranh nhân dân, bằng nhiều hình thức tác chiến khác nhau lực
lượng của ta đã chặn đánh địch ở khắp mọi hướng, tiến công địch ở mọi nơi… Trong 4
tháng mùa khô 1965 - 1966, ta đã loại khỏi vòng chiến hơn 67.000 tên địch, trong đó có
35.000 quân Mĩ và chư hầu, bắn hạ 940 máy bay, phá hủy 600 xe tăng, thiết giáp và trên
1.000 ôtô của địch.
* Mùa khô 1966 - 1967
Mùa khô 1966 - 1967, với lực lượng lên đến 980.000 quân (trong đó có 440.000
lính Mĩ và chư hầu), Mĩ đã mở cuộc phản công mùa khô lần thứ hai nhằm tiêu diệt quân
chủ lực và cơ quan đầu não của ta, tạo bược ngoặt trong chiến tranh. Chúng đã tiến hành
895 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 3 cuộc hành quân “tìm diệt” then chốt: At-tơnbo-rơ đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (tháng 11/1966), Xê-da-phôn đánh vào
Trảng Bàng, Bến Súc, Củ Chi (tháng 1/1967) và Gian-xơn-city đánh vào chiến khu
Dương Minh Châu (tháng 4/1967).
Quân và dân Nam bộ đã phối hợp với các chiến trường khác đã mở hàng loạt cuộc
phản công, từng bước đánh bại các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” của địch;
loại khỏi vòng chiến 175.000 tên, trong đó có 76.000 lính Mĩ và chư hầu, phá hủy nhiều
phương tiện chiến tranh của địch.

3.2.3 Đấu tranh chính trị phát triển
Các vùng nông thôn ở miền Nam, quần chúng nổi dậy đấu tranh chống kìm kẹp,
Trang 14


trừng trị bọn ác ôn, phá vỡ từng mảng “ấp chiến lược” do chúng lập ra. Ở các thành thị,
công nhân, học sinh, sinh viên, phật tử… đã nổi lên đấu tranh đòi Mĩ cút về nước, đòi tự
do, dân chủ, dân sinh… Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
3.2.4 Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
Sau hai cuộc phản công mùa khô, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch đã
thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Hơn nữa trong năm 1968, cuộc bầu cử Tổng
thống Mĩ sẽ nảy sinh những mâu thuẫn mà ta có thể lợi dụng được. Đảng đã chủ trương
mở cuộc “Tổng tiến công và nổi dậy” trên khắp chiến trường miền Nam, chủ yếu là ở các
đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mĩ - ngụy, buộc Mĩ phải rút quân về
nước.
Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01 năm 1968, quân chủ lực của ta đã đồng loạt tấn
công và nổi dậy ở 37/44 thị xã, 5/6 thành phố trên toàn miền Nam. Ở Sài Gòn, quân ta đã
tấn công vào các vị trí cơ quan đầu não của địch như Tòa Đại sứ, Dinh Độc lập, đài phát
thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu… Trong đợt này, quân ta đã loại khỏi
vòng chiến 147.000 tên, trong đó có 43.000 lính Mĩ và chư hầu, phá hủy một khối lượng
lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của địch. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy, có
thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn được mở rộng.
Sau đợt tấn công Tết, ta tiếp tục tiến công đợt 2 (4/5 – 18/6) và đợt 3 (17/8 – 23/9).
Đây là một đòn bất ngờ làm cho địch choáng váng, nhưng do lực lượng của địch còn
mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức phản công giành lại những mục tiêu bị ta chiếm
và đồng thời cũng đã làm cho ta bị tổn thất khá nặng nề. Tuy vậy, cuộc tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân đã làm cho phong trào phản chiến đòi Mĩ rút quân khỏi Việt Nam ở
Mĩ dâng cao, buộc tổng thống Giôn-xơn phải tuyên bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh, ngừng
mọi hoạt động bắn phá miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán với ta để chấm dứt chiến

tranh.

Trang 15


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh
cục bộ” của đế quốc Mĩ, mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước .
Quân và dân Việt Nam có điều kiện mở ra trận tiến công mới về ngoại giao, mở ra cục
diện “vừa đánh vừa đàm” thật sự kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự - chính trị - ngoại
giao để đánh thắng một kẻ địch có tiềm lực quân sự mạnh.

4.

Chiến lược phá hoại miền Bắc

4.1 Âm mưu của Mỹ
Mĩ huy động một lực lượng không quân và hải quân rất lớn gồm hàng ngàn máy
bay tối tân thuộc 50 loại khác nhau với các loại vũ khí hiện đại kể cả B52 và F111, chúng
tập trung đánh vào các mục tiêu quân sự, đầu mối giao thông, nhà máy xí nghiệp, hầm
mỏ, khu đông dân thậm chí cả trường học, nhà trẻ, bệnh viện, tăng cường bắn phá các đầu
mối giao thông từ Bắc vào Nam. Để thực hiện mục đích đó, một mặt, Mỹ xúc tiến thực
hiện “Kế hoạch hành quân 34A” nhằm do thám miền Bắc, bắt cóc công dân Bắc Việt
Nam để khai thác tin tức tình báo và tổ chức, sử dụng biệt kích phá hoại. Mặt khác, đẩy
mạnh các cuộc tuần tra trinh sát của tàu chiến Mỹ vào Vịnh Bắc Bộ để phô trương thanh
thế và thu thập tình báo về phòng thủ bờ biển của Bắc Việt Nam. Từ đó để Mỹ thực hiện
những bước đi tiếp theo tạo cớ theo một kịch bản được chuẩn bị sẵn, biện minh cho hành
động đánh phá miền Bắc.
Ngày 5 – 8 – 1964, Mĩ dựng nên sự kiện vịnh Bắc bộ, cho máy bay ném bom bắn
phá một số nơi ở miền Bắc như cửa sông Gianh, Vinh – Bến Thủy.
Ngày 7 -2 – 1965, lấy cớ là quân giải phóng miền Nam tiến công doanh trại Plâycu

của quân Mĩ, cho máy bay ném bom phá hoại thị xã Đồng Hới và chính thức gây ra cuộc
chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.

4.2 Đối phó của Đảng
Ngày 7/2/1965, Mỹ ồ ạt ném bom miền Bắc trên quy mô ngày càng tăng,
chính thức tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đối
Trang 16


với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trong hoàn cảnh bị chiến tranh phá hoại hết sức
ác liệt của giặc Mỹ, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc không
những không dừng lại mà lại được đẩy lên một mức mới cao hơn.
Tháng 3 và tháng 12 năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội
nghị lần thứ 11 và 12 đã đề ra nhiệm vụ cho miền Bắc lúc này là: xây dựng miền
Bắc thành hậu phương lớn, vững chắc của cách mạng miền Nam đảm bảo đời
sống cho nhân dân và đáp ứng nhu cầu tại chỗ; đánh thắng chiến tranh phá hoại
của không quân, hải quân Mỹ; tăng cường chi viện cho chiến trường. Để hoàn
thành nhiệm vụ thì miền Bắc phải tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị trung ương lần thứ 11 đã quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của
miền Bắc từ thời bình sang thời chiến đảm bảo cho miền Bắc tiếp tục sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, đảm bảo cho miền
Bắc có đủ sức mạnh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải
quân Mỹ và làm vai trò, nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Hội
nghị trung ương lần thứ 11 đưa ra khẩu hiệu “xây dựng bảo vệ miền Bắc giải
phóng miền Nam”. Khẩu hiệu này đã trở thành hành động tự giác và tình
cảm thiêng liêng của mọi người dân yêu nước, làm nảy nở nhiều sáng kiến hay
trong lao động sản xuất, đảm bảo giao thông chi viện cho tiền tuyến sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu. Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành Trung ương Đảng
nêu nhiệm vụ: “vừa sản xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, động viên sức người, sức của tăng cường chi

viện cho miền Nam, ra sức trợ giúp cách mạng Lào đồng thời chuẩn bị đánh
địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước”.
Có thể nói đây là nhân tố cơ bản để phát huy sức mạnh của toàn dân tộc giành
thắng lợi cho cuộc kháng chiến. Từ khi giặc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng
không quân, hải quân, miền Bắc tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước
hòa bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác
nhau ở mỗi miền. Để đánh thắng chiến tranh phá hoại, Đảng ta có nhiều chủ trương và
Trang 17


biện pháp phát huy sức mạnh của toàn dân, sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân
để đem lại hiệu quả cao nhất trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong thời kỳ này,
quân dân miền Bắc đã dấy lên các phong trào thi đua chống Mỹ cứu nước: “Không có gì
quý hơn độc lập tự do”. Các lực lượng vũ trang nêu khẩu hiệu “Nhằm thẳng quân thù mà
bắn”, “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Giai cấp công nhân nêu quyết tâm
“Chắc tay súng, vững tay búa”, phấn đấu đạt “Ba điểm cao”. Nông dân tập thể nêu quyết
tâm “Chắc tay súng, vững tay cày”, phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang”, giáo viên và
học sinh có phong trào thi đua “Hai tốt”. Trong thiếu niên nhi đồng có phong trào “Làm
nghìn việc tốt”. Đảng ta chủ trương lãnh đạo toàn dân chiến đấu, theo đường lối chiến
tranh nhân dân của Đảng tham gia chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc
Mỹ bằng không quân, hải quân là nhiệm vụ của các lực lượng phòng không, không quân,
của lực lượng hải quân với vũ khí phương tiện hiện đại của lực lượng tự vệ, dân quân, của
toàn dân, bất cứ già trẻ, trai gái với vũ khí thông thường, hễ địch đến là đánh, ai không
trực tiếp chiến đấu thì phục vụ chiến đấu, lúc tạm yên ổn thì toàn dân tham gia sản
xuất. Ngay từ khi Mỹ bắt đầu mở rộng chiến tranh phá hoại, miền Bắc đã kịp thời chuyển
hướng hoạt động từ thời bình sang thời chiến cho phù hợp với hoàn cảnh mới, thực hiện
quân sự hóa toàn dân, đào đắp công sự, hầm hào phòng tránh, tiến hành triệt để phân tán,
sơ tán người và của ra khỏi vùng trọng điểm, những nơi đông dân để tránh thiệt hại lớn,
đảm bảo đời sống ổn định. Đã trải qua 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, để đối phó với
tình hình cách mạng mới chỉ có thể tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo cung

cấp nhân lực vật lực cho tình hình cách mạng mới của hai miền Nam - Bắc. Chính vì lẽ
đó, miền Bắc quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh mới về tất cả các
mặt. Điều đó được thể hiện ở việc tiếp tục xây dựng phát triển kinh tế, tiếp tục xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa phù hợp với điều
kiện có chiến tranh đảm bảo đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu sẵn sàng chiến đấu.

5.

Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh
5.1 Âm mưu của Mỹ
Trang 18


a. Bối cảnh.

Đầu năm 1969, Tổng thống Níchxơn vừa lên nắm chính quyền đã đề ra chiến lược
toàn cầu “Ngăn đe thực tế”. Sau thất bại của chiến lược chiến tranh cục bộ ở miền Nam
và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Mỹ phải chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”.
Việt Nam hóa chiến tranh là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của
Mỹ, được tiến hành bằng quân đội tay sai là chủ yếu, có sự hổ trợ của một lực lượng
chiến đấu Mỹ’, do cố vấn Mỹ chỉ huy cùng với vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mỹ.
b. Âm mưu:

Đây là hình thức chiến tranh thực dân kiểu mới được tiến hành bằng quân đội Sài
Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp của hỏa lực và không quân Mỹ, vẫn do Mỹ chỉ huy bằng
hệ thống cố vấn.
Mở rộng xâm lược Lào và Campuchia, thực hiện âm mưu “Dùng người đông
Dương đánh người đông Dương”.
Mỹ tăng viện trợ giúp quân số ngụy tăng lên 1 triệu người cùng với trang thiết bị

hiện đại để quân ngụy tự gánh vác được chiến tranh.
Lợi dụng mâu thuẫn Trung – Xô, thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô
nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước đó đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
5.2 Đối phó của Đảng
Chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” là chống lại cuộc chiến tranh toàn
diện được tăng cường và mở rộng ra toàn đông Dương. Ta vừa chiến đấu trên chiến
trường vừa đấu tranh trên bàn đàm phán với địch.
Năm 1969, thực hiện Di chúc của Bác Hồ, cả nước đẩy mạnh cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
Trang 19


a. Thắng lợi về chính trị, ngoại giao
Ngày 6/6/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
thành lập, được 23 nước công nhận, 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.
Trong hai năm 1970 – 1971, nhân dân ta cùng với nhân dân hai nước Campuchia
và Lào đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự và
chính trị.
Ngày 24 đến 25/4/1970: Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương họp nhằm đối phó
việc Mĩ chỉ đạo bị tay sai làm đảo chính lật đổ Chính phủ trung lập của Xihanúc
(18/3/1970) để chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới; biểu thị quyết tâm đoàn kết
chống Mỹ.
Ở các nơi khác, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và sinh viên, học
sinh nổ ra liên tục.
Quần chúng nổi dậy phá “Ấp chiến lược”, chống “bình định”. Đầu năm 1971, cách
mạng làm chủ thêm 3600 ấp với 3 triệu dân.
b. Thắng lợi quân sự
Từ ngày 30/4 – 30/6/1970, quân dân Việt – Campuchia đập tan cuộc hành quân
xâm lược Campuchia của 10 vạn Mỹ và quân Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến 17.000 địch,
giải phóng 5 tỉnh đông bắc với 4,5 triệu dân.

Từ 12/2 đến 23/3/1971, quân dân Việt – Lào đập tan cuộc hành quân “Lam Sơn
719” của Mỹ và quân Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến 22.000 địch, giữ vững hành lang
chiến lược của cách mạng đông Dương.
Đầu năm 1972 ta chủ động mở cuộc tiến công chiến lược đánh vào quân Mỹ-Ngụy
trên khắp miền Nam, bắt đầu từ ngày 30/3/1972, ta đánh vào 3 hướng chính là Quảng Trị ,
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sau gần 3 tháng (30/3-6/1972) ta đã chọc thủng 3 phòng
tuyến quan trọng của địch. Đẩy chiến lược Việt Nam hóa đứng trước nguy cơ bị phá sản.
Thắng lợi trên mặt trận quân sự đã hỗ trợ và thúc đẩy phong trào đấu tranh chính
trị, chống “bình định”.
5.3 Ý nghĩa
Trang 20


Giáng một đòn nặng nề vào quân ngụy và quốc sách bình định của chiến lược Việt
Nam hóa, tạo ra bước ngoặc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Buộc Mỹ phải tuyên bố Mỹ hóa trở lại cuộc chiến tranh tức là thừa nhận sự thất bại
của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh.

Trang 21


PHẦN 3 - KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu đề tài “Tóm tắt các chiến lược đế quốc mỹ đã sử dụng ở chiến
tranh việt nam (1954 - 1975)’’, tiểu luận đã đạt được một số kết quả như sau:
1.

Tập hợp, mô tả và đi sâu phân tích những âm mưu, thủ đoạn và những chiến lược
chiến tranh cụ thể của đế quốc Mỹ, từ đó Đảng ta đã đưa ra những chiến lược đối

phó cụ thể để giúp đất nước ta luôn dành thằng lợi.

2. Qua tiểu luận cho thấy được quyết tâm của quân Mỹ muốn chiếm Việt Nam và sự
thông minh tài tình của Đảng ta khi chống lại một đế quốc mạnh như thế. Điều đó
cho chúng ta thấy rằng chân lý luôn luôn đúng và những nước nào chiến đấu để
bảo vệ cho chân lý và cho lẽ phải luôn dành được thắng lợi.
3. Muốn thắng được đế quốc đế quốc hùng mạnh như Mỹ cho chúng ta thấy được sự
đoàn kết của toàn dân tộc.

Trang 22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu in
[1] Giáo trình Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc

gia, 2014.
Các trang điện tử
[2] “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết mậu thân 1968, đánh thắng chiến lược “Chiến

tranh cục bộ” của Mỹ (1965-1968)”, Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
[3] “Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ (1961-1965)”, Cổng thông tin

điện

tử

Chính

phủ


nước

Cộng

hòa



Trang 23



hội

chủ

nghĩa

Việt

Nam,



×