Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 91 trang )

1

1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, trong hoạt động của các NHTM thì tín
dụng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trên cả hai phương diện: Quy mô sử
dụng vốn và khả năng tạo ra lợi nhuận. Ở phương diện sử dụng vốn thì đa phần
các NHTM đều có tín dụng chiếm khoảng 70% trên tổng tài sản có. Do đó lợi
nhuận và rủi ro từ hoạt động này là cao nhất mà một NHTM phải đối mặt. [33]
Trong nền kinh tế thị trường, khi nhắc đến tín dụng thì tất cả mọi người kể
cả các nhà kinh tế đều đề cập đến vai trò to lớn của tín dụng đó là: Tín dụng là
một kênh dẫn vốn từ người thừa vốn chưa có nhu cầu sử dụng đến người đang có
nhu cầu sử dụng vốn. Theo đó, người cho vay sẽ thu được lãi, người sử dụng cuối
cùng số vốn đó sẽ tạo ra lợi nhuận, nền kinh tế sẽ tạo ra được thêm việc làm. Từ
các hệ quả trên, ta thấy tín dụng đã góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế và
có thể coi đây như là mạch máu trong một cơ thể sống. Nhưng chính hoạt động tín
dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro mà hệ quả của nó gây ra cho nền kinh tế là vô cùng
to lớn. [33]
Ngày nay, hòa mình vào xu thế hội nhập kinh tế thế giới, các doanh nghiệp,
tổ chức nước ngoài sẽ xâm nhập thị trường Việt Nam mở ra nhiều cơ hội cùng với
nhiều thách thức. Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế sẽ tạo ra một
môi trường cạnh tranh gay gắt từ đó làm cho nợ xấu có thể gia tăng gây ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng
thương mại nói riêng. Từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết cho các nhà quản lý về tài
chính – ngân hàng phải ứng dụng một biện pháp quản trị rủi ro sao cho hiệu quả
nhất. Và nội dung của hiệp ước Basel II (06/2004) về “Tiêu chuẩn vốn quốc tế”
giúp đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro, qua đó giảm thiểu được rủi ro
mà nhất là rủi ro tín dụng, khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận đã được xem như
là giải pháp nâng cao tiêu chuẩn ngân hàng tại hội nghị lần thứ 21 của Hiệp Hội
Ngân Hàng Châu Á.



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
2

Nhận thấy được tầm quan trọng của việc quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt
động của NHTM, trong sự vận động của nền kinh tế, đồng thời thấy được tính ưu
việt trong nội dung của Hiệp ước Basel II đối với quản trị rủi ro trong đó có rủi ro
về tín dụng. Vì thế em quyết định thực hiện đề tài: “Nâng cao chất lượng quản
trị rủi ro tín dụng theo Basel II tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á –
Phòng giao dịch Tân Hiệp” với mong muốn đem đến cái nhìn tổng quát về hoạt
động quản trị rủi ro tín dụng hiện tại. Qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao
khả năng ứng dụng Basel II trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng. Từ đó hoàn
thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng trong các NHTM nói chung và Ngân Hàng
Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp nói riêng.
2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu đề tài
Trên các diễn đàn kinh tế cũng như trong thực tế hoạt động của các
NHTM, rủi ro tín dụng luôn là vấn đề được đề cập đến nhiều nhất. Nó được ví
như là mắc xích quan trọng trong quản trị rủi ro của một ngân hàng NHTM.
Tại hội nghị thường niên của Hiệp Hội Ngân Hàng Châu Á (ABA) tổ chức
vào hai ngày 4 và 5/11/2004 với chủ đề: “Các Ngân Hàng Châu Á Vươn Lên
Ngang Tầm Với Những Thách Thức” đã bàn đến việc ứng dụng nội dung Hiệp
ước Basel II trong hệ thống NHTM để có thể hạn chế được các rủi ro. Chủ tịch
ABA - Dong Soo Choi cho rằng: “Tất cả các ngân hàng trong khu vực cần nâng
cấp hơn nữa để đáp ứng được những quy định của Basel II”. [31]
Trong ngành Tài chính - Ngân hàng, quản trị rủi ro tín dụng luôn là đề tài

nóng được các sinh viên, giảng viên, nghiên cứu sinh và các chuyên gia tham gia
bàn luận sôi nổi bằng các bài báo khoa học, các công trình nghiên cứu nhằm tạo
sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn để tìm được cách giải quyết hợp lý và khoa
học nhất trong lĩnh vực này.
Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của trường đại học Lạc Hồng thì đề
tài về nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng đã có một số sinh viên thực
hiện. Các đề tài đều đã đề ra được một số biện pháp tháo gỡ những khó khăn tồn


3

tại trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, mở rộng và nâng cao chất lượng hiệu
quả quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, mỗi tác giả
thực hiện đề tài của mình trong thời gian, không gian, và tình hình kinh tế xã hội
khác nhau nên sẽ có những đề xuất, kiến nghị khác nhau mà trong đó sẽ có những
đề xuất không còn phù hợp trong tình hình kinh tế phát triển theo xu thế hội nhập
toàn cầu, cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay. Do đó, em quyết định tiếp tục thực
hiện đề tài này nhưng sẽ đi sâu nghiên cứu về khả năng ứng dụng Basel II – một
giải pháp được nhiều nước phát triển áp dụng trong hoạt động quản trị rủi ro tín
dụng. Từ đó nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng ở các NHTM nói chung
và Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp nói riêng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
¾ Tiếp cận và nắm bắt được tình hình QTRRTD tại Ngân Hàng Thương Mại
Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp.
¾ Phân tích được ưu và nhược điểm của công tác QTRRTD hiện tại, đánh
giá mức độ ứng dụng Basel II trong QTRRTD tại ngân hàng.
¾ Đề ra giải pháp và kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao khả năng
ứng dụng Basel II trong QTRRTD từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân
Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á cũng như PGD Tân Hiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

• Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động QTRRTD và ứng dụng Basel II tại Ngân Hàng Thương
Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp.
• Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu: Năm 2008, 2009, 2010.
- Không gian nghiên cứu: Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á –
Phòng giao dịch Tân Hiệp.


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
4

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tại bàn sách: Thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu.
- Phương pháp thực tế hiện trường: Thu thập số liệu qua khảo sát thực tế,
phỏng vấn trao đổi với cán bộ phụ trách đơn vị.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đất nước ngày càng đi lên với sự phát triển kinh tế ngày càng mạnh mẽ.
Theo đó thì tất cả các lĩnh vực, các thành phần trong nền kinh tế đều có sự chuyển
mình theo từng ngày, từng giờ cho phù hợp với tình hình mới trước những biến
động trong nước và trên thế giới. Và ở lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng thì yêu cầu
đổi mới là cấp thiết hơn bao giờ hết.
Đề tài “Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II tại
Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp” được

tiến hành trên cơ sở thu thập mới số liệu trong hoạt động tín dụng, và việc ứng
dụng Basel II trong QTRRTD của hệ thống NHTM nói chung và Ngân Hàng
Thương Mại Cổ Phần Đại Á nói riêng trong năm 2010 sẽ đem đến cái nhìn tổng
quát về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng trong tình hình hội nhập kinh tế thế giới
theo tinh thần Hiệp ước Basel II. Qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao khả
năng ứng dụng Basel II trong QTRRTD, từ đó nâng cao hiệu quả QTRRTD của
các NHTM trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
7. Kết cấu nội dung nghiên cứu
Chương 1: Tổng quan lý luận về QTRRTD theo Basel II trong NHTM.
Chương 2: Thực trạng ứng dụng Basel II trong QTRRTD tại Ngân Hàng
Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp.
Chương 3: Giải pháp nâng cao khả năng ứng dụng Basel II trong
QTRRTD tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân
Hiệp.


5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG THEO BASEL II TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Lý luận về RRTD trong hoạt động của NHTM
1.1.1 Khái niệm tín dụng
Tín dụng là một thuật ngữ có gốc từ tiếng La Tinh là: Creditum, mang ý
nghĩa “tin tưởng, tín nhiệm”. Trong Tiếng Anh đó là “Credit” và theo Tiếng Việt
diễn giải đó là sự vay mượn. [13]
Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển
giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định dựa trên
nguyên tắc có sự hoàn trả cả vốn và lãi theo thời hạn đã thỏa thuận. [13]
Cho vay vốn
Chủ thể cho vay


Chủ thể đi vay

(Lender)

Hoàn trả vốn và lãi

(Borrower)

Sơ đồ 1.1 Định nghĩa tín dụng [13]
(Nguồn: Đoàn Thị Hồng Nga, Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh 7 TPHCM) [13]
Bài nghiên cứu này chúng ta chỉ xem xét tín dụng của NHTM và tín dụng
trong hoạt động của một ngân hàng được định nghĩa như sau:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ NH
cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định. [11]
Cũng như quan hệ TD khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung: [11]
¾ Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang
cho người sử dụng; [11]
¾ Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính tạm thời; [11]
¾ Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí. [11]
1.1.2 Rủi ro tín dụng
1.1.2.1 Khái niệm RRTD
Theo điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý RRTD trong hoạt động NH của TCTD (ban hành theo Quyết định


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai

tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
6

493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN) thì “RRTD trong
hoạt động NH của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động NH
do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”. [15]
Nói cách khác, RRTD là rủi ro phát sinh khi khách hàng không thực hiện
đúng các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng TD sau khi được NH cấp TD.
1.1.2.2 Phân loại RRTD
Theo nguyên nhân dẫn đến RRTD thì RRTD được phân loại theo sơ đồ sau:
Rủi ro tín
dụng

Rủi ro giao
dịch

Rủi ro lựa
chọn

Rủi ro bảo
đảm

Rủi ro danh
mục

Rủi ro

nghiệp vụ

Rủi ro nội
tại

Rủi ro tập
trung

Sơ đồ 1.2 Phân loại RRTD [4]
(Nguồn: Trần Tiến Chương, Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam) [4]
Theo như sơ đồ thì RRTD được phân thành hai loại chính: Rủi ro giao dịch
và rủi ro danh mục.
Rủi ro giao dịch: Là rủi ro phát sinh trong quá trình ngân hàng cấp TD cho
khách hàng. Nó bao gồm các rủi ro sau:
• Rủi ro lựa chọn: Xuất phát từ những sai sót trong các khâu về thẩm
định, xét duyệt hồ sơ cấp TD cho khách hàng.
• Rủi ro bảo đảm: Là loại rủi ro liên quan đến những điều khoản đảm
bảo và cam kết trong hợp đồng TD có chỗ chưa rõ ràng hoặc sơ hở làm cho ngân
hàng không thu hồi được khoản TD đã cấp đúng như mong đợi.


7

• Rủi ro nghiệp vụ: Phát sinh từ việc thiếu quản lý, giám sát khoản TD đã
cấp, để cho người đi vay sử dụng khoản TD đã cấp không đúng như cam kết dẫn
đến làm ăn thua lỗ và mất khả năng hoàn trả.
Tiếp đến là rủi ro danh mục, đây là rủi ro xuất phát từ những hạn chế trong
việc quản lý nhiều khoản TD kết hợp với nhau trong danh mục TD của ngân hàng.
Nó bao gồm hai loại rủi ro là: Rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

• Rủi ro nội tại là rủi ro liên quan đến những đặc điểm riêng có của từng
loại TD như là: Cho vay tín chấp hay thế chấp, thời hạn vay dài hay ngắn, lĩnh vực
hoạt động của khoản TD được cấp.
• Rủi ro tập trung xuất hiện khi ngân hàng thiếu sự đa dạng trong hoạt
động cấp TD như chỉ tập trung cấp TD có các khách hàng hoạt động trong cùng lĩnh
vực, cấp TD với lãi suất cao, … tất cả những điều này một khi có sự biến động
không tốt xảy ra thì danh mục TD của ngân hàng sẽ bị tác động toàn bộ do mang
tính tập trung nên hiệu ứng sẽ xảy ra cùng lúc.
1.1.3 Nguồn gốc phát sinh RRTD trong NHTM
1.1.3.1 Từ phía khách hàng
Khách hàng là chủ thể được cấp TD nên các nguyên nhân phát sinh RRTD từ
đối tượng này là chủ yếu nhất, như là:
Sau khi được cấp TD, khách hàng sử dụng vốn vay không đúng như cam
kết, làm ăn thua lỗ gây thất thoát vốn từ đó mất khả năng trả lãi và vốn gốc cho NH.
Khách hàng sau khi được cấp TD có hành vi vi phạm pháp luật bị cơ quan
công an truy tố phải chịu án tù hay tử hình từ đó không còn khả năng trả nợ.
Nguyên nhân phổ biến nhất gây phát sinh RRTD từ phía khách hàng đó
chính là khách hàng không có thiện chí trả nợ. Cho nên dù có khả năng tài chính
đầy đủ nhưng khách hàng vẫn tìm mọi cách trì hoãn hay từ chối thanh toán vốn gốc
và lãi cho ngân hàng.
1.1.3.2 Từ phía ngân hàng


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

8

Ngân hàng dù luôn mong muốn hạn chế đến mức thấp nhất mọi RRTD
nhưng cũng chính trong bản thân chủ thể này vẫn tồn tại một số yếu tố tiềm ẩn có
thể gây ra RRTD như sau:
Quy trình TD của ngân hàng còn bộc lộ nhiều sai sót đặc biệt là ở khâu thẩm
định. Các quyết định sai lầm ở khâu này sẽ dẫn đến việc cấp TD cho những dự án
không khả thi, rủi ro cao hay cấp TD cho những khách hàng có lịch sử trả nợ không
tốt, có tài sản đảm bảo không đáng giá, không hợp pháp, nằm trong diện tranh chấp,
… từ đó làm cho RRTD cao, việc thu hồi nợ trở nên khó khăn.
Hiện nay việc lập hồ sơ, đánh giá để xét duyệt cấp TD là ở cán bộ TD nên
RRTD xuất phát từ đối tượng này là cao hơn bao giờ hết khi mà các cán bộ TD có
tư cách đạo đức không tốt, trục lợi cá nhân hoặc chuyên môn nghiệp vụ còn yếu
kém thì tất yếu việc cấp những khoản TD xấu sẽ không tránh khỏi.
Sau khi đã cấp TD, nếu ngân hàng không giám sát để cho khách hàng sử
dụng vốn vay không đúng như mục đích đã cam kết thì sẽ dẫn đến thất thoát vốn
thậm chí mất khả năng hoàn trả.
RRTD còn phát sinh do chính sách TD không hợp lý của ngân hàng. Khi áp
dụng chính sách thắt chặt, NH chỉ tập trung cấp TD cho một số lĩnh vực hoạt động
hay những dự án có tỷ suất sinh lợi cao như: Bất động sản, chứng khoán, … mà lợi
nhuận càng nhiều thì rủi ro sẽ càng cao. Do đó RRTD của ngân hàng cũng tăng lên.
Ngược lại, với chính sách TD mở rộng thực hiện trong tình hình cạnh tranh gay gắt
sẽ dẫn đến việc cấp TD quá dễ dàng có khi là liều lĩnh. Vì thế nếu có nhiều khoản
nợ không thể thu hồi khi thực hiện chính sách này thì đó là điều tất yếu.
1.1.3.3 Một số nguyên nhân mang tính khách quan khác
Tác động của môi trường vĩ mô: Giá cả, cung cầu hàng hóa, … làm cho kế
hoạch kinh doanh của doanh nghiệp không được như mong đợi, từ đó lợi nhuận của
doanh nghiệp có nguy cơ giảm xuống và thậm chí là thua lỗ.
Về phía khách hàng cá nhân, khi giá cả tăng lên dẫn đến chi phí sinh hoạt
ngày càng cao hơn so với các khoản thu nhập nên việc trả nợ trở nên khó khăn hơn.



9

Chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh: Khi chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh xảy
ra thì không một cá nhân hay tổ chức nào có thể tiếp tục hoạt động sản xuất kinh
doanh. Điển hình gần đây nhất đó là khi đại dịch H1N1 bùng nổ trên toàn cầu vào
năm 2010 thì Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) yêu cầu phong tỏa, tạm ngưng hoạt
động bất cứ đơn vị nào phát hiện có dịch để kiểm tra phòng ngừa dịch bệnh lan
rộng. Trong tình hình như vậy thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
sẽ bị đình trệ nên khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng cũng bị ảnh hưởng.
An ninh, chính trị quốc gia: Hoạt động trong một quốc gia mất an ninh xã
hội, bất ổn về chính trị thì RRTD của ngân hàng là vô cùng lớn. Vì sau khi được cấp
TD thì khách hàng khó có thể làm ăn, kinh doanh thuận lợi trong tình hình thiếu an
ninh và bất ổn về chính trị, như vậy thu nhập và lợi nhuận sẽ không ổn định dẫn đến
việc thanh toán lãi và nợ gốc cho ngân hàng cũng khó đảm bảo đúng như cam kết
trong hợp đồng TD.
Môi trường pháp lý: Đây là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả
năng phát sinh nợ quá hạn. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản
dưới luật chưa được đầy đủ và đồng bộ, không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành
mạnh cho các hợp đồng kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho NH. [30]
Nói chung các nguyên nhân khách quan gây ra RRTD là những nguyên nhân
nằm ngoài tầm kiểm soát của cả khách hàng lẫn ngân hàng, nên cho dù ngân hàng
có các biện pháp phòng chống RRTD tuyệt vời, khách hàng có thiện chí trả nợ thì
ngân hàng cũng khó có thể thu hồi được khoản TD đã cấp như mong muốn.
1.1.4 Tác động của RRTD
RRTD luôn tồn tại trong mọi nghiệp vụ cấp TD của NHTM mà tác động của
nó không chỉ trong nội bộ của mỗi NHTM mà nó còn có tính lan truyền trong cả hệ
thống NH và thậm chí là ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

1.1.4.1 Đối với hoạt động của NHTM
Như ta đã biết, NHTM hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay”, vốn
cho vay chủ yếu dựa trên nguồn vốn ngân hàng huy động được và lãi suất cho vay


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
10

phải lớn hơn lãi suất huy động thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới đảm
bảo an toàn và có hiệu quả. Các khoản nợ quá hạn một mặt làm kéo dài thời hạn các
khoản TD, mặt khác có khả năng dẫn đến làm mất vốn của các NHTM làm cho các
NHTM rơi vào tình thế không đảm bảo khả năng hoàn trả vốn cho người gửi tiền.
Tình trạng mất khả năng thanh toán tạm thời có thể làm giảm uy tín của ngân hàng
một cách nghiêm trọng, đánh mất lòng tin của người gửi tiền đối với ngân hàng.
Những người gửi tiền đồng loạt đòi rút tiền đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản. Các
khoản nợ quá hạn luôn chứa đựng khả năng không thu hồi được vốn (một phần hoặc
toàn bộ) và đặt NHTM trước tình trạng mất vốn. [13]
1.1.4.2 Đối với hệ thống NHTM
Hoạt động của một ngân hàng trong một quốc gia có liên quan đến hệ thống
ngân hàng và các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân trong nền kinh tế. Do vậy nếu
một ngân hàng có kết quả hoạt động xấu, thậm chí dẫn đến mất khả năng thanh toán
và phá sản thì sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng xấu các ngân hàng và
các bộ phận kinh tế khác. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của NHNN và Chính
phủ thì tâm lý sợ mất tiền sẽ lây lan đến toàn bộ người gửi tiền và họ sẽ đồng loạt

rút tiền tại các NHTM làm cho các ngân hàng khác vô hình chung cũng rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán.[4]
1.1.4.3 Đối với nền kinh tế
Ở mức độ trầm trọng, nợ quá hạn không chỉ làm cho một NHTM bị mất vốn,
mất khả năng thanh toán, đi đến phá sản ngân hàng mà còn kéo theo sự chao đảo
của một loạt các NHTM khác trong hệ thống các ngân hàng. Sự việc đó sẽ gây rối
loạn quá trình lưu thông tiền tệ trong nước, giảm giá đồng nội tệ, dẫn đến đình trệ
sản xuất kinh doanh, gây khủng hoảng kinh tế trầm trọng. [13]
1.1.4.4 Trong quan hệ kinh tế quốc tế
Khi hệ thống ngân hàng của một quốc gia xảy ra sự cố về RRTD dẫn đến
tính thanh khoản giảm. Điều này sẽ làm xấu đi hình ảnh và uy tín trong các quan hệ
hợp tác quốc tế của các NHTM trong nước và cũng như chính quốc gia đó.


11

Tóm lại, RRTD của một ngân hàng xảy ra sẽ gây ảnh hưởng ở các mức độ
khác nhau: Nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi phải trích lập dự phòng,
không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn gốc
và lãi vay, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình
trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì
vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện
pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.[4]
1.1.5 Một số chỉ tiêu đánh giá RRTD
RRTD là rủi ro không thu hồi được lãi và gốc của các khoản TD đã cấp cho
khách hàng. Vì thế các chỉ tiêu đánh giá RRTD chủ yếu ghi nhận từ các khoản nợ
quá hạn, nợ xấu. Do đó, chúng ta cần nắm rõ cách phân loại nợ của một NHTM
theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước (phụ lục 1) để hiểu được một số chỉ tiêu
đánh giá RRTD như sau:

1.1.5.1 Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh thể chế. Nó
tác động tới tất cả các lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng. Cách xác định chỉ
tiêu này với kết quả thấp sẽ chứng tỏ các khoản TD của ngân hàng đảm bảo chất
lượng, mức rủi ro trong việc cấp TD của ngân hàng là thấp. Ngược lại, nếu tỷ lệ này
cao thể hiện khả năng sử dụng đồng vốn của ngân hàng thấp. [8]
Tỷ lệ nợ quá hạn

=

Dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ cho vay

x100% [8]

Số khách hàng quá hạn
Tỷ lệ nợ khách hàng
=
có nợ quá hạn
Tổng số khách hàng có dư nợ

x100% [1]

1.1.5.2 Tỷ lệ nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi

=

Dự phòng bù đắp rủi ro
Tổng dư nợ


1.1.5.3 Tình hình rủi ro mất vốn

x100% [11]


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
12

Tỷ lệ dự phòng
RRTD

=

Tỷ lệ mất vốn

=

Dự phòng RRTD được trích lập
Dư nợ cho kỳ báo cáo

x100% [8]

Mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo

Dư nợ trung bình cho kỳ báo cáo

x100% [8]

1.1.5.4 Tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu là những khoản nợ có số ngày quá hạn hơn 90 ngày như các khoản
nợ ở nhóm 3, 4, 5 và có một số đặc điểm cơ bản sau:
• Các cam kết về hoàn trả khoản TD đã cấp của ngân hàng cho khách hàng đã
quá hạn nhưng vẫn chưa được thực hiện.
• Ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được vốn gốc và lãi do tình hình tài
chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu đi.
• Giá trị của các tài sản đảm bảo khi phát mãi không đủ bù đắp cho vốn gốc
mà ngân hàng đã bỏ ra.
Tỷ lệ nợ xấu

=

Nợ xấu
Tổng dư nợ cho vay

x100% [8]

1.1.5.5 Hệ số RRTD
Hệ số này càng cao càng cho thấy hoạt động TD chiếm tỷ trọng lớn trong
hoạt động của NHTM và như vậy RRTD cũng sẽ cao hơn.
Hệ số RRTD

=

Tổng dư nợ cho vay

Tổng tài sản có

x100% [8]

1.1.5.6 Khả năng bù đắp rủi ro
Dự phòng RRTD được trích lập
Hệ số khả năng bù đắp các
=
khoản cho vay bị mất
Dư nợ bị thất thoát
Hệ số khả năng bù đắp RRTD
1.2 Quản trị RRTD trong NHTM
1.2.1 Quản trị rủi ro

=

Dự phòng RRTD được trích lập
Nợ quá hạn khó đòi

x100% [8]

x100% [11]


13

1.2.1.1 Khái niệm
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có
hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất
mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro.[5]

1.2.1.2 Vai trò quản trị rủi ro trong ngân hàng thương mại
Quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động
kinh doanh của ngân hàng: Trong quản trị ngân hàng, quản trị rủi ro là một nội dung
quan trọng mà các cấp lãnh đạo, quản lý, điều hành phải đặc biệt quan tâm. Vì vậy,
những nhà quản trị ngân hàng cần được trang bị các kiến thức về quản trị rủi ro,
cung cấp những thông tin kinh tế cập nhật, có đội ngũ tham mưu chuyên nghiệp và
bộ máy kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ hiệu quả là điều kiện cần thiết để
phòng ngừa, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Theo đó, nhiều ý kiến
khẳng định: “Quản trị rủi ro là nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo năng lực “sống”
hay là “chết” của một ngân hàng”. Việc báo cáo kịp thời, theo đúng yêu cầu về rủi
ro là công cụ hồ trợ đắc lực cho công tác kiểm tra, kiểm soát đồng thời thông qua
báo cáo lãnh đạo ngân hàng sẽ phát hiện được những dấu hiệu của các loại rủi ro có
nguy cơ xảy ra trong hoạt động nhằm ngăn chặn và kiểm soát kịp thời.[10]
1.2.2 Quản trị RRTD trong ngân hàng thương mại
1.2.2.1 Khái niệm quản trị RRTD
Quản trị RRTD trong NHTM là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động
TD thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa ra các biện
pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa việc không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của
khoản vay hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn.[13]
1.2.2.2 Chức năng quản trị RRTD
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, trong hoạt động của các NHTM thì tín
dụng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trên cả hai phương diện: Quy mô sử
dụng vốn và khả năng tạo ra lợi nhuận. Ở phương diện sử dụng vốn thì đa phần các
NHTM đều có tín dụng chiếm khoảng 70% trên tổng tài sản có. Do đó lợi nhuận và
rủi ro từ hoạt động này là cao nhất mà một NHTM phải đối mặt. [33]


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai

tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
14

Trong nền kinh tế thị trường, khi nhắc đến TD thì tất cả mọi người kể cả
các nhà kinh tế đều đề cập đến vai trò to lớn của TD đó là: Tín dụng là một kênh
dẫn vốn từ người thừa vốn chưa có nhu cầu sử dụng đến người đang có nhu cầu sử
dụng vốn. Theo đó, người cho vay sẽ thu được lãi, người sử dụng cuối cùng số vốn
đó sẽ tạo ra lợi nhuận, nền kinh tế sẽ tạo ra được thêm việc làm. Từ các hệ quả trên,
ta thấy TD đã góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế và có thể coi đây như là
mạch máu của một cơ thể sống. Nhưng chính hoạt động TD luôn tiềm ẩn nhiều rủi
ro mà hệ quả của nó gây ra cho nền kinh tế là vô cùng to lớn. [33]
Như vậy, quản trị RRTD tốt đồng nghĩa với quản trị tốt hoạt động của chính
ngân hàng đó, cũng như duy trì sự vận hành của hệ thống NHTM trong nước, góp
phần ổn định và phát triển kinh tế quốc gia.
1.2.2.3 Công cụ để quản trị RRTD
™ Chính sách TD: Với chính sách TD hợp lý cùng các điều khoản
ràng buộc phù hợp sẽ giúp ngân hàng hạn chế được các khoản TD xấu.
™ Giới hạn cấp TD: Hạn mức cấp TD thấp thì tất nhiên là rủi ro
gặp phải cũng sẽ thấp.
™ Định giá khoản vay: khoản vay được định giá thận trọng thì khả
năng thu hồi sẽ cao hơn.
™ Xếp hạng TD: Những doanh nghiệp làm ăn kinh doanh hiệu quả,
năng lực tài chính mạnh sẽ được xếp hạng TD cao. Vì thế cho vay những doanh
nghiệp nay sẽ an toàn hơn.
™ Tài sản thế chấp: Tài sản thế chấp là lựa chọn hàng đầu của ngân
hàng khi RRTD xảy ra.
™ Đa dạng hóa danh mục đầu tư: Muốn giảm thiểu được các rủi ro

nói chung và RRTD nói riêng thì việc đa dạng hóa đầu tư là cần thiết. Vì khi có
biến động nào đó xảy ra thì sẽ chỉ tác động đến những khoản TD có liên quan và số
còn lại có thể vẫn an toàn và hỗ trợ cho phần thiệt hại.
1.2.2.4 Đo lường RRTD [4]


15

Trên thực tế có thể sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đo lường RRTD.
Các mô hình này rất đa dạng bao gồm mô hình định tính và mô hình định lượng
(phụ lục 2).
Đo lường RRTD

Mô hình định tính

Mô hình
6C

Mô hình lượng hóa

Mô hình điểm số
Z

Mô hình xếp hạng của
Moody và Standard &Poor

Sơ đồ 1.3 Các mô hình đo lường RRTD [4]
(Nguồn: Trần Tiến Chương, Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam) [4]
1.3 Basel II với việc quản trị RRTD trong hoạt động của NHTM

1.3.1 Giới thiệu chung về Hiệp ước Basel [29]
Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking
Supervision – BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng
Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel,
Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập
kỷ 80. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện Ngân hàng Trung ương
hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà
Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý.
Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm.
Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà
nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I.
Hệ thống này cung cấp khung đo lường RRTD với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%.
Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
16

biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996,
Basel I được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá nhiều
điểm hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề
xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế
thừa Basel I; (ii) sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của

các tổ chức tài chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm
lành mạnh kỷ luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Đến
ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức
được ban hành.
1.3.2 Nội dung cơ bản của Basel I trong quản trị rủi ro của NHTM [6]
Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối
thiểu (Capital Adequacy Ratio – CAR) đạt tối thiểu 8% để bù đắp cho rủi ro, đây là
biện pháp dự phòng bắt buộc nhằm đảm bảo rằng các ngân hàng có khả năng khắc
phục tổn thất mà không ảnh hưởng đến lợi ích của người gửi tiền.
Hệ số CAR được tính như sau:
Tổng vốn
Tỷ lệ vốn tối thiểu
=
(CAR)
Tài sản có rủi ro (RWA)
Tổng vốn của ngân hàng được chia làm hai loại:

[6]

♦ Vốn cấp 1 – vốn tự có cơ bản: Bao gồm cổ phần thường, cổ phần ưu
đãi dài hạn, thặng dư vốn, lợi nhuận không chia, dự phòng chung các khoản dự trữ
vốn khác, các phương tiện ủy thác có thể chuyển đổi và dự phòng lỗ TD. Đó chính
là phần vốn điều lệ và các quỹ dự trữ được công bố.
♦ Vốn cấp 2 – vốn tự có bổ sung: Vốn này được xem là vốn có chất
lượng thấp hơn, bao gồm: Dự trữ không được công bố, dự trữ tài sản đánh giá lại,
dự phòng chung/dự phòng tổn thất cho vay chung, các công cụ vốn (nợ/vốn chủ sở
hữu), nợ thứ cấp. Tuy nhiên, các khoản nợ ngắn hạn không có bảo đảm không bao
gồm trong định nghĩa về vốn này.
Các giới hạn: Tổng vốn cấp 2 không được quá 100% vốn cấp 1; nợ thứ cấp
tối đa bằng 50% vốn cấp 1; dự phòng chung tối đa bằng 1.25% tài sản có rủi ro; dự



17

trữ tài sản đánh giá lại được chiết khấu 55%; thời gian đáo hạn còn lại của nợ thứ
cấp tối thiểu là 5 năm; vốn ngân hàng không bao gồm vốn vô hình (goodwill).
Tài sản có rủi ro (RWA): Basel I mới chỉ đề cập đến RRTD, và tùy theo mỗi
loại tài sản sẽ được gắn cho một hệ số rủi ro.
Phương trình tính tài sản có rủi ro trong Basel I:
RWA Basel I = tài sản * hệ số rủi ro [6]
Theo Basel I, hệ số rủi ro của tài sản có rủi ro được chia thành 4 mức là: 0%,
20%, 50%, và 100% theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản (phụ lục 3).
Theo biến đổi của thị trường, năm 1996, Hiệp ước Basel I được sửa đổi có
tính đến rủi ro thị trường và rủi ro thị trường có thể được tính theo hai phương pháp:
Bằng mô hình Basel hoặc bằng các mô hình nội bộ của các ngân hàng.
Nhìn chung, Basel I đã thể hiện một bước đột phá cơ bản liên quan đến tỷ lệ
an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng. Basel I phân loại tài sản có rủi ro và xác
định hệ số rủi ro cho từng loại tài sản, quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% tính
trên tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro.
1.3.3 Nội dung cơ bản của Basel II trong quản trị rủi ro của NHTM [6]
Mặc dù Basel I đã giúp quản trị ngân hàng hiệu quả hơn, đảm bảo khả năng
chống đỡ của ngân hàng với rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên, qua quá trình dài áp dụng với
xu thế phát triển như vũ bão của hệ thống ngân hàng trên thế giới thì Basel I với bản
sửa đổi năm 1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế như: Phân loại rủi ro chưa chi tiết
cho các khoản vay, chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động, chỉ mới đề cập
đến RRTD và chưa đầy đủ về rủi ro thị trường, một số các quy tắc do Basel I đưa ra
không thể vận dụng trong trường hợp ngân hàng sáp nhập hay tập đoàn ngân hàng,
ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi nhánh.
Nhằm khắc phục các hạn chế của Basel I và khuyến khích các ngân hàng
thực hiện các phương án quản lý rủi ro tiên tiến hơn, cho đến 2004 bản Hiệp ước

quốc tế về vốn Basel II đã chính thức được ban hành. Ngày hiệu lực của Hiệp ước
Basel II là tháng 12 năm 2006.


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
18

Basel II tạo một bước hoàn thiện hơn trong xác định tỷ lệ an toàn vốn nhằm
khắc phục các hạn chế của Basel I và khuyến khích các ngân hàng thực hiện các
phương pháp quản lý rủi ro tiên tiến hơn. Basel II đưa ra một loạt các phương án lựa
chọn, cho phép quyền tự quyết rất lớn trong giám sát hoạt động ngân hàng. Basel II
bao gồm một loạt các chuẩn mực giám sát nhằm hoàn thiện các kỹ thuật quản lý rủi
ro và được cấu trúc theo 3 trụ cột sau:
1.3.3.1 Trụ cột 1 của Basel II – yêu cầu vốn tối thiểu [6]
Tương tự như Basel I, Basel II vẫn quy định mức vốn an toàn (CAR) ≥ 8%,
được xác định bằng cách lấy tổng vốn chia cho tài sản có rủi ro.
Phương trình tính vốn yêu cầu tối thiểu theo Basel II
Tỷ lệ vốn tối thiểu =

Tổng vốn (giống Basel I)
≥ 8%
RWA rủi ro tín dụng + (K rủi ro hoạt động * 12.5) + (K rủi ro thị trường* 12.5)

[6]


Tổng vốn: Xác định tương tự như Basel I.
Tài sản có rủi ro (RWA): Ngoài RRTD và rủi ro thị trường đã được quy định
tại Basel I, Basel II bổ sung thêm một loại rủi ro nữa là rủi ro hoạt động. Ngoài ra,
cách tính RWA trong Basel II cũng phức tạp hơn so với Basel I, và có khả năng
đánh giá chính xác hơn mức độ an toàn vốn:
™ RWA

Basel I

™ RWA

RRTD phương pháp chuẩn Basel II

= tài sản * hệ số rủi ro (không đề cập đến xếp hạng tín

dụng).
= tài sản * hệ số rủi ro (đề cập đến

xếp hạng TD).
™ RWA Basel II = vốn yêu cầu tối thiểu đối với từng rủi ro (K) * 12.5
1.3.3.2 Trụ cột 2 của Basel II – thanh tra, giám sát ngân hàng [6]
Đưa ra các nguyên tắc chủ chốt của việc kiểm tra, giám sát.
Đề cập đến các vấn đề cụ thể phải được quan tâm trong quá trình kiểm tra
giám sát: Rủi ro lãi suất trong sổ ngân hàng, RRTD, rủi ro hoạt động, rủi ro thị
trường.
Các hướng khác của quá trình kiểm tra giám sát: Tính minh bạch giám sát,
thông tin liên lạc và sự hợp tác tăng cường qua biên giới.



19

Với trụ cột này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc chủ chốt của công tác kiểm
tra, giám sát:
• Nguyên tắc 1: Các ngân hàng cần có một quy trình đánh giá mức độ
vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược duy trì mức vốn
của họ. Trong nội dung này, quản lý ngân hàng phải gánh trách nhiệm cơ bản đối
với việc khẳng định rằng ngân hàng có vốn đủ để hỗ trợ các rủi ro xảy ra. Quá trình
quản lý rủi ro ngân hàng bao gồm các nội dung sau: Giám sát quản lý của ban giám
đốc và cấp cao; đánh giá vốn chắc chắn; đánh giá về rủi ro toàn diện, thanh tra và
báo cáo; kiểm tra kiểm soát nội bộ.
• Nguyên tắc 2: Các tổ chức giám sát cần rà soát, kiểm tra và đánh giá
lại quy trình đánh giá về yêu cầu vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như
khả năng của họ để thanh tra và khẳng định sự tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Các tổ
chức giám sát cần thực hiện hành động giám sát phù hợp nếu các ngân hàng không
hài lòng với kết quả của quy trình này. Các tổ chức giám sát cần kiểm tra các nội
dung sau: Kiểm tra tính đầy đủ vốn của các đánh giá rủi ro, đánh giá về tính đầy đủ
vốn, đánh giá về môi trường kiểm soát, kiểm tra giám sát về sự tuân thủ các tiêu
chuẩn tối thiểu, đáp ứng giám sát.
• Nguyên tắc 3: Các tổ chức giám sát cần kỳ vọng các ngân hàng hoạt
động trên các tỷ lệ vốn yêu cầu tối thiểu và khuyến nghị ngân hàng cần duy trì mức
vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định.
• Nguyên tắc 4: Các tổ chức giám sát sẽ tìm cách thâm nhập vào những
giai đoạn đầu tiên để ngăn cản mức vốn giảm xuống dưới mức tối thiểu, và có thể
yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
1.3.3.3 Trụ cột 3 của Basel II – nguyên tắc thị trường và minh bạch
thông tin [6]
Trong trụ cột 3, ủy ban Basel II đưa ra nguyên tắc minh bạch chung: Các
ngân hàng cần có chính sách về tính minh bạch được hội đồng quản trị thông qua.
Chính sách này phải thể hiện rõ cách tiếp cận của ngân hàng đối với việc xác định

sự minh bạch nào và kiểm soát nội bộ nào sẽ thực hiện theo quá trình minh bạch;


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
20

thể hiện rõ các mục tiêu và chiến lược dành cho việc công khai hóa các thông tin về
thực trạng tài chính và hoạt động ngân hàng.
Ngoài ra, các ngân hàng cũng phải xây dựng kế hoạch thực hiện công khai
tài chính bao gồm cả chu kỳ công bố. Đó là công khai cơ cấu vốn, công khai cơ cấu
rủi ro và các đánh giá rủi ro, công khai hiện trạng phù hợp vốn.
Điều này cho phép các bên tham gia thị trường có thể thẩm định mức vốn an
toàn và có sự so sánh. Các ngân hàng phải có chính sách công khai rõ ràng và một
quy trình để đánh giá sự chính xác trong các báo cáo của họ. Đối với từng loại rủi ro
riêng biệt, các ngân hàng phải mô tả các mục tiêu và các chính sách quản trị rủi ro.
Như vậy, từ một văn bản 30 trang (Basel I) đã được phát triển thành một văn
bản gần 250 trang là một sự xây dựng chi tiết. Với quá trình phát triển của Basel và
những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, nếu áp dụng đúng các tiêu chuẩn này thì
việc đánh giá sức khỏe của các ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài chính nói chung
sẽ trở nên dễ dàng và minh bạch hơn, đảm bảo phòng ngừa nhiều loại rủi ro hơn.
1.3.4 Phương pháp xác định RRTD Basel II
Theo Basel II, để đo lường và tính toán hệ số rủi ro đối với các khoản mục
tài sản trong QTRRTD có 2 phương pháp cơ bản đó là: Phương pháp chuẩn
(Standardized) và phương pháp xếp hạng nội bộ (IRB).

1.3.4.1 Phương pháp chuẩn đánh giá RRTD [6]
Theo phương pháp chuẩn, tài sản có rủi ro được xác định như sau:
RWA Phương pháp chuẩn của Basel II = Tài sản * Hệ số rủi ro

[6]

Phương pháp này gần giống như ở Basel I, nhưng có một số điểm khác biệt:
¾ Basel I không đề cập đến xếp hạng TD, các khoản cho vay tương ứng
với từng hệ số rủi ro.
¾ Basel II đề cập đến xếp hạng TD, không áp đặt hệ số rủi ro rõ ràng
cho từng khoản mục mà còn tùy thuộc vào việc khoản mục đó được thực hiện với
chủ thể nào, uy tín và xếp hạng TD của chủ thể. Việc xếp trọng số bao nhiêu tùy
thuộc mức độ tín nhiệm (xếp hạng TD) của chủ nợ (từ AAA đến dưới B- và không
xếp hạng) do các cơ quan xếp hạng tín nhiệm quy định như S&P.


21

¾ Điểm khác biệt nữa trong Basel II là nợ được chia thành 5 nhóm có
thêm hệ số 150%. Trọng số lần lượt là: 0%, 20%, 50%, 100% và 150% (phụ lục 4).
1.3.4.2 Phương pháp xếp hạng nội bộ (IRB) [6]

Sơ đồ 1.4 Cấu trúc cơ bản của phương pháp IRB [6]
(Nguồn: Chu Thị Hương Giang, Ứng dụng Hiệp Ước Basel II vào hệ thống quản trị
rủi ro tại các NHTM Việt Nam) [6]
Xác suất vỡ nợ (PD – probability of default): Đo lường khả năng xảy ra
rủi ro TD tương ứng trong một khoảng thời gian, thường là một năm. Cơ sở để tính
PD là các số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm các khoản nợ
đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được.
Theo yêu cầu của Basel II, để tính toán được nợ trong vòng một năm của

khách hàng, ngân hàng phải căn cứ vào số liệu dư nợ của khách hàng trong vòng ít
nhất là 5 năm trước đó. Những dữ liệu được phân theo 3 nhóm sau:
Nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các hệ số tài chính của khách
hàng cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng.
Nhóm dữ liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý,
khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng tăng
trưởng của ngành.


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
22

Những dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo
hiệu khả năng không trả được nợ cho ngân hàng như số dư tiền gửi, hạn mức thấu
chi, … rồi từ những dữ liệu trên, ngân hàng nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó
tính được xác suất không trả được nợ của khách hàng. Đó có thể là mô hình tuyến
tính, mô hình propit, … và thường được xây dựng bởi các tổ chức tư vấn chuyên
nghiệp.
Thiệt hại do vỡ nợ (LGD – loss given default): Đây là tỷ trọng phần vốn
bị tổn thất trên tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD không
chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao gồm các tổn thất khác phát sinh khi
khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không được thanh toán
và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: Chi phí xử lý tài sản thế chấp, các
chi phí cho dịch vụ pháp lý và một số chi phí liên quan.

Trong phương pháp IRB cơ bản thì đối với các khoản phải đòi chính đối với
các công ty, cơ quan Chính phủ và các ngân hàng không có tài sản đảm bảo sẽ được
chỉ định giá trị LGD là 45%, nếu là các khoản phải đòi phụ đối với các tổ chức trên
sẽ được chỉ định là 75%. Đối với các khoản phải đòi có tài sản đảm bảo là khoản
phải thu, bất động sản thương mại (CRE) và bất động sản cư trú (RRE) và các tài
sản đảm bảo khác được vận dụng phương pháp chuẩn với giá trị LGD tối thiểu sau:
Bảng 1.1 Giá trị LGD tối thiểu đối với tỷ trọng đảm bảo các hoạt động chính
LGD

Mức độ đảm bảo tối

Mức độ đảm bảo yêu

tối

thiểu yêu cầu đối

cầu vượt quá đối với

thiểu

với hoạt động (C)

LGD đầy đủ (C)

Tài sản tài chính đủ tiêu chuẩn

0%

0%


Chưa quy định

Khoản phải thu

35%

0%

125%

CRE/RRE

35%

30%

140%

Khoản cầm cố khác

40%

30%

140%

Loại tài sản đảm bảo

(Nguồn:International Convergence of Capital Measurement & Capital Standards) [34]

Còn trong phương pháp IRB nâng cao thì việc ước tính LGDs có thể phản
ánh hiệu quả tác động giảm thiểu rủi ro của hoạt động bảo lãnh và các sản phẩm tín


23

dụng phái sinh thông qua điều chỉnh PD hoặc LGD. LGD phải được tính theo tỷ lệ
phần trăm phần thiệt hại do vỡ nợ so với EAD.
Giá trị hoạt động khi vỡ nợ (EAD – exposure at default): Tổng dư nợ của
khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ.
Kỳ đáo hạn hiệu dụng (M – effective maturity): Khi các ngân hàng sử
dụng phương pháp IRB cơ bản thì M sẽ là 2.5 năm trừ các giao dịch repo với M chỉ
là 6 tháng. Cơ quan giám sát quốc gia có thể lựa chọn mức yêu cầu trong phạm vi
quyền hạn của mình (đối với những ngân hàng sử dụng cả IRB cơ bản và nâng cao)
để đo lường M theo công thức dưới đây. Tuy nhiên, M không được lớn hơn 5 năm.
Nếu các ngân hàng sử dụng IRB nâng cao, thì M cần được tính toán cho từng công
cụ theo công thức. Nếu muốn áp dụng cho các trường hợp ngoại lệ đặc biệt thì phải
đảm bảo rằng các khoản phải đòi đối với hoạt động của các doanh nghiệp trong
nước quy mô nhỏ có kỳ đáo hạn hiệu dụng trung bình là 2.5 năm giống như trong
phương pháp IRB cơ bản.
Công thức: M =

∑ t × CF
∑ CF
t

t

t


[6]

t

với CFt là ngân lưu hàng năm (gốc, lãi và phí) theo hợp đồng phải trả trong
kỳ hạn t. Nếu ngân hàng không tính được M theo công thức thì sẽ sử dụng cách cổ
điển khi tính M, đó là M bằng với thời gian đáo hạn tối đa còn lại (theo năm) mà
người vay chấp nhận thanh toán toàn bộ theo nghĩa vụ hợp đồng vay (gốc, lãi và
phí). Thông thường, đó chính là thời gian đáo hạn danh nghĩa của khoản vay hoặc
các công cụ.
Phương pháp IRB sẽ dựa trên việc đo lường những thiệt hại không mong đợi
(UL – unexpected losses) và các thiệt hại biết trước (EL – expected losses). Hàm
số hệ số rủi ro được sử dụng làm cơ sở tính toán nhu cầu vốn cần thiết cho tỷ trọng
các thiệt hại không mong đợi (UL):
UL =

K
[6]
f (M )

Điều chỉnh kỳ đáo hạn f(M) được xác định bằng công thức:


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

24

f(M) =

1 + ( M − 2.5) * b
[6]
1 − 1.5 * b

Trong đó b = (0.11852-0.05478*ln(PD))2
Mỗi ngân hàng cần tính tổng các phần thiệt hại có thể nhận biết trước cùng
với giá trị hoạt động của mình. Đối với khách hàng là doanh nghiệp, ngân hàng
khác, hoạt động bán lẻ và cơ quan Chính phủ, EL = PD x LGD. Đối với các hoạt
động SL, EL được tính bằng cách lấy 8% x tài sản có rủi ro từ các hệ số rủi ro tương
ứng.
Ngoài ra, với phương pháp IRB này thì các ngân hàng cũng phải phân hạng
tài sản trên sổ sách của mình theo nhiều loại khác nhau, với những tính chất đặc thù
tùy theo từng nhóm khoản phải đòi đối với các chủ thể như như (a) doanh nghiệp,
(b) chính quyền Nhà nước, (c) ngân hàng, (d) cá nhân, các khoản mục lẻ và (e) vốn.
Mỗi hạng tài sản này theo phân loại của IRB sẽ bao gồm ba nhân tố cơ bản:
Yếu tố rủi ro – ước tính biến số rủi ro của các ngân hàng hoặc cơ
quan giám sát.
Hàm số về hệ số rủi ro – các phương tiện giúp thành tố rủi ro được
chuyển đổi thành tài sản có rủi ro và từ đó tính toán nhu cầu vốn.
Yêu cầu tối thiểu – các chuẩn mực tối thiểu phải đạt đến đối với một
ngân hàng muốn áp dụng phương pháp IRB.
Ủy ban đã cho phép các ngân hàng có hai sự lựa chọn khi áp dụng IRB, một
là phương pháp IRB cơ bản và hai là phương pháp IRB nâng cao. Nếu sử dụng IRB
cơ bản, theo quy định chung, các ngân hàng tự ước tính PD và dựa trên ước tính của
cơ quan giám sát về các thành tố rủi ro khác. Nếu sử dụng IRB nâng cao, ngân hàng
sẽ phải tự đưa ra ước tính cho tất cả thành tố rủi ro bao gồm PD, LGD và EAD,

đồng thời tự tính toán biến số M, nhưng phải tuân theo các chuẩn mực tối thiểu. Đối
với cả hai phương pháp cơ bản và nâng cao, các ngân hàng phải luôn luôn sử dụng
hàm số hệ số rủi ro theo quy định cụ thể của Hiệp ước.
PD và LGD được đo bằng số thập phân hoặc tỷ lệ phần trăm, EAD được đo
lường bằng đơn vị tiền tệ (ví dụ như EUR, USD).


25

Cách tính RWA đối với từng trường hợp cụ thể xem chi tiết tại phụ lục 5.
1.4 Đánh giá tình hình QTRRTD theo Basel II của NHTM trên thế giới
1.4.1 Tình hình ứng dụng Basel II trên thế giới [6]
Trong cuộc khảo sát QIS 5, ủy ban Basel đã phân chia các ngân hàng được
khảo sát thành 2 nhóm. Trong đó, nhóm 1 là những ngân hàng có vốn cấp 1 từ 3 tỷ
USD trở lên và hoạt động đa ngành, đa quốc gia và nhóm 2 là những ngân hàng có
vốn cấp 1 nhỏ hơn 3 tỷ USD.

Biểu đồ 1.1 Ứng dụng các phương pháp đánh giá RRTD của Basel II ở nhóm 1
(Nguồn: Results of the fifth quanlitative impact study) [35]

Biểu đồ 1.2 Ứng dụng các phương pháp đánh giá RRTD của Basel II ở nhóm 2
(Nguồn: Results of the fifth quanlitative impact study) [35]
Theo kết quả khảo sát về việc ứng dụng các phương pháp của Hiệp ước
Basel II trong đánh giá RRTD, nhận thấy các ngân hàng thuộc các quốc gia G10
chủ yếu ứng dụng các phương pháp xếp hạng nội bộ (trong đó các ngân hàng thuộc
nhóm 1 chủ yếu ứng dụng phương pháp xếp hạng nội bộ nâng cao). Trong khi các
ngân hàng có quy mô vốn nhỏ hơn 3 tỷ USD thuộc các quốc gia không nằm trong



×