Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.05 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động cho vay là một trong các hoạt động truyền thống và chủ yếu của các Ngân
hàng thương mại. Trên thực tế, đối với hầu hết các Ngân hàng thương mại Việt Nam
hiện nay cơ cấu tài sản chủ yếu là các khoản vay. Chính vì vậy, chất lượng của các
khoản vay đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng
thương mại. Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay trở thành yêu cầu cấp thiết trong
tình hình thị trường tài chính đầy biến động khi Việt Nam gia nhập WTO, nhất là khi
những yếu tố và nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt động cho vay ngày càng đa
dạng và phức tạp. Do những nguyên nhân trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản trị
rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương
Việt Nam”
Mục đích nghiên cứu
o Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về rủi ro trong hoạt động cho vay và quản trị
rủi ro trong hoạt động cho vay tại các Ngân hàng thương mại.
o Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay và quản trị rủi ro trong hoạt động cho
vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam.
o Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản
trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ
thương Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
o Đối tượng nghiên cứu là hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần
kỹ thương Việt Nam
o Phạm vi nghiên cứu là quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng
thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam năm 2005,2006, 2007 và những
tháng đầu năm 2008.
1
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt luận văn là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp định lượng như phân tích
kinh tế, thống kê và một số phương pháp khác.


Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn bao gồm những nội dung chính sau:
o Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro trong hoạt động cho vay và quản trị
rủi ro trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.
o Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng
thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam.
o Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại
Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam.
Tác giả xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn, PGS.TS. Đinh Thị Diên
Hồng- Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã giúp đỡ hoàn thành luận văn này.
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro trong hoạt động cho vay
1.1.1 Khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay
1.1.1.1. Rủi ro và rủi ro trong kinh doanh
Theo cách nghĩ truyền thống: Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc
các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể
xảy ra cho con người. Có thể nói với quan điểm này, rủi ro là những điều không
may mắn, không tốt, bất ngờ xảy ra gây thiệt hại, tổn thất.
Theo trường phái trung hoà: Rủi ro là giá trị và kết quả của hiện thời chưa biết
đến. Rủi ro là sự bất trắc, bất ngờ xảy ra gây thiệt hại, mất mát, nguy hiểm và có
thể lường được. Trong lĩnh vực kinh doanh, rủi ro được hiểu là khả năng giảm sút
về tài sản hay sự giảm sút lợi nhuận thực tế với lợi nhuận dự kiến, hoặc là những
bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một cách khác,
rủi ro trong kinh doanh là khả năng xảy ra các biến cố không lường trước, khi xảy
ra sẽ làm cho kết quả thực tế khác xa kết quả mong muốn, dự kiến. Do đó, chấp
nhận có rủi ro trong kinh doanh và từ đó tìm ra giải pháp hạn chế rủi ro là yêu cầu

đòi hỏi chính đáng của mỗi doanh nghiệp.
Đối với các NHTM, rủi ro là những biến cố không mong đợi có thể xảy ra gây mất
mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập trong quá trình hoạt động. Các NHTM cần đánh
giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi ích nhằm tìm ra những cơ
hội đạt được lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt
động tốt nếu mức rủi ro mà các NHTM gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được,
đồng thời nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính của NHTM.
Thành phần của rủi ro: Rủi ro bao gồm các thành phần sau
3
 Mối nguy hiểm: là các điều kiện tạo ra hoặc làm tăng các khả năng rủi ro, gồm
Nguy hiểm vốn có: chất hóa học, chất phóng xạ, cơ học, năng lượng....Nguy
hiểm do con người: ý thức cá nhân, sai lầm của con người, tác động của môi
trường.
 Nguồn gây ra rủi ro: có 07 nguồn chính là
- Rủi ro kinh tế vĩ mô như: Suy thoái kinh tế - sức mua của cá
nhân giảm dẫn đến doanh thu của doanh nghiệp bị giảm; Thâm hụt ngân
sách chính phủ cao hơn GDP; Lạm phát; Mất khả năng thanh toán của
Chính phủ do tỷ lệ nợ ngắn hạn cao hơn mức dự trữ ngoại tệ; Dự trữ ngoại
tệ thấp hơn kim ngạch nhập khẩu; Nợ nước ngoài cao hơn GDP.
- Rủi ro chính trị: Chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính
sách về thuế, hạn ngạch và các giới hạn thương mại khác; Chính sách tài
chính, lưu thông tiền tệ, kiểm soát ngoại hối, lãi suất; Chính sách lao động
và tuyển dụng lao động; Chính sách môi trường, sức khỏe; Quốc hữu hóa
và sung công...
- Rủi ro pháp lý: các rủi ro liên quan đến pháp lý, kiện tụng làm
hao tổn sức người và tài sản như Vi phạm hợp đồng kinh tế hoặc đầu tư;
Tranh chấp hàng hóa, nhãn hiệu và thương hiệu; Bồi thường khiếu nại đối
với khách hàng; Thay đổi luật pháp liên quan đến kinh doanh như: quy
định về nhãn hiệu hàng hóa, môi trường và lao động...
- Rủi ro xã hội: Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành vi của

con người; Cấu trúc xã hội thay đổi; Trình độ dân trí...
- Rủi ro hoạt động (vi mô): Tuyển dụng và sa thải lao động dẫn
đến những rủi ro pháp lý...Thải chất độc hại trong quá trình sản xuất gây ô
nhiễm môi trường, làm tổn hại sức khỏe cộng đồng.
- Rủi ro do ý thức con người: Nhận thức của mỗi người về nguồn
rủi ro khác nhau và có thể không thấy được rủi ro; Sự bất cẩn của con
người dẫn đến những rủi ro về hỏa hoạn hay tai nạn gây chết người;
Phương pháp xử lý rủi ro chưa thấu đáo, bài bản...
4
- Rủi ro do môi trường tự nhiên như: thiên tai, động đất, bão,
lụt ...
 Nguy cơ rủi ro gây ra:
- Rủi ro tài sản: là khả năng tổn thất về tài sản vật chất, tài sản tài
chính hay tài sản vô hình (thanh danh, uy tín, quyền tác giả ...).
- Rủi ro trách nhiệm pháp lý: là những tổn thất có thể xảy ra có
liên quan đến vấn đề pháp lý (tranh chấp, kiện tụng).
- Rủi ro nguồn nhân lực: là những khả năng tổn thất liên quan
đến tính mạng con người của một tổ chức, trong đó có thể kể đến khách
hàng, nhà cung cấp, chủ nợ, cổ đông và người lao động.
1.1.1.2. Rủi ro trong hoạt động cho vay
Có nhiều quan niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay (RRTCV) mà chúng ta có
thể dẫn ra là:
 Rủi ro trong hoạt động cho vay theo định nghĩa của Uỷ ban Basel: “Rủi ro
trong hoạt động cho vay là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác
không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thoả
thuận”; cũng theo Uỷ ban này, một định nghĩa khác có thể nêu ra là “Rủi ro
thất thoát đối với một ngân hàng là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp
đồng”, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng
nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả gốc và/hoặc lãi”.
 Theo quyết định 493/QĐ-NHNN, của Thống đốc NHNN, tại khoản 1, điều 2

đề cập khái niệm “Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng của TCTD là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức cho vay do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”
 Theo Timothy W.Koch tác giả quyển sách Quản trị ngân hàng do nhà xuất bản
Dryden – Đại học tổng hợp Nam Carolina xuất bản năm 1995: Một khi ngân
hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi khách hàng sai hẹn - có nghĩa
là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro tín
5
dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ
việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn
 Theo Thomas P.Fitch tác giả Từ điển thuật ngữ Ngân hàng do nhà xuất bản
Barron ấn hành năm 1997: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay
không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong
nghĩa vụ trả nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi
ro chủ yếu trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
 Theo Hennie van Greuning - Sonja B rajovic Bratanovic – chuyên viên nghiên
cứu chính sách tài chính – Ngân hàng thế giới :Rủi ro tín dụng được định
nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn
gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn
có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn,
hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với
dòng chu chuyển tiền tệ, và gây ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân
hàng.
Có thể có nhiều cách khác nhau để định nghiã về rủi ro trong hoạt động cho vay,
song các quan niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay đều hội tụ với nhau về bản
chất đó là: Rủi ro trong hoạt động cho vay là khả năng (xác xuất) xảy ra những
thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng vay vốn thanh toán
nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được nợ vay (gồm gốc và/hoặc lãi).
RRTCV gắn liền với chính hoạt động cho vay của NHTM. Nguồn thu nhập từ

hoạt động cho vay của NHTM phụ thuộc vào tình hình sử dụng vốn vay của
người vay. Rủi ro mà người đi vay tham gia cũng chính là rủi ro mà NHTM phải
gánh chịu. Vì vậy, có thể nói, chất lượng khoản vay sẽ quyết định hiệu quả của
hoạt động cho vay và hiệu quả kinh doanh của NHTM. Rủi ro trong hoạt động
cho vay có thể gây tổn thất về tài chính cho NHTM đó là làm giảm thu nhập ròng
và giảm giá trị thị trường của vốn; trong trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới thua
lỗ, nếu ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Tuy nhiên, đứng trên
6
góc độ quản lý, RRTCV là điều không thể tránh khỏi, luôn tồn tại song hành cùng
hoạt động kinh doanh và chỉ có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ.
1.1.2. Phân biệt rủi ro và tổn thất
Cần phải có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ được đề cập trong các khái niệm về
Rủi ro trong hoạt động cho vay đó là rủi ro và tổn thất. Rủi ro trong hoạt động cho
vay là khả năng khách hàng không trả được nợ, vì vậy cần nhận thức rõ khả năng
này có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Khi rủi ro trong hoạt động cho vay xảy ra,
khách hàng thực sự không trả được nợ đúng hạn, ngân hàng không thu hồi được
nợ thì được hiểu là tổn thất. Trên thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lẫn và hiểu đồng nhất
giữa giá trị tổn thất với khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay. Sự nhầm lẫn này
sẽ tác động bất lợi đến quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay, trong đó ảnh hưởng
lớn nhất đến tính chủ động trong các biện pháp quản lý rủi ro. Đơn cử, xuất phát
từ quan niệm chỉ khi khoản vay phát sinh quá hạn mới có rủi ro và việc trích lập
quĩ dự phòng rủi ro dựa trên cơ sở những khoản nợ quá hạn, chứ không đánh giá
trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động cho vay trên cơ sở mức độ xác xuất xảy
ra nợ quá hạn, sẽ dẫn đến tình trạng:
Thứ nhất, những khoản cho vay mà theo xác xuất thực sự có rủi ro sẽ không được
trích lập;
Thứ hai, làm mất tính chủ động trong quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay, mức
độ đáp ứng của nguồn bù đắp rủi ro sẽ rất hạn chế, trong những trường hợp có cú
sốc thì ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc chống đỡ rủi ro;
Thứ ba, nó làm cho ngân hàng không thể hiểu và đánh giá đúng mức độ rủi ro của

mình, mặc dù trên thực tế có những ngân hàng có nợ quá hạn rất thấp, nhưng danh
mục cho vay lại rủi ro rất lớn vì tập trung quá nhiều dư nợ vào nhóm khách hàng
hay ngành rủi ro phá sản cao.
Đây chính là luận cứ xây dựng chính sách phân loại nợ, chủ động trích lập qũi dự
phòng và sử dụng quĩ này trong quá trình quản trị RRTCV.
7
1.1.3. Phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay
Có nhiều cách phân loại RRTCV, việc phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay
tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, phân tích. Đối với hệ thống NHTM thì việc
phân loại RRTCV có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập chính sách,
qui trình, thủ tục và cả mô hình tổ chức quản trị và điều hành nhằm bảo đảm nhận
biết đầy đủ các yếu tố gây ra rủi ro và phân biệt trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ
phận, giữa các khâu trong toàn bộ quá trình tác nghiệp thẩm định, cấp cho vay
giám sát thu hồi nợ và xử lý khoản nợ nếu nó có dấu hiệu không bình thường.
Thực tế cho thấy sự phân chia trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể, sẽ giúp cho
quá trình quản rị RRTCV có hiệu quả.
1.1.3.1. Phân loại RRTCV theo đối tượng sử dụng vốn vay:
a. Rủi ro khách hàng cá thể:
Là rủi ro xảy ra khi cho các khách hàng là cá nhân vay vốn. Thông thường số
lượng khách hàng sẽ rất nhiều, tuy nhiên mức độ rủi ro của từng khoản vay đơn lẻ
sẽ thấp, mức độ ảnh hưởng của việc mất khả năng thanh toán của từng khoản vay
là nhỏ; loại hình giao dịch, cơ cấu giao dịch dễ quản lý.
b. Rủi ro khách hàng công ty, tổ chức kinh tế:
Đây là rủi ro khi cho khách hàng là công ty, tổ chức kinh tế vay vốn. Tùy theo qui
mô của công ty, tổ chức kinh tế là lớn hay nhỏ thì mức độ ảnh hưởng của rủi ro
các khoản vay vào đối tượng này sẽ được đánh giá ở mức vừa hay lớn, tác động
của nó đến khả năng thanh toán khoản nợ là vừa hay cao.
c. Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý:
Những ngân hàng hoạt động phạm vi toàn cầu có sự phân chia theo lãnh thổ quốc
gia, nếu trong phạm vi một quốc gia phân chia RRTCV tập trung theo khu vực địa

lý, ví dụ như mức độ rủi ro khu vực Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam.
1.1.3.2. Phân loại RRTCV theo giai đoạn phát sinh :
a. Rủi ro trong thẩm định: Là rủi ro mà TCTD đánh giá sai khách hàng. Do hiện
tượng thiếu thông tin dẫn đến “thông tin không cân xứng” làm cho TCTD thường
8
chấp nhận cho các khách hàng có khả năng trả nợ tồi vay vốn dẫn đến rủi ro
không thu hồi được vốn sau khi cho vay. Hơn nữa, do thiếu thông tin và tin tưởng
vào tài sản đảm bảo, bảo lãnh, bảo hiểm từ phía khách hàng dẫn đến đánh giá sai
giá trị các khoản thế chấp, bảo lãnh bảo hiểm gây ra rủi ro không thu hồi được nợ
khi khách hàng không trả được nợ.
b. Rủi ro khi cho vay : Là rủi ro mà khi giải ngân vốn sai mục đích làm cho
khoản vay không phát huy hiệu quả. Rủi ro này có thể phát sinh trong quá trình
đưa ra quyết định cho vay khi thiếu thông tin hoặc có sự thoái hoá đạo đức của
cán bộ cho vay để cho khách hàng cố ý sử dụng vốn sai mục đích ngay từ đầu làm
cho cơ cấu khoản vay và mục đích vay không tương thích dẫn đến rủi ro không
trả được nợ của người vay.
c. Rủi ro trong quản lý, thu hồi nợ: Là rủi ro phát sinh do quá trình giám sát thu hồi
nợ không theo dõi được dòng tiền của khách hàng để khách hàng sử dụng vốn
quay vòng vào việc khác không thu được nợ đúng kỳ hạn, hoặc không thu được
nợ.
1.1.4. Chỉ tiêu cơ bản đo lường rủi ro trong hoạt động cho vay
Để đo lường rủi ro trong hoạt động cho vay của một TCTD, người ta thường dùng
hệ thống các chỉ số : xác xuất bị rủi ro, tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ lãi
treo và tỷ lệ miễn giảm lãi vay.
a. Xác suất bị rủi ro = Số món bị rủi ro trong kỳ/Tổng số món cho vay trong kỳ
(hoặc bằng giá trị các món bị rủi ro trong kỳ/tổng giá trị các món cho vay trong
kỳ).
b. Tỷ lệ nợ quá hạn = Giá trị các khoản nợ quá hạn trong kỳ/Tổng dư nợ bình quân
trong kỳ.
c. Tỷ lệ nợ xấu = Giá trị các khoản nợ xấu trong kỳ/Tổng dư nợ bình quân trong kỳ.

d. Tỷ lệ lãi treo = Lãi treo phát sinh/Tổng thu nhập từ cho vay.
e. Tỷ lệ miễn giảm lãi = Lãi miễn giảm/Tổng thu nhập từ cho vay.
9
Nhìn vào các chỉ số này có thể thấy mức độ rủi ro trong danh mục khoản vay của
một TCTD hoặc của cả một hệ thống tài chính. Vì vậy, Chính phủ các nước
thường quy định cụ thể về mức độ rủi ro chấp nhận được của một TCTD thông
qua việc khống chế giá trị các chỉ tiêu đo lường rủi ro này. Để đạt được mục tiêu
duy trì các chỉ số đo lường rủi ro theo đúng quy định Chính phủ, các TCTD phải
thiết lập một hệ thống đo lường rủi ro của riêng họ theo quan điểm quản trị rủi ro
hiện đại.
1.1.5. Các nguyên nhân rủi ro trong hoạt động cho vay
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến RRTCV, chúng ta có thể phân chia ở những
nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
1.1.5.1. Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng vay vốn làm cho họ
bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho ngân hàng, như: Thiên tai, chiến
tranh, hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô (chính sách xuất nhập khẩu, thuế
quan..) nằm ngoài tầm kiểm soát của khách hàng và ngân hàng.
1.1.5.2. Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém
trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ỳ... là nguyên nhân gây ra
rủi ro trong hoạt động cho vay. Nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng
thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ
đoạn ứng phó với ngân hàng, như cung cấp thông tin sai sự thật, mua
chuộc...Nhiều khách hàng vay vốn không tính toán kỹ lưỡng, thích mở rộng đầu
tư, hoặc không có khả năng tính toán kỹ những bất trắc có thể xảy ra, không có
khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh. Trường hợp
còn lại là khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi nhưng vẫn không trả nợ đúng hạn,
họ chây ỳ với hy vọng có thể được xoá nợ, quỵt nợ, sử dụng vốn vay càng lâu
càng tốt.

10

×