Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay theo tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------

NGUYỄN NHƢ QUẢNG

MỞ RỘNG HỢP TÁC KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ HỒ CHÍ MINH HỌC

Hà Nội - 2016

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------NGUYỄN NHƢ QUẢNG

MỞ RỘNG HỢP TÁC KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số:
60310204

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Ngọc Anh

Hà Nội - 2016




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 5
1.Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................................... 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 10
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................. 10
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................ 11
6. Ý nghĩa và những đóng góp về mặt khoa học của đề tài ................................ 12
7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................... 12
CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỞ RỘNG HỢP TÁC KINH TẾ
QUỐC TẾ ............................................................................................................. 13
1.1. Quá trình xác lập quan điểm và mục tiêu của mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế ................................................................................................................................. 13
1.1.1. Quá trình xác lập quan điểm về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế .......... 13
1.1.2. Mục tiêu của mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế ......................................... 18
1.2. Nội dung cơ bản của mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế trong xây dựng và phát
triển kinh tế Việt Nam theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh .................................................... 25
1.2.1. Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế là phá bỏ thế biệt lập, xây dựng một nền
kinh tế mở ............................................................................................................... 25
1.2.2. Đối tượng của mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế là tất cả các nước không
phân biệt chế độ chính trị - xã hội ......................................................................... 32
1.2.3. Tự lực, tự cường là điều kiện để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế ......... 40
1.3. Nguyên tắc cơ bản của mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế .................................. 43
1.3.1. Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế trên cơ sở đặt lợi ích chính đáng của
dân tộc lên hàng đầu .............................................................................................. 43

1



1.3.2. Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, cùng chung sống hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc ............ 45
1.3.3. Xử lý mềm dẻo, linh hoạt trong quan hệ hợp tác với các nước cường quốc
lớn ............................................................................................................................ 47
1.4. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế .................... 49
CHƢƠNG 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỞ RỘNG HỢP TÁC KINH TẾ QUỐC TẾ
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC ............................................... ……..52
2.1. Tác động của bối cảnh quốc tế và trong nƣớc đến quá trình mở rộng hợp tác
kinh tế quốc tế ở nƣớc ta................................................................................................... 52
2.1.1. Bối cảnh quốc tế ........................................................................................ 52
2.1.2. Bối cảnh trong nước .................................................................................. 58
2.2. Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển sáng tạo tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế trong thời kỳ đổi mới đất
nƣớc.................................................................................................................................... ..63
2.2.1. Giai đoạn 1986 - 1995 ................................................................................ 63
2.2.2. Giai đoạn 1996 đến nay ............................................................................. 68
2.3. Thực trạng mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế ở nƣớc ta hiện nay .................... 75
2.3.1. Một số thành tựu đạt được ........................................................................ 75
2.3.2. Những hạn chế, tồn tại .............................................................................. 80
2.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế
theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.............................................................................................. 82
2.4.1. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ......................... 82
2.4.2. Không ngừng chủ động, tích cực mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế với các
nước, tổ chức kinh tế trên thế giới trên cơ sở đảm bảo lợi ích chính đáng của
dân tộc ..................................................................................................................... 84

2



2.4.3. Ưu tiên đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng được
yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế nói và mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế
................................................................................................................................. 87
2.4.4. Tiếp tục phát huy lợi thế so sánh trong hợp tác kinh tế quốc tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc tế; đẩy mạnh xuất khẩu; thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và nhanh chóng hình thành đồng bộ hệ thống huy động vốn từ trong
nước......................................................................................................................... 88
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 94

3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB

The Asian Development Bank
Ngân hàng phát triển châu Á

APEC

Asia - Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

ASEAN

Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á


AEC

ASEAN Economic Community
Cộng đồng kinh tế ASEAN

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

EU

European Union
Liên minh châu Âu

FDI

Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

NAFTA

North America Free Trade Agreement
Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ

ODA

Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức

UNDP


United Nations Development Programme
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

WTO

World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới

4


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Thông qua mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, các
quốc gia phát huy được tiềm năng, tiềm lực của bản thân quốc gia đó. Đồng thời, mở
rộng hợp tác kinh tế quốc tế giúp các quốc gia tận dụng được thế mạnh, lợi thế của các
quốc gia khác phục vụ cho sự phát triển đất nước mình. Vì vậy, có thể khẳng định rằng
sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc vào mức độ, phạm vi mở rộng hợp
tác kinh tế quốc tế với các quốc gia, dân tộc khác trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là kiến trúc sư của
cách mạng Việt Nam, Người đã nhìn thấy tầm quan trọng của hợp tác quốc tế đặc
biệt là mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng, kiến thiết, phát triển đất nước. Điều đó được thể hiện trong các tuyên bố, phát
biểu, bài viết, trong hoạt động quốc tế của Người và trong suốt quá trình Người lãnh

đạo cách mạng Việt Nam. Hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh
tế quốc tế là kim chỉ nam, là cơ sở định hướng cho mọi chủ trương, đường lối và
chính sách hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước ta, tạo nên một sức mạnh
tổng hợp giúp đất nước đạt được nhiều thành tựu sau 30 năm đổi mới, là nhân tố
quan trọng quyết định sự phát triển của dân tộc ta trong tương lai.
Hiện nay, trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu
hóa, hội nhập kinh tế tiếp tục được đẩy nhanh và diễn ra ngày càng sâu rộng trên quy
mô toàn cầu. Từ đó, tạo ra việc chạy đua phát triển kinh tế giữa các quốc gia. Để phát
triển, các quốc gia, dân tộc trên thế giới thay đổi tư duy đối ngoại, thực hiện đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các
nước trên thế giới để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập
kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Mặt khác, xu thế toàn cầu hóa làm

5


tăng tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, đặc biệt là về kinh tế, tạo nên sự thống nhất
và cạnh tranh giữa các nền kinh tế ở cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp, quốc gia.
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng xu thế
hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo. Quan hệ nhiều mặt giữa các nước
tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu, đặc biệt là việc hình thành Hiệp định đối tác
kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP, Cộng đồng kinh tế ASEAN đã đưa khu vực châu
Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á bước lên một nấc thang mới của sự phát triển
thịnh vượng chung. Tuy nhiên, tại đây vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định như
tranh chấp tài nguyên thiên nhiên, sự mất ổn định về kinh tế và chính trị ở một số nước
trong khu vực. Đặc biệt là tranh chấp lãnh thổ, tiêu biểu là vấn đề biển Đông gây chia
rẽ lớn giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Tình hình thế giới và khu vực đã tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra những cơ hội
phát triển, nhưng đặt ra rất nhiều khó khăn, thách thức đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của dân tộc ta. Thực tiễn, sau 30 năm đổi mới, nước ta đã thu được nhiều

thành tựu quan trọng, trong đó mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng rộng mở và
đi vào chiều sâu khi Việt Nam là thành viên của WTO, TPP, AEC,v.v... Tuy nhiên, đất
nước cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do diễn biến phức tạp của
tình hình quốc tế và khu vực đem lại, đặc biệt là mặt trái của toàn cầu hóa. Nhu cầu
bức thiết hiện nay là trong quá trình mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, làm sao chúng ta
có thể tận dụng tối đa ngoại lực, cùng với nội lực tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây
dựng, phát triển đất nước và hạn chế được những tác động tiêu cực, mặt trái của mở
rộng hợp tác kinh tế quốc tế, để chúng ta không “hòa tan” trong dòng chảy của thời đại.
Trong bối cảnh đó, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế có ý nghĩa rất lớn đối với thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta
hiện nay. Mặt khác, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nói chung và mở
rộng hợp tác kinh tế quốc tế nói riêng còn rất ít, các công trình nghiên cứu về vấn đề
này mới từng bước đề cập một cách khái quát, chưa đầy đủ và hệ thống hóa. Vì vậy, tôi

6


chọn đề tài: “Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế ở nƣớc ta hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, kinh tế,
hợp tác kinh tế quốc tế
2.1.1. Một số công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại tiêu biểu có một số công trình đã
xuất bản thành sách như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại một số nội dung cơ bản
của Đỗ Đức Hinh; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng trong
thời kỳ đổi mới, TS. Đinh Xuân Lý; Chủ tịch Hồ Chí Minh dấu ấn trí tuệ trên mặt trận
đối ngoại, Nguyễn Phúc Luân; Chủ tịch Hồ Chí Minh trí tuệ lớn của nền ngoại giao
Việt Nam hiện đại, Nguyễn Phúc Luân; Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh của Nguyễn
Dy Niên; Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1954 đến 1969, TS.

Trần Minh Trưởng; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Vũ Khoan (Chủ
biên); Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, GS. Song Thành,v.v..
Nhìn chung, các công trình nói trên đã đề cập khá toàn diện những giá trị và quan
điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại, đặc biệt là tư tưởng của Người về
ngoại giao. Tuy nhiên, vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế nói chung và
mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế nói riêng được đề cập ở mức độ nhất định, chưa công
trình nào đề cập một cách hệ thống về vấn đề này.
2.1.2. Một số công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, hợp tác
kinh tế quốc tế
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tiêu biểu có một số công trình đã xuất
bản thành sách như: Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, TS. Phạm
Ngọc Anh (chủ biên); Hồ Chí Minh tư duy kinh tế, Cao Ngọc Thắng; Tư tưởng Hồ Chí
Minh về kinh tế, TS. Ngô Văn Lương; Tư tưởng Kinh tế Hồ Chí Minh với việc xây
dựng nền kinh tế định hướng XHCN ở Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Huy Oánh,v.v..

7


Bên cạnh đó, một số bài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và hợp tác quốc
tế đăng trên các tạp chí chuyên ngành tiêu biểu có: Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với
công cuộc đổi mới của tác giả Lý Hoàng Mai, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số
324, tháng 5 - 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế quốc tế của tác giả Lê
Văn Tuyên, đăng trên Tạp chí Phát triển nhân lực, số 4(30) - 2012,v.v..
Các công trình nghiên cứu trên, đều đề cập tới những nội dung cốt lõi của tư tưởng
Hồ Chí Minh về kinh tế như: mục tiêu của nền kinh tế, cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, quản lý kinh tế, công nghiệp hóa, hợp tác kinh tế quốc tế,v.v... Trong đó, có một
số công trình đã đề cập tới tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế
tiêu biểu như: Cuốn sách Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế của TS.
Phạm Ngọc Anh (chủ biên). Tác giả đã làm sáng tỏ những quan điểm của Hồ Chí Minh
về hợp tác quốc tế như: Quá trình Chủ tịch Hồ Chí Minh xác lập quan điểm về độc lập

tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế trong xây dựng và phát
triển kinh tế; Hợp tác quốc tế trong xây dựng và phát triển kinh tế trước hết phải tuân
thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền dân tộc, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi; Tự lực tự cường là điều kiện để mở rộng hợp tác
kinh tế quốc tế trong xây dựng và phát triển kinh tế. Đặc biệt tác giả đã luận giải sâu
sắc quan điểm của Hồ Chí Minh về đối tác trong mở rộng hợp tác quốc tế.
Trong cuốn Tư tưởng Kinh tế Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền kinh tế định hướng
XHCN ở Việt Nam của PGS.TS Nguyễn Huy Oánh, tác giả đã đề cập đến tư tưởng Hồ
Chí Minh về kinh tế đối ngoại. Tác giả đã chỉ ra rằng Hồ Chí Minh là người sớm có
tầm nhìn chiến lược về xây dựng nền kinh tế mở và mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế là
để thu hút ngoại lực để phát huy nội lực trong nước. Trong cuốn Hồ Chí Minh tư duy
kinh tế của Cao Ngọc Thắng; tác giả đã chỉ ra và luận giải sâu sắc tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng một nền kinh tế mở.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế quốc tế của tác giả Lê Văn Tuyên, đăng
trên Tạp chí Phát triển nhân lực, số 4(30) - 2012. Tác giả đã trình bày hệ thống những

8


quan điểm của Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế quốc tế như: Phá bỏ thế biệt lập, mở
rộng hợp tác kinh tế với các nước để phát triển đất nước; Hợp tác đa phương sẵn sàng
làm bạn với các nước; Giữ vững độc lập chủ quyền, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi là
nguyên tắc cao nhất trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới của tác giả Lý Hoàng Mai,
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 324, tháng 5 - 2005. Tác giả đã phân tích sâu
sắc hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế như: tư tưởng đại đoàn kết thể
hiện ở việc “nhường cơm sẻ áo”; tự lực cánh sinh; tư tưởng đối xử bình đẳng với các
thành phần kinh tế khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển; tư tưởng khuyến khích các
nhà tư bản nước ngoài kinh doanh; tư tưởng chú trọng phát triển tri thức để phục vụ
phát triển kinh tế.

2.2. Những công trình nghiên cứu đến quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về hợp tác kinh tế quốc tế
Công trình nghiên cứu đến quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác kinh
tế tiêu biểu có một số công trình sau:
Công trình nghiên cứu đã xuất bản thành sách: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác
quốc tế và vận dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay của TS. Đặng Văn
Thái (chủ biên). Tác giả đã trình bày một cách hệ thống và làm sáng tỏ tư tưởng Hồ
Chí Minh về hợp tác quốc tế, trong đó có những nội dung như: vai trò của hợp tác quốc
tế; nguyên tắc và phương pháp hợp tác quốc tế; xác định đối tác trong hợp tác quốc tế;
tư tưởng về một số lĩnh vực hợp tác quốc tế như: kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật.
Trong đó, tác giả đã phân tích rất sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế trên
lĩnh vực kinh tế khi khẳng định một số nội dung sau: nhu cầu khách quan mở rộng hợp
tác kinh tế quốc tế; nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế quốc
tế trong xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam.
Công trình nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên ngành: Vận dụng và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động kinh tế đối ngoại, tác giả Đặng Ngọc Lợi -

9


Nguyễn Văn Hùng, đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 7, tháng 4 năm 2004. Các tác giả
đã khái quát quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối
ngoại và đã đưa ra những quan điểm quán triệt, để vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về kinh tế đối ngoại.
Như vậy, nhìn một cách tổng quan các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cập tới
một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Nhưng
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về vấn đề này.
Do đó, tác giả đã tập trung nghiên cứu và bước đầu hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí
Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích
Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và khẳng định giá
trị khoa học của tư tưởng này. Từ đó, phân tích và làm rõ quá trình Đảng Cộng sản
Việt Nam vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng đó trong thời kỳ đổi mới, mở rộng
hợp tác kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh
tế quốc tế.
- Nghiên cứu quá trình nhận thức và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xu thế
toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh quá trình mở rộng hợp
tác kinh tế quốc tế ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống những quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc
tế được phản ánh trong các bài nói, bài viết của Người.

10


Hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mở rộng hợp tác kinh tế quốc
tế, hội nhập trong thời kỳ đổi mới đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế được thể hiện trong bài
nói, bài viết của Người. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mở rộng hợp tác
kinh tế quốc tế trong thời kỳ đổi mới đất nước.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và bản thân các quan điểm có giá trị phương

pháp luận của Hồ Chí Minh. Trong đó, các nguyên lý triết học Mác - Lênin với tư cách
là phương pháp luận chung của các ngành khoa học cần phải được sử dụng như một
công cụ tư duy quan trọng. Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế nói riêng phải thống
nhất một số nguyên tắc phương pháp luận sau: bảo đảm sự thống nhất nguyên tắc tính
đảng và tính khoa học; quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực
tiễn; quan điểm toàn diện và hệ thống; quan điểm kế thừa và phát triển; kết hợp nghiên
cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh.
Cùng với việc sử dụng phương pháp phổ biến, áp dụng cho tất cả các ngành khoa học
là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: phương pháp lịch
sử (nghiên cứu sự vật và hiện tượng theo quá trình phát sinh, tồn tại, phát triển);
phương pháp lôgích (nghiên cứu một cách tổng quát nhằm tìm ra được bản chất vốn có
của sự vật, hiện tượng và khái quát lên thành lý luận). Ngoài ra, đề tài còn sử dụng
phương pháp liên ngành khoa học xã hội nhân văn, lý luận chính trị; phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê,v.v…Theo đó đề tài sử dụng hai phương
pháp chính đó là phương pháp lịch sử và lôgích.

11


6. Ý nghĩa và những đóng góp về mặt khoa học của đề tài
6.1. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần khẳng định hệ thống những quan điểm và giá trị khoa học của tư
tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế.
6.2. Đóng góp về mặt khoa học của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế:
trong đó làm rõ được mục tiêu, nội dung, nguyên tắc của mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở những quan điểm của Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế,
đề tài làm sáng tỏ quá trình nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam trong thời kỳ Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước và đẩy mạnh
mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, hội nhập ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương, 8 tiết.

12


CHƢƠNG 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
MỞ RỘNG HỢP TÁC KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Quá trình xác lập quan điểm và mục tiêu của mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế
1.1.1. Quá trình xác lập quan điểm về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế
1.1.1.1. Khái niệm hợp tác kinh tế quốc tế
Để hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế chúng ta
cần phải nắm vững những khái niệm sau: hợp tác quốc tế, hợp tác kinh tế quốc tế, quan
hệ kinh tế quốc tế.
Hợp tác quốc tế là mối quan hệ qua lại giữa các quốc gia bao gồm nhiều lĩnh vực,
các công việc, những vấn đề cụ thể, được tiến hành theo những nguyên tắc đã thống
nhất trên cơ sở giúp đỡ lẫn nhau, đồng thuận về mục đích và lợi ích [59, tr. 11].
Trong hợp tác quốc tế có hợp tác về: chính trị, an ninh - quốc phòng, giáo dục, văn
hóa,v.v... Nhưng lĩnh vực trọng tâm nhất của hợp tác quốc tế là hợp tác kinh tế quốc tế.
Trong Từ điển Chính trị vắn tắt của Nhà xuất bản Tiến bộ và Nhà xuất bản Sự thật
năm 1988, đã đưa ra một cách hiểu về “hợp tác kinh tế quốc tế”: “là toàn bộ các mối
liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước riêng biệt và hai hệ thống kinh tế - xã
hội - xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa...”.
Trong Từ điển Chính trị vắn tắt cũng nhấn mạnh: Trong thời đại ngày nay ý nghĩa
của hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng tăng lên. Điều đó phản ánh đòi hỏi khách quan
phải sử dụng hợp tác kinh tế quốc tế như một biện pháp quan trọng để tiết kiệm lao
động xã hội. Trao đổi ngoại thương là một khâu trung gian làm cho các mối liên hệ

giữa công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và các ngành kinh tế khác của các
nước khác nhau ngày càng phát triển... Các hình thức hợp tác kinh tế quốc tế cũng trở
nên đa dạng và phức tạp, ngày càng có tính chất tổng hợp.
Trong Giáo trình kinh tế quốc tế, do GS.TS Đỗ Đức Bình, PGS.TS Nguyễn Thường
Lạng biên soạn, xuất bản năm 2010, đã đề cập tới khái niệm và nội dung của quan hệ

13


kinh tế quốc tế: Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ về vật chất và tài chính,
các quan hệ diễn ra không những trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực khoa học
công nghệ có liên quan đến tất cả giai đoạn của quá trình tái sản xuất, chúng diễn ra
giữa các quốc gia với nhau cũng như các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế.
Nội dung của quan hệ kinh tế quốc tế rất rộng và đa dạng, trước hết phải kể đến
những hoạt động sau: Thứ nhất, thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch
vụ giữa các chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau, trong đó đối tượng trao đổi thường
là vượt ra phạm vi địa lý của một quốc gia. Thứ hai, đầu tư quốc tế, trong đầu tư quốc
tế thường có hai hoặc nhiều bên có quốc tịch khác nhau cùng phối hợp với nhau triển
khai một dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Vốn đầu tư quốc tế có
thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như bằng các loại tiền mặt, máy
móc, thiết bị, nguyên vật liệu, kỹ thuật, bí kíp công nghệ... Ngoài ra quan hệ kinh tế
quốc tế còn được thực hiện qua hợp tác và trao đổi về khoa học và công nghệ.
1.1.1.2. Thời kỳ trước năm 1945
Trước Hồ Chí Minh, trong lịch sử nước ta đã có những hoạt động giao lưu kinh tế với
Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Ban Nha,v.v... Bước sang thế kỷ XIX, Nguyễn
Trường Tộ (1830 - 1871), Bùi Viện (1839 - 1878) và nhiều nhà cải cách ở nước ta đã
có những kiến nghị duy tân lên các vị vua nhà Nguyễn, theo hướng mở rộng giao
thương với nước ngoài. Tuy nhiên, các kiến nghị và giải pháp các ông đưa ra còn ít
nhiều hạn chế. Sau đó, bước sang đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu với tư tưởng mở cửa
sang phương Đông với phong trào Đông Du, Phan Châu Trinh mở cửa sang phương

Tây, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nước ta vẫn trong vòng biệt
lập với thế giới. Chỉ đến Hồ Chí Minh, sau nhiều năm bôn ba tìm con đường cứu nước
giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, thì tư
tưởng mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế được nâng lên tầm cao mới.
Từ đó, chúng ta thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế được hình thành từ rất sớm. Xuất phát từ quan điểm Việt Nam là một bộ

14


phận của quốc tế, cách mạng Việt Nam gắn bó hữu cơ với cách mạng thế giới.
Ngay từ năm 1919, trên hành trình ra đi tìm đường cứu nước, khi thực dân Pháp
câu kết với tư bản Nhật để cùng khai thác Đông Dương, Hồ Chí Minh đã đưa ra
một nhận định và đây chính là những nhận thức đầu tiên của Người về sự cần thiết
phải mở rộng hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới: “xét về nguyên tắc,
sự tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ
có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường” [21, tr. 14]. Từ quan
điểm đó, năm 1924, trong Thư gửi đồng chí Pêtơrốp, Tổng thư ký - Ban phương
Đông Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân của sự kém phát triển,
lạc hậu của các dân tộc phương Đông, Người viết: “Đồng chí đã hiểu rõ nguyên
nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là SỰ BIỆT
LẬP. Không giống như các dân tộc phương Tây, các dân tộc phương Đông không
có những quan hệ và tiếp xúc giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn toàn không biết
đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ
THIẾU SỰ TIN CẬY LẪN NHAU, SỰ PHỐI HỢP HÀNH ĐỘNG VÀ SỰ CỔ
VŨ LẪN NHAU” [21, tr. 284]. Như vậy, quan điểm trên là một nhận thức quan
trọng của Hồ Chí Minh, theo Người đối với các quốc gia phương Đông, trong đó
có Việt Nam, muốn phát triển đất nước cần phải phá vỡ thế biệt lập, mở rộng hợp
tác, giao lưu với thế giới. Đây chính là chìa khóa giúp các dân tộc phương Đông
thoát ra khỏi vòng biệt lập, kém phát triển.

Trong những năm 1925 - 1926, tại các lớp huấn luyện cán bộ, đề cập tới vấn đề xây
dựng kinh tế hợp tác xã, Hồ Chí Minh cho rằng: “... những việc kỹ thuật như tính toán,
xem hàng hóa, cầm máy, vân v., thì có phép mướn người ngoài”. Sau này, tư tưởng về
mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế được Hồ Chí Minh khẳng định lại trong một lần trả lời
phỏng vấn nhà báo Mỹ, Oantơ Bờrít: “Một khi đã độc lập, Việt Nam sẽ đứng với tất cả
các nước bầu bạn” hoặc khi trả lời nhà báo Mỹ Standơlây Harisơn, phóng viên báo

15


Telepress, Hồ Chí Minh đã nói: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế
giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà” [26, tr. 46].
Như vậy, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã hình thành những quan điểm sâu sắc, đúng
đắn về vấn mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, sau đó được bổ sung, hoàn chỉnh
trong suốt quá trình Người cùng Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trên hành trình tìm đường cứu nước và hoạt động quốc tế, Hồ Chí Minh luôn luôn
nhấn mạnh việc các dân tộc phải mở cửa giao lưu, hợp tác với nhau là điều cần
thiết và tất yếu. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán tư tưởng biệt lập
giữa dân tộc này với dân tộc khác.
1.1.1.3. Thời kỳ sau năm 1945
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, ngay lúc kháng chiến còn đang gian khổ và ác liệt, đất nước rơi
vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Hồ Chí Minh với tư cách là Chủ tịch nước,
Người vẫn nhấn mạnh chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế khi hòa bình
được lập lại. Trong Thư gửi Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Giêm Biếcnơ, Hồ Chí
Minh viết: “Nhân danh Hội Văn hoá Việt Nam, tôi xin được bày tỏ nguyện vọng
của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ
với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hoá thân thiết với thanh niên
Mỹ và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng
như các lĩnh vực chuyên môn khác... Trong suốt nhiều năm nay họ quan tâm sâu sắc

đến các vấn đề của nước Mỹ và tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với
nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao
thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ
đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam” [24, tr. 91].
Từ những mong muốn trong bức Thư gửi Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Giêm
Biếcnơ, chúng ta thấy được khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi Người chủ trương đặt quan hệ bang giao với Mỹ, một trong những nước phát

16


triển của thế giới, sau những ngày tháng đầu tiên khi đất nước giành độc lập. Nhưng
cũng thông qua sự bang giao đó Việt Nam có thể học tập, tiếp thu được những tiến bộ
của nước Mỹ để phát triển đất nước. Như vậy, chúng ta có thể thấy đây là một tầm nhìn
xa, trông rộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự chuyển biến về chất trong tư duy mở
rộng hợp tác kinh tế quốc tế của Người, không chỉ dừng ở việc phá thế biệt lập mà mở
rộng hợp tác kinh tế quốc tế để học tập, tiếp thu những tinh hoa của những nước phát
triển trên thế giới.
Tư tưởng về mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, được thể hiện xuyên suốt trong quá
trình Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 12 năm 1946, trong Lời kêu gọi gửi
Liên hiệp quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố chính sách đối ngoại của Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên tất cả các lĩnh vực nói chung và kinh tế nói riêng.
Theo đó, với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và
hợp tác trong mọi lĩnh vực: “nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của
các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; nước
Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn
bán và quá cảnh quốc tế; nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh
tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc…” [24, tr. 523]. Người cho rằng, như
thế sẽ tốt cho kinh tế các nước Viễn Đông, “đó là sự khai thác tốt đẹp những nguồn lợi
kinh tế và một tổ chức có hiệu quả cho an ninh ở Viễn Đông”. Ngày 22 - 6 - 1947, khi

trả lời một nhà báo nước ngoài khi được hỏi: Khi kết thúc chiến tranh thì chương trình
kiến thiết của Việt Nam sẽ thế nào? Hồ Chí Minh trả lời: “Việt Nam có nhiều phụ
nguyên, chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước cộng tác thật thà
với chúng tôi” [25, tr. 184].
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, hòa bình trở lại trên miền
Bắc vào năm 1954. Nhân dân ta bắt tay vào xây dựng CNXH ở miền Bắc, trong đó
nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, đồng thời chuẩn bị lực lượng vật chất và
tinh thần để bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Vì vậy, hợp tác

17


kinh tế quốc tế là rất cần thiết, để tranh thủ những ngoại lực từ bên ngoài bao gồm
cả vật chất, tinh thần phục vụ cho công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, đồng
thời phục vụ cho công cuộc kháng chiến ở Miền Nam. Ngày 5 - 10 - 1959, trong bài
trả lời nhà báo người Nhật, Sira Isi Bôn, Cố vấn biên tập báo Axahi Simbun, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cần mở rộng công nghiệp, nông nghiệp,
thương nghiệp để nâng cao sức sản xuất và cải thiện đời sống của nhân dân. Chúng
tôi cần nhiều dụng cụ, máy móc và hàng hóa của các nước, trong đó tất nhiên kể cả
nước Nhật Bản. Và chúng tôi có thể cung cấp cho những nước ấy lương thực, cây
công nghiệp và khoáng sản” [32, tr. 293].
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh hợp tác quốc tế nói chung và mở rộng hợp tác
kinh tế quốc tế nói riêng là nhu cầu khách quan, có tính quy luật phổ biến cho sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Muốn phát triển không một quốc gia nào đứng biệt lập
một mình mà cần phải mở rộng hợp tác quốc tế, giao lưu với các nước trên thế giới.
Đối với Hồ Chí Minh mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế là vấn đề mang tầm chiến lược,
xuyên suốt, lâu dài và có vai trò rất lớn đối với cách mạng Việt Nam, là chìa khóa để
phá vỡ thế biệt lập của xã hội Việt Nam trong gông cùm của chế độ thực dân phong
kiến, tận dụng tối đa thuận lợi từ bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc

và xây dựng, kiến thiết, chấn hưng, phát triển nước nhà.
1.1.2. Mục tiêu của mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tấm lòng yêu nước, thương nòi, khát khao giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước cường thịnh. Trên tinh thần dân tộc trên hết, Tổ
quốc trên hết, Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [15, tr. 628]. Đây chính mục
đích, lý tưởng sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mọi
hoạt động thực tiễn của Người. Mục tiêu tổng quát của mở rộng hợp tác kinh tế

18


quốc tế cũng không ngoài “ham muốn” đó. Để cụ thể hóa mục tiêu tổng quát trên,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đề những mục tiêu
cụ thể phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng.
Thứ nhất, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế là thu hút ngoại lực, kết hợp với nội
lực bên trong tạo thành sức mạnh tổng hợp để giải phóng dân tộc và xây dựng,
phát triển đất nước
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát huy “ngoại
lực” từ bên ngoài. Theo Hồ Chí Minh, ngoại lực trên bình diện vật chất còn bao
gồm những nguồn lực vật chất bên ngoài quốc gia như: vốn đầu tư, khoa học công
nghệ, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý,v.v… Đây là những nguồn lực quý
báu, nếu được khai thác, sử dụng hợp lý sẽ bổ sung cho nội lực bên trong, thúc đẩy
sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước. Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945, trong bối cảnh nước ta xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, công nghệ, kỹ thuật kém phát triển, kiệt quệ vì sự bóc lột của thực dân
Pháp, phát xít Nhật, đất nước bị cô lập với thế giới bên ngoài. Xuất phát từ hoàn
cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các
nước để phá vỡ thế biệt lập, thu hút những nguồn lực từ bên ngoài, học tập, tiếp thu

những thành quả khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các nước tiên tiến,
nâng cao năng lực quản lý, trình độ của đội ngũ khoa học kỹ thuật, người lao động
và không ngừng nâng cao năng lực của nền kinh tế quốc dân.
Một trong những quan điểm đặc sắc về thu hút ngoại lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
thông qua mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ tiếp thu những thành tựu của
nhân loại về khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế. Đây là một trong những quan điểm
hết sức đúng đắn, một tư duy nhìn xa, trông rộng, đi trước thời đại của Hồ Chí Minh.
Thực tế, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) cuộc cách mạng khoa học,
kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ, dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trong những năm tháng bôn ba ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã chứng kiến và nhận

19


thức được vai trò to lớn của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của văn minh
nhân loại, Người viết: “Thế giới ngày nay đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến
thức của con người. Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở
rộng ra những chân trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, cũng như
làm chủ được vận mệnh của xã hội và của bản thân mình” [32, tr. 104]. Theo Người, sự
phát triển của khoa học, kỹ thuật sẽ đem lại hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam và nhân
loại toàn thế giới: “... Ngày nay, đi từ Việt Nam hoặc Trung Quốc đến Ấn Độ chỉ mất
một ngày. Khoa học đã chinh phục không gian và thời gian. Chủ nghĩa xã hội cộng với
khoa học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận...” [31, tr. 354].
Bên cạnh việc củng cố, xây dựng chính quyền non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, để xây dựng nền móng cho chế độ mới, đời sống mới, văn hóa mới, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã có những chủ trương xúc tiến việc mở rộng hợp tác kinh tế quốc
tế để học tập, tiếp thu những thành tựu của các nước phát triển trên thế giới, nước đầu
tiên mà Người nghĩ tới là Hoa Kỳ. Ngày 1-11-1945, trong Thư gửi Bộ trưởng Ngoại
giao Hoa Kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nguyện vọng gửi 50 thanh niên Việt Nam
sang Mỹ để mở rộng quan hệ hữu nghị giữa hai nước và “xúc tiến việc tiếp tục nghiên

cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”, theo Người:
“những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí
thức Việt Nam”. Với mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, để nâng
cao trình độ cho nền kinh tế và khoa học nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ
thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình” [24, tr. 523].
Nhấn mạnh tầm vai trò quan trọng của khoa học kỹ thuật đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: “... Ra sức học tập lý luận và khoa
học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta”. Trong lĩnh vực khoa
học, kỹ thuật, Người nói: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt,
phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết

20


các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những
đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật” [35, tr. 507].
Muốn phát triển được khoa học kỹ thuật, ngoài việc tiếp thu những thành tựu của
khoa học kỹ thuật của nhân loại, thì điều kiện cốt yếu là phải xây dựng được nền tảng
từ bên trong bằng cách phát triển giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Để xây dựng,
phát triển giáo dục đại học, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương hướng và nội
dung học tập ở bậc đại học: “Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra
sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của
nước ta để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà” [30, tr. 186].
Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh các cán
bộ, đảng viên phải học tập văn hóa, khoa học, kỹ thuật, kinh tế và quản lý: “công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội… đòi hỏi Đảng ta phải nắm vững khoa học và kỹ
thuật, do đó mỗi đảng viên đều phải cố gắng học tập văn hóa, học tập khoa học và
kỹ thuật” [32, tr. 420]. Đối với cán bộ chính trị, Người nhấn mạnh: “Cán bộ chính
trị phải chú trọng học tập kinh tế, kỹ thuật để lãnh đạo sản xuất được tốt. Cán bộ

chính trị phải biết kỹ thuật, không biết, chỉ chính trị suông, không lãnh đạo được”.
Đối với thanh niên, Người nói: “… Nếu không học tập văn hóa, không có trình độ
văn hóa thì không học tập được kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì không
theo kịp được nhu cầu kinh tế nước nhà…” [30, tr. 384].
Trong bài phân tích Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng của Tiến sĩ triết học Liên Xô,
V.G. Burốp trình bày tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 ngày sinh của chủ tịch Hồ
Chí Minh, đã đưa ra một nhận định rất sâu sắc và đánh giá rất đúng tầm nhìn xa,
trông rộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hồ Chí Minh hiểu rằng quyền dân tộc tự
quyết việc khôi phục và phát huy những truyền thống đạo đức văn hóa tinh túy nhất
của dân tộc không thể có được nếu người Việt Nam không tiếp cận được với những
thành tựu của nền văn minh thế giới. Một ý tưởng dân tộc nếu không được củng cố
bởi tiến bộ khoa học - kỹ thuật sẽ không tránh khỏi bị bóp chết từ trong trứng. Cách

21


nhìn của Hồ Chí Minh về tương lai dân tộc và xã hội Việt Nam theo tôi là như vậy”.
Như vậy, học tập, tiếp thu những thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến, tranh thủ sự
giúp đỡ bên ngoài để phục vụ cho nhu cầu xây dựng, chấn hưng, phát triển kinh tế
đất nước, bổ khuyết những gì chúng ta còn chưa có là quan điểm rất đúng đắn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây cũng chính là con đường phát triển của dân tộc Việt
Nam nếu muốn thoát ra khỏi lạc hậu, kém phát triển.
Ngoài ra, trong quan điểm thu hút ngoại lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có chính
sách tận dụng, huy động tối đa mọi nguồn lực trí tuệ của người Việt Nam ở nước ngoài
để bổ sung cho nguồn lực trí tuệ trong nước, một trong những điều kiện quan trọng để
xây dựng, chấn hưng, phát triển kinh tế nước nhà. Hồ Chí Minh là người rất trân trọng
từng người trí thức. Đội ngũ trí thức, nhiều người được đào tạo ở Pháp với mục
đích phục vụ cho chính quyền thực dân, nhưng nhà cầm quyền thực dân đã không
đánh giá đúng tinh thần yêu nước tiềm tàng trong mỗi người trí thức Việt Nam. Nhiều
người trong giới trí thức, đã đứng về phía cuộc đấu tranh của dân tộc, sử dụng ngay

những kiến thức được trang bị như một vũ khí lợi hại trong đấu tranh và xây dựng phát
triển kinh tế đất nước và họ là những người đi đầu trong việc tìm tòi, học tập, tiếp thu
những thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam với tấm lòng chân tình, tôn trọng những người hiền tài và giới trí thức nên đã
có nhiều nhà trí thức lớn được đào tạo tại nước ngoài đã trở về nước cống hiến cho dân
tộc như: Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa), Nguyễn Văn
Huyên, Trần Hữu Tước, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Thọ, Đặng Văn Ngữ,v.v..
Mặt khác, một trong những quan điểm về thu hút ngoại lực của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, thông qua mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, nước ta còn tranh thủ được vốn đầu
tư, kỹ năng quản lý và kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước. Trong bài viết Liên
Xô vĩ đại tháng 10 năm 1957, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Từ ngày hòa bình trở lại,
Liên Xô đã cùng với các nước anh em khác giúp ta tiền bạc, máy móc, nguyên liệu,
chuyên gia để ta làm vốn tự lực cánh sinh, xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa. Một

22


điều rất quý giá nữa là kinh nghiệm Liên Xô đã bảo cho chúng ta biết cần phải ra sức
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, để nâng cao dần đời sống của nhân dân, do đó
mà lãnh đạo nhân dân đấu tranh thống nhất nước nhà và xây dựng chủ nghĩa xã hội”
[31, tr. 157]. Quan điểm đó lại được khẳng định trong diễn văn Đáp từ tại sân bay
PaLam (Niu ĐêLi - Ấn Độ), Người nói: “Cuộc đi thăm nước Cộng hòa Ấn Độ lần này
sẽ làm cho chúng tôi hiểu biết hơn nhân dân Ấn Độ anh dũng đang ra sức xây dựng đất
nước và chúng tôi sẽ được học hỏi những kinh nghiệm quý báu của các bạn trong việc
xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa” [31, tr. 256].
Như vậy, chúng ta thấy rằng trong bối cảnh đất nước chiến tranh, thù trong giặc
ngoài, xuất phát điểm nền kinh tế nước ta còn thấp so với thế giới. Với khát vọng độc
lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng cần
phải đặt cách mạng Việt Nam trong mối liên hệ với thế giới, trong dòng chảy của thời
đại để tiếp thu những tinh hoa, tiên tiến của nhân loại thì mới bứt phá, phát triển một

Việt Nam cường thịnh.
Thứ hai, mục tiêu của mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế cũng là để thực hiện phương
châm “thêm bạn bớt thù”, đoàn kết quốc tế, củng cố hòa bình thế giới và giữ vững nền
độc lập nước nhà vừa giành được trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 và tăng
cường tiềm lực, sức mạnh dân tộc, bảo vệ Tổ quốc
Đối với, Hồ Chí Minh luôn xác định rõ ai là bạn, ai là thù, phân hóa “bạn”, “thù”
ngay trong hàng ngũ đối phương để giành được sự đồng tình, ủng hộ nhiều nhất để
phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước. Trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ: “Chúng tôi không ghét
không thù gì dân tộc Pháp... Sự chiến đấu của chúng tôi không nhằm đánh vào nước
Pháp, cũng không nhằm đánh vào những người Pháp lương thiện, mà chỉ chống lại sự
thống trị tàn bạo ở Đông Dương của chủ nghĩa thực dân Pháp” [24, tr. 75].
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người nhắc lại quan điểm đó: “Tôi đã
đến nước Mỹ, tôi hiểu nhân dân Mỹ rất trọng chính nghĩa và có nhiều tài năng. Nhân

23


×