Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Phát triển du lịch văn hóa phía nam hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.16 MB, 109 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung
nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ
một công trình nào khác.
Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn

Nghiêm Thu Hằng

1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1.

DLVH

Du lịch văn hóa

1.

DLST

Du lịch sinh thái

2.

DT

Di tích



3.

DTLS

Di tích lịch sử

4.

DSVH

Di sản văn hóa

5.

ĐTM

Đền thờ Mẫu

6.

GS.TS

Giáo sư Tiến sĩ

7.

PGS.TS

Phó giáo sư Tiến sĩ


8.

SPDL

Sản phẩm du lịch

9.

UBND

Ủy ban nhân dân

10. UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc

2


DANH MỤC CÁC BẢNG

1. Bảng 2.1.

Số lượng cơ sở lưu trú tại huyện Lạc Thủy năm 2007 -2014

2. Bảng 2.2.

Số lượng cơ sở lưu trú tại Hương Sơn 2007 – 2014


3. Bảng 2.3.

Giá vé tham quan và cáp treo chùa Hương năm 2015

4. Bảng 2.4.

Lượng khách du lịch đến Hương Sơn giai đoạn 2008 – 2014

5. Bảng 2.5.

Lượng khách du lịch nội địa đến huyện Lạc Thủy giai đoạn 2008 – 1014

6. Bảng 3.1.

Chiến lược sản phẩm – thị trường

3


DANH MỤC HÌNH ẢNH
Ảnh 1.

Bến Đò - Chùa Hương

Ảnh 2.

Suối Yến - Chùa Hương

Ảnh 3.


Biển báo cho du khách - Chùa Hương

Ảnh 4.

Khai hội chùa Hương 2015

Ảnh 5.

Đường lên động Hương Tích ngày hội

Ảnh 6.

Lầu chuông - Chùa Hương

Ảnh 7.

Đại Hùng Bảo Điện - Chùa Thiên Trù

Ảnh 8.

Động Hương Tích – Chùa Hương

Ảnh 9.

Ban thờ Phật – Động Hương Tích

Ảnh 10.

Nhà bia - Đền Đức Thánh Cả


Ảnh 11.

Chuông - Đền Đức Thánh Cả

Ảnh 12.

Rác tại bến Đục - Đền Đức Thánh Cả

Ảnh 13.

Bến Đục - Đền Đức Thánh Cả

Ảnh 14.

Cổng vào phía Bến Đục - Đền Đức Thánh Cả

Ảnh 15.

Đường vào Đền Đức Thánh Cả

Ảnh 16.

“Giám Sơn Tiên Động” Chùa Tiên – Động thờ vị tiên trông coi núi

Ảnh 17.

Lễ khai hôi Chùa Tiên

Ảnh 18.


Chùa Tiên

Ảnh 19.

Cổng - Đền Mẫu Âu Cơ

Ảnh 20.

Đường lên Đền Mẫu Âu Cơ

Ảnh 21.

Toàn cảnh đền Mẫu Âu Cơ

Ảnh 22.

Bàn thờ Mẫu – đền Mẫu Âu Cơ

Ảnh 23.

Bia đền thờ Mẫu Âu Cơ

Ảnh 24.

Nhà vệ sinh – đền Mẫu Âu Cơ

Ảnh 25.

Khu vực bán hàng lưu niệm trong chùa Tiên


Ảnh 26.

Vé thắng cảnh chùa Hương

Ảnh 27.

Phiếu ghi nhận công đức Đền Mẫu Âu Cơ

Ảnh 28.

Bảng phối cảnh tổng thể quần thể di tích đền Đức Thánh Cả

4


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................................. 3
DANH MỤC HÌNH ẢNH .................................................................................................. 4
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 7
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 7
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................... 8
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................ 9
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................... 11
7. Kết cấu của đề tài ......................................................................................................... 12
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DU LỊCH VĂN HOÁ ........................ 13
1.1.


Những vấn đề về du lịch văn hóa ............................................................................. 13

1.2.

Điều kiện phát triển du lịch văn hóa ........................................................................ 26

1.3. Kinh nghiệm phát triển du lịch văn hóa ở Ninh Bình ............................................. 32
Tiểu kết chương 1............................................................................................................... 35
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA PHÍA NAM
HÀ NỘI ............................................................................................................................. 36
2.1.

Giới thiệu khái quát phía Nam Hà Nội .................................................................... 36

2.2. Các điểm đến tiêu biểu của du lịch văn hóa phía Nam Hà Nội..................................40
2.3. Thực trạng các loại hình dịch vụ................................................................................51
Tiểu kết chương 2...............................................................................................................61
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN
HÓA PHÍA NAM HÀ NỘI.............................................................................................. 62
3.1

Căn cứ đề xuất giải pháp ..........................................................................................62

3.2

Những giải pháp cụ thể ............................................................................................ 67

3.3

Đề xuất một số kiến nghị ......................................................................................... 81


Tiểu kết chương 3............................................................................................................... 83
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 84
5


TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 86
SƠ ĐỒ DU LỊCH ............................................................................................................. 89
DANH MỤC BẢNG BIỂU .............................................................................................. 93
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH .................................................................................................... 96

6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hoá là nguồn tài nguyên độc đáo của du lịch. Khi nói văn hoá là nguồn nguyên
liệu để hình thành lên hoạt động du lịch, tức là chúng ta nói đến vật hút / đối tượng
hưởng thụ của du khách. Nguồn nguyên liệu văn hoá có hai loại cơ bản là Văn hoá
vật thể và Văn hoá phi vật thể. Trong đó, ngành du lịch xếp các thành tố văn hoá
vào tài nguyên nhân văn cụ thể là các di tích lịch sử - văn hoá; hàng lưu niệm mang
tính đặc thù dân tộc; ẩm thực; lễ hội; các trò chơi giải trí; phong tục, tập quán, cách
ứng xử, giao tiếp; tín ngưỡng, tôn giáo; văn học - nghệ thuật. Vì vậy mà văn hoá là
điều kiện và môi trường để cho du lịch phát sinh và phát triển.
Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ mở cửa hội nhập cùng với sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội là những khó khăn, thách thức phải đối mặt như: sự gia
tăng dân số, suy đồi về lối sống, tệ nạn xã hội, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường…
Vì thế người dân ngày càng phải chịu nhiều áp lực. Do đó để cân bằng cuộc sống
và thỏa mãn nhu cầu tinh thần họ đã dành thời gian cho các chuyến du lịch để nghỉ
ngơi, tĩnh dưỡng, giải trí… Bên cạnh các chuyến du lịch thuần túy đó, họ còn thực

hiện các chuyến du lịch kết hợp giữa du lịch và văn hóa, để không chỉ thỏa mãn
các nhu cầu vật chất mà còn thỏa mãn các nhu cầu tinh thần. Những chuyến hành
trình đó còn được gọi là du lịch văn hóa.
Phía Nam Hà Nội với điều kiện khí hậu thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên
phong phú đa dạng tạo cho nơi đây có địa thế đẹp, với dạng địa hình Kast tạo nên
hệ thống hang động kỳ bí trong lòng núi, nhiều nhũ đá kỳ ảo; đây cũng là khu vực
đầm lầy nhiều vũng, sông, suối, kênh rạch tạo nên hệ thống đường thủy thuận lợi
cho người dân đi lại cũng như cho du khách thưởng ngoạn thắng cảnh. Như chùa
Hương một danh thắng đẹp, nổi tiếng trong và ngoài nước; hay Đầm Đa muốn đến
thì phải đi đường bộ leo lên các bậc đá, luồn qua các hang động, các khe đá để
thưởng ngoạn cái đẹp, cái mới lạ.... Có thể nói thiên nhiên đã làm nên cái đẹp, cái
độc đáo của văn hóa bản địa nơi đây.
Bên cạnh địa hình độc mà lạ đó khu vực này còn có tài nguyên văn hóa
phong phú: văn hóa ở đây chính là văn hóa chung của dân tộc nó ôm chứa giá trị
văn hóa bản địa, tín ngưỡng và Phật giáo, đặc biệt là quá trình Việt hóa Văn hóa,
7


Việt hóa Phật giáo. Nơi đây có hệ thống đền chùa tạo nên vị trí quan trọng trong
việc phát triển du lịch văn hóa tâm linh. Ta có thể thấy rõ trong tín ngưỡng thờ Mẫu
ở đền Mẫu Âu Cơ, Chùa Hương; tục thờ Đức Thánh Cả; hay các huyền tích về
Quan Âm Thị Kính đã được nhân dân ta Việt hóa ….
Tuy nhiên, hiện nay ngành du lịch phía Nam Hà Nội vẫn chưa thực sự phát
huy được lợi thế này, thể hiện trên một số mặt chủ yếu như: thiếu quy hoạch tổng
thể lâu dài đặc biệt nổi cộm ở vùng trung tâm và ngoại vi của Hà Nội, thiếu những
dự án cho từng hạng mục công trình theo đúng nguyên tắc của khoa học về bảo tồn
di tích, thiếu sự chỉ đạo chặt chẽ của cơ quan chuyên môn, mà căn bản là do địa
phương tự lo kinh phí, tự quản lý, chỉ đạo thi công, giám sát và nghiệm thu công
trình…Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển du lịch.
Chính vì thế nên có rất nhiều vấn nạn đã và đang diễn ra thường xuyên tại các khu

vực này như: việc phát triển du lịch còn mang tính chất tự phát, thiếu sự quản lý của
các cơ quan chức năng; Đền, Chùa xây dựng chưa có quy hoạch cụ thể dẫn đến tình
trạng được tu bổ nhưng lại mất đi những giá trị kiến trúc đặc biệt trước đó; tình
trạng buôn bán trước cửa đền chùa; buôn thần bán thánh; buôn bán thú cưng; chặt
chém du khách; trộm cắp … vẫn đang diễn ra.
Mặt khác lượng du khách đến đây khá đông nhưng đa phần là du lịch ngắn
ngày vì thế mà số ngày lưu trú bình quân, công suất buồng phòng còn thấp, mức
tiêu dùng của khách khi đến Chùa Hương hay Chùa Tiên - Hòa Bình còn ở mức rất
khiêm tốn, đóng góp của ngành du lịch cho địa phương chưa nhiều, chưa giải quyết
được việc làm cho nhân dân, cơ cấu của ngành du lịch trong cơ cấu kinh tế của tỉnh
còn thấp, mặc dù đã được chú trọng đầu tư nhiều. Nêú tình trạng này kéo dài, ngành
du lịch khó có thể trở thành động lực cho kinh tế nơi đây phát triển.
Vì những yêu cầu cấp thiết trong việc phát triển du lịch văn hóa với phương
châm phát triển theo hướng bền vững tác giả đã chọn đề tài: “Phát triển du lịch văn
hóa phía Nam Hà Nội (nghiên cứu điển hình: đền Đức Thánh Cả; chùa Hương, đền
Mẫu Âu Cơ (Đầm Đa), chùa Tiên) làm đề tài cho luận văn nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên c ứu tiềm năng, thực trạng và triển vọng phát triển du lịch tại
khu vực phía Nam Hà Nội nhằm phát huy các giá trị về sinh thái - văn hóa - tâm
8


linh; đồng thời thu hút cộng đồng tham gia góp phần giải quyết các vấn nạn trong
mùa lễ hội và thu hút khách du lịch nhiều hơn trong thời gian tới. Nhất là việc phát
triển du lịch văn hóa theo hướng bền vững.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập, tổng quan các tài liệu lý luận và thực tiễn về du lịch.
- Khảo sát thực trạng về du lịch tại các điểm du lịch văn hóa đã chọn nghiên
cứu điển hình.
- Phân tích đánh giá thực trạng phát triển du lịch văn hóa của một số điểm du

lịch khu vực phía Nam Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phát triển du lịch văn hóa tại
điểm đến trong những năm tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Tác giả tiến hành nghiên cứu các giá trị văn hóa lịch
sử bằng hiện vật và tinh thần thể hiện ở các điểm liên quan đến phía Nam Hà Nội
trong đó có các điểm chính là:
Đền Đức Thánh Cả (thôn Hữu Vĩnh, xã Hồng Quang, Ứng Hoà, Hà Nội);
Chùa Hương Tích (xã Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội);
Đền Mẫu Âu Cơ và chùa Tiên (Đầm Đa, Lạc Thủy, Bình Hòa).
 Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Về không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại tại phía Nam thành
phố Hà Nội bao gồm: huyện Ứng Hoà; huyện Mỹ Đức (Hà Nội) và Đầm Đa - huyện
Lạc Thủy (Hòa Bình).
- Về thời gian: Nghiên cứu được tiến hành trong năm 2014 và đầu năm 2015,
các số liệu được sử dụng trong khóa luận được lấy từ năm 2008 đến nay. Vì điều
kiện thời gian và cách trở về khoảng cách nên luận văn chỉ phát được 50 phiếu cho
mỗi điểm nghiên cứu với tổng là 200 bảng hỏi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu: là một công việc quan trọng cần
thiết cho bất kỳ hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Việc vận dụng phương pháp
này nhằm bảo đảm tính kế thừa của các công trình trước đó, giúp tiết kiệm thời gian
và công sức, giúp ta có cái nhìn tổng thể về đề tài nghiên cứu.
9


Các tài liệu thu thập trong đề tại chủ yếu là về lịch sử nghiên cứu, cơ sở lí luận
và thực tiễn cho việc phát triển du lịch văn hóa, các tiềm năng, thực trạng hoạt động
du lịch; Các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước nói chung và của Hà Nội
nói riêng nhằm phát triển du lịch bền vững. Nguồn tài liệu này chủ yếu lấy từ các

sách, báo, tạp chí, luận văn, luận án, các báo cáo của Sở ban ngành có liên quan như:
Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, Sở Du lịch Hà Nội, …
Sau khi thu thập đủ tài liệu tác giả tiến hành phân tích tổng hợp các tài liệu
phục vụ cho các nhận định về sự phát triển du lịch văn hóa phía Nam Hà Nội trên
cơ sở khoa học và thực tiễn.
- Phương pháp thực địa: nghiên cứu thực địa là phương pháp điển hình và phổ
biến nhất của Địa lí học và Du lịch học. Sử dụng phương pháp này cho phép tác giả
có một cái nhìn khách quan về vấn đề nghiên cứu, kiểm nghiệm độ xác thực của tài
liệu hiện có, hạn chế những nhược điểm của phương pháp thu thập, phân tích và
tổng hợp tài liệu trong phòng.
Quá trình thực địa được tiến hành từ khi bắt đầu đến khi nghiệm thu và kết
thúc đề tài nghiên cứu. Quá trình thực địa của tác giả được tiến hành như sau: Tiến
hành khảo sát một số điểm du lịch phía Nam Hà Nội bao gồm các điểm du lịch có
sự thu hút khách lớn đặc biệt trong mùa lễ hội. Tại mỗi điểm thực địa tác giả tiến
hành quan sát, mô tả, ghi chép tư liệu, chụp ảnh điểm đến, trao đổi trực tiếp với các
nhà quản lý du lịch tại điểm đến du lịch phía Nam Hà Nội, đội ngũ nhân lực du lịch
hoạt động du lịch, người dân địa phương, khách du lịch …
- Phương pháp chuyên gia khoa học du lịch: ngoài những phương pháp kể trên,
tác giả cũng đã thu thập ý kiến của một số chuyên gia là các nhà khoa học du lịch và
các nhà quản lý trực tiếp tại điểm đến du lịch, một số cán bộ tại địa phương. Đây
chính là căn cứ cho việc đưa ra các kết luận một cách khách quan, khoa học và thực
tiễn, có khả năng thực thi cao; Là cơ sở để đề ra các giải pháp phát triển du lịch văn
hóa phía Nam Hà Nội.
 Kỹ thuật nghiên cứu
- Kỹ thuật khảo tả: tác giả tiến hành khảo sát và mô tả các kiến trúc đền, chùa,
đường đi… trong suốt quá trình nghiên cứu bằng nhiều cách thức khác nhau nhằm
phản ánh một cách chân thực nhất về đối tượng được nói đến.
10



- Kỹ thuật miêu thuật: tiến hành miêu tả và tường thuật lại các điểm đến đã thu
thập được nhằm tái hiện lại những sự vật hiện tượng một cách rõ ràng, chân thực
trong suốt quá trình nghiên cứu của tác giả.
- Kỹ thuật giải mã: trong quá trình nghiên cứu có một số vấn đề cần được giải
thích rõ ý nghĩa được ẩn sâu của các đối tượng như các bức hoành phi, câu đối, các
hiện vật còn lưu lại… hoặc xây dựng được thông điệp mà đối tượng đang hướng đến.
 Cách tiếp cận
Trong đề tài này tác giả sử dụng cách tiếp cận khu vực học, coi phía nam Hà
Nội là một vùng văn hóa lấy điển hình ba huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức (Hà Nội) và
Lạc Thủy (Hòa Bình) làm đề tài nghiên cứu của mình. Bởi nơi đây là vùng chuyển
tiếp giữa các dãy núi đồ sộ của vùng Tây Bắc và vùng đồng bằng châu thổ Sông
Hồng. Lại là nơi các có các điểm du lịch nổi tiếng, giữa chúng có sự thống nhất tuor
tuyến với nhau hình thành tuor du lịch văn hóa phía Nam Hà Nội.
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Du lịch là ngành kinh tế có tính chất liên ngành, liên vùng, liên quốc gia và
có tính xã hội hóa cao, nên việc phát triển du lịch đặc biệt là du lịch văn hóa tâm
linh cũng là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi việc nghiên cứu về du lịch trên phương
diện tổng thể, toàn diện và có chiều sâu. Nhất là vấn đề văn hóa và văn hóa du lịch
đã được nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên cứu như: Trần Quốc Vượng với Cơ sở
văn hóa Việt Nam; Toan Ánh với Nếp cũ – tín ngưỡng Việt Nam; Đào Duy Anh
với Việt Nam văn hóa sử cương; Hồ Văn Khánh với Tâm Hồn – khởi nguồn cuộc
sống tâm linh… Những công trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến vấn đề lý
luận văn hóa, các đặc trưng của văn hóa, các thành tố văn hóa của Việt Nam; tôn
giáo tín ngưỡng trong văn hóa Việt; quan niệm về văn hóa tâm linh…
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên còn có một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu như: công trình của tiến sĩ Trần Thúy Anh chủ biên (2014) “Du lịch
văn hóa – những vấn đề lí luận và nghiệp vụ” [1] đã nêu lên những vấn đề về du
lịch văn hóa, các kỹ năng nhận diện xác định và khai thác giá trị văn hóa, văn hóa
vật thể và phi vật thể, vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng ở mức độ khái quát cao nhưng
vẫn chưa đi sâu vào các di tích bên trong.


11


Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Hải (2004) “Đánh giá tài nguyên du lịch tự
nhiên phục vụ phát triển du lịch cuối tuần của Hà Nội” [10] đã trình bày cơ sở lý
luận của việc đánh giá tài nguyên du lịch phục vụ phát triển du lịch cuối tuần.
Nghiên cứu nhu cầu và tiềm năng phát triển du lịch cuối tuần ở Hà Nội và phụ cận.
Đánh giá tài nguyên du lịch tự nhiên phục vụ phát triển du lịch cuối tuần tại một số
điểm nghiên cứu. Nêu lên hiện trạng và định hướng khai thác tài nguyên phục vụ
phát triển du lịch cuối tuần ở Hà Nội;
Hay như luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Đức (2013) “Tổ chức các hoạt động
du lịch tại một số di tích lịch sử văn hóa quốc gia của Hà Nội theo hướng phát triển
bền vững”[9]. Nghiên cứu cơ sở khoa học, thực trạng, giải pháp về tổ chức các hoạt
động du lịch tại các di tích lịch sử văn hóa quốc gia của Hà Nội;
Luận án tiến sĩ của Phạm Lê Thảo (2004) “Tổ chức lãnh thổ du lịch Hoà Bình
trên quan điểm phát triển bền vững”[14] đã phân tích, đánh giá, tổng hợp các nhân
tố ảnh hưởng đến xây dựng tổ chức lãnh thổ du lịch và phát triển du lịch bền vững ở
tỉnh Hòa Bình; nghiên cứu đề xuất tổ chức lãnh thổ du lịch tỉnh Hòa Bình trên quan
điểm phát triển bền vững có tính đến các yếu tố xây dựng cơ sở vật chất các điểm
du lịch, môi trường sinh thái... và các giải pháp thực hiện.
Những tài liệu nghiên cứu nói trên đã giúp tác giả nắm được các giá trị văn
hóa nói chung, văn hóa tâm linh, du lịch văn hóa, các loại hình thờ tự, bài trí chung
nhất tại các điểm du lịch văn hóa như đền thờ thánh, các chùa phật giáo … sẽ là tài
liệu vô cùng hữu ích cho tác gỉả nghiên cứu và hiểu rõ hơn những vấn đề đã và đang
tiếp cận. Nhằm có những kết luận thỏa đáng nhất cho việc nghiên cứu đề tài phát
triển du lịch văn hóa tâm linh khu vực phía Nam Hà Nội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mục lục, danh mục viết tắt, danh mục hình, danh mục bảng biểu,
mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung bao gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề chung về du lịch văn hóa
Chương 2. Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tại phía Nam Hà Nội
Chương 3. Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hóa phía Nam Hà Nội

12


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DU LỊCH VĂN HOÁ
1.1. Những vấn đề về du lịch văn hóa
Với sự phát triển của kinh tế, khoa học kỹ thuật cùng với sự đa dạng về nhu cầu,
mục đích đi du lịch của con người, các hình thức du lịch đặc thù xuất hiện ngày càng
nhiều và trở nên phổ biến. Trong đó DLVH là một trong những loại hình đã - đang
phát triển trên toàn thế giới. Đây là loại hình du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu tham
quan, tìm hiểu nâng cao hiểu biết của du khách về các di tích lịch sử, lễ hội truyền
13


thống, phong tục tập quán, các sự kiện văn hóa… do cộng đồng tạo ra có sức hút đặc
biệt với khách du lịch. Có thể thấy DLVH là khái niệm mà có nhiều định nghĩa và
cách hiểu về nó.
“Du lịch văn hóa là loại hình du lịch chủ yếu hướng vào việc quy hoạch, lập
trình, thiết kế các tour lữ hành tham quan các công trình văn hóa cổ kim” [1, tr.22]
“Du lịch văn hóa là các loại hình du lịch dựa trên cơ sở khai thác các giá trị di
sản văn hóa dân tộc và được tổ chức một cách có văn hóa” [3 , tr. 98]
DLVH chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống
dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với khách du lịch
bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu,
khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để
thỏa mãn nhu cầu của họ. Phần lớn hoạt động DLVH gắn liền với địa phương - nơi
lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa.

Điều kiện cần thiết để phát triển DLVH là tài nguyên du lịch nhân văn bao
gồm các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đại diện cho cộng đồng, dân tộc, quốc
gia. Loại hình này thỏa mãn nhu cầu đặc trưng của du khách là tham quan, tìm hiểu
về các giá trị văn hóa. Quan trọng hơn là nó có tác dụng giáo dục và nâng cao nhận
thức của khách du lịch.
“Du lịch văn hóa là một hoạt động du lịch lấy tính văn hóa làm mục đích
xuyên suốt. Bởi thế, du lịch văn hóa mang các đặc điểm.” [3, tr. 98-99]
- DLVH mang tính giáo dục nhận thức: Sản phẩm DLVH ngoài phần dịch vụ,
còn một phần là những di sản vật thể cũng như phi vật thể. Những di sản này hàm
chứa nhiều thông tin về văn hóa, lịch sử của dân tộc cũng như kiến thức thẩm mỹ,
nghệ thuật. Rõ ràng, DLVH giúp du khách hiểu biết hơn về lịch sử văn hóa của quốc
gia điểm đến.
- DLVH có thị trường khách lựa chọn: Khách lựa chọn DLVH thường đã xác
định được mục đích chuyến đi của mình là nhằm tìm hiểu về văn hóa nơi mình đến.
Thông thường đối tượng khách này cũng có những kiến thức xã hội nhất định.
- DLVH giúp bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống. Để phát triển được
DLVH, điều quan trọng là phải bảo tồn được những giá trị văn hóa mang đậm bản
sắc riêng của dân tộc. Chỉ có như thế mới thu hút được du khách.
14


- DLVH là nhịp cầu trao đổi văn hóa giữa các dân tộc: Những tri thức văn
hóa thu thập được từ các sản phẩm DLVH sẽ góp phần làm lan tỏa những giá trị của
quốc gia, thẩm thấu vào nền văn hóa khác.
 Dựa trên cơ sở tài nguyên DLVH, các loại hình DLVH được hình thành.

- Du lịch lễ hội
Lễ hội hiện đang là một trong những tài nguyên du lịch nhân văn có sức hấp dẫn
lớn đối với du khách. Tham gia vào lễ hội du khách có thể hòa mình vào các cuộc
biểu dương lực lượng, biểu dương tinh thần đoàn kết của cộng đồng. Du khách sẽ tìm

thấy ở lễ hội bản thân mình, quên đi những khó chịu của cuộc sống đời thường. Có lẽ
vì thế mà du khách đi vì mục đích này ít quan tâm đến sự thiếu thốn, sự thiếu hụt
trong dịch vụ hơn những du khách đi vì mục đích khác. Với tầm quan trọng đó, việc
khôi phục các lễ hội truyền thống không chỉ là mối quan tâm của các cơ quan đoàn
thể quần chúng xã hội mà còn là một hướng quan trọng của ngành Du lịch.
Tuy nhiên, khi đánh giá các lễ hội phục vụ mục đích du lịch cần phải lưu ý các
đặc điểm về thời gian, quy mô của lễ hội, địa điểm tổ chức lễ hội. Về thời gian, các lễ
hội không phải diễn ra quanh năm mà chỉ tập trung trong thời gian ngắn. Các lễ hội
thường diễn ra vào mùa xuân. Có lễ hội diễn ra từ 1 đến 3 tháng, có lễ hội diễn ra chỉ
vài ngày. Về quy mô, lễ hội có thể diễn ra trên địa bàn rộng hoặc chỉ gói gọn trong
một địa phương nhỏ. Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến hoạt động du lịch nhất là khả
năng thu hút du khách.

- Du lịch tôn giáo
Từ xa xưa, du lịch tôn giáo là một loại hình khá phổ biến. Đó là các chuyến đi
với mục đích tôn giáo như truyền giáo của các tu sĩ, thực hiện nghi lễ tôn giáo của
tín đồ tại các giáo đường, dự các lễ hội tôn giáo. Ngày nay du lịch tôn giáo được
hiểu là các chuyến đi để thỏa mãn nhu cầu thực hiện các lễ nghi tôn giáo của các tín
đồ hoặc tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo. Điểm đến của các du khách này thường là
chùa chiền, nhà thờ, thánh địa.

- Du lịch tham quan di tích, danh thắng
Là một trong những tài nguyên quan trọng hàng đầu, các DT văn hóa – lịch sử
của Việt Nam rất phong phú, đa dạng được phân bố rộng rãi từ Bắc vào Nam, từ

15


thành thị đến nông thôn, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
với các truyền thống văn hóa lâu đời và phong tục tập quán riêng.

Di tích, danh thắng là đối tượng tham quan phổ biến của du khách trong các
chuyến du lịch. Qua đó, du khách có thể mở rộng tầm mắt, nâng cao vốn hiểu biết
về văn hóa, lịch sử của dân tộc hay địa phương.

- Du lịch khai thác các loại hình nghệ thuật truyền thống
Đối tượng du lịch của loại hình này rất phong phú về thể loại và có giá trị giải
trí cao. Các loại hình nghệ thuật truyền thống như sân khấu, hội họa, điêu khắc, âm
nhạc, múa, nhảy…Việc khai thác đầy đủ và hợp lý các giá trị văn hóa phi vật thể
với các loại hình nghệ thuật truyền thống sẽ góp phần thúc đẩy du lịch phát triển
tương xứng với tiềm năng sẵn có, đồng thời giúp bảo tồn, duy trì và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc.

- Du lịch tham quan các bảo tàng, di tích lịch sử văn hóa
Cùng với các di tích lịch sử văn hóa, bảo tàng cũng là đối tượng mà khách du
lịch trong và ngoài nước rất quan tâm. Thông qua hệ thống bảo tàng sẽ giúp du
khách tìm hiểu được lịch sử cũng như những giá trị nhất định của đời sống văn hóa,
tinh thần của nhân dân, của dân tộc.
- Du lịch khai thác các loại hình nghệ thuật truyền thống
Đối tượng du lịch của loại hình này rất phong phú về thể loại và có giá trị giải
trí cao. Các loại hình nghệ thuật truyền thống bao gồm: hội họa, điều khắc, sân khấu,
âm nhạc, múa, nhảy, … các loại hình này khi được khai thác thành các sản phẩm du
lịch sẽ có giá trị văn hóa lịch sử lớn hấp dẫn du khách. Qua đó du khách sẽ khám
phá ra được những nét văn hóa cổ truyền đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền.
- Du lịch làng nghề
Làng nghề là nơi chuyên sản xuất một mặt hàng thủ công truyền thống đặc
trưng cho các địa phương. Làng nghề chứa đựng nhiều giá trị văn hóa bản địa như
phương thức sản xuất, nghệ nhân, các di tích gắn với ông tổ nghề, … Các làng nghề
có sức hút lớn đối với du khách đặc biệt là lứa tuổi trung niên. Đến làng nghề ngoài
việc tham quan du khách có thể trực tiếp tham gia vào các quy trình sản xuất sản
phẩm.

1.1.1.

Tài nguyên du lịch văn hóa
16


(Tác giả dùng từ “tài nguyên du lịch văn hóa” trong trường hợp này thay thế
cho“tài nguyên du lịch nhân văn”)
Tại chương I, điều 4, khoản 4 Luật Du lịch Việt Nam 2010:
“Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có
thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các
khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.” [20]
Tài nguyên DLVH bao gồm cả giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể:
Theo Luật Di sản Việt Nam 2010:
Tại điều 4, khoản 1:
“DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân,
vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể
hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình
thức khác.” [21]
Tại điều 4, khoản 2:
“DSVH vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia.” [15]
DLVH mang những nét đặc trưng riêng biệt, đó là đặc trưng về tài nguyên,
yếu tố quyết định đến việc xây dựng một chương trình du lịch của một vùng, một
quốc gia nhưng mỗi nơi mỗi khác. Nó có thể giống nhau về tài nguyên song lại khác
nhau về cách thực hiện. Như vậy văn hóa cũng mang những nét đặc trưng cụ thể và
du lịch chính là phương tiện, cơ hội để văn hóa khẳng định tính độc lập của nó.
Tài nguyên DLVH ở nước ta phong phú, đa dạng, đặc sắc, mang các giá trị lịch

sử văn hoá, gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của đất nước như DT khảo cổ,
DT kiến trúc nghệ thuật, DTLS, các công trình đương đại. Trong đó các DT kiến trúc
nghệ thuật như chùa, đình, đền, nhà thờ, miếu, nhà cổ, lăng tẩm, cung điện chiếm số
lượng lớn, lưu giữ nhiều giá trị lịch sử, kiến trúc nghệ thuật văn hoá có giá trị, là
những điểm tham quan, nghiên cứu hấp dẫn du khách.

17


Ngoài lợi ích về kinh tế có thể thấy được DLVH còn khiến cho quốc gia, cho
vùng, cho những nhà kinh doanh du lịch, cho người dân địa phương những lợi
nhuận lớn mà không phải ở bất cứ loại hình kinh doanh nào, làng nghề nào cũng
mang lại. Từ đó có thể thấy DLVH nâng cao chất lượng du lịch, nâng cao nét đẹp
của dân tộc, giữ gìn tính văn hóa của cư dân bản địa cũng như khách du lịch. Từ
DLVH nhà nước có thể điều chỉnh, gìn giữ và phát huy một cách tốt nhất nền văn
hóa đặc sắc của quốc gia mình.
1.1.2. Tổ chức quản lý du lịch văn hóa

- Đối với cơ quan quản lý nhà nước về DLVH:
Xây dựng, tổ chức quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển DLVH.
Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm về tiêu chuẩn
định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động du lịch văn hóa.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về DLVH.
Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực DLVH; nghiên
cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ.
Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên DLVH để xây dựng quy hoạch phát triển
DLVH, xác định tuyến, điểm DLVH.
Tổ chức hợp tác quốc tế, xúc tiến, quảng bá DLVH ở trong và ngoài nước.

- Đối với chính quyền địa phương quản lý về DLVH: UBND tỉnh, thành phố

trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo sự phân cấp của chính phủ có
trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về DLVH tại địa phương; cụ thể hóa quy
hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển DLVH phù hợp với thực tế tại địa
phương và có biện pháp đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường
tại khu, điểm, tuyến DLVH.

- Đối với cơ sở, đơn vị kinh doanh DLVH: Thực hiện các hoạt động của đơn
vị, tuân thủ các quy định của nhà nước và hoạt động dưới sự quản lý nhà nước về
du lịch tại địa phương đó.
1.1.3. Sản phẩm du lịch văn hóa
Tại chương I điều 4 khoản 10 của Luật du lịch:“Sản phẩm du lịch là tập hợp
các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du
lịch.”.[20]
18


SPDL là những hàng hóa và dịch vụ có thể làm thỏa mãn nhu cầu của du
khách, là sản phẩm mà các doanh nghiệp du lịch đưa ra chào bán trên thị trường,
với mục đích thu hút sự chú ý mua sắm của khách du lịch, giúp khách tiếp cận các
dịch vụ, hình ảnh, giá cả hàng hóa và dịch vụ của điểm đến.
Đặc điểm chính của SPDL văn hóa đó là: có tính bền vững, bất biến cao; mang
nặng dấu ấn cộng đồng dân cư bản địa, nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt văn hóa,
tinh thần của cư dân bản địa; Sản phẩm mang nặng tính định tính, khó xác định định
lượng, giá trị của sản phẩm mang tính hữu hình như: phòng ở, giường, các món ăn
trong nhà hàng, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ…; hoặc vô hình như: cung cách
phục vụ, chất lượng phục vụ, cảm xúc và những trải nghiệm…Nói cách khác SPDL
văn hóa là tập hợp nhiều yếu tố khác nhau nhằm cung cấp cho du khách những kinh
nghiệm du lịch tương đối trọn vẹn và sự hài lòng.
1.1.4. Bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch
Năm 1983, Hội nghị Di sản toàn quốc của Vương quốc Anh đã định nghĩa:

“Di sản là những gì thuộc về thế hệ trước giữ gìn và chuyển giao cho thế hệ hiện
nay và những gì mà một nhóm người quan trọng trong xã hội hiện nay mong muốn
chuyển giao cho thế hệ tương lai.” [30, tr. 20]
Tại điều 1 Luật Di sản Văn hóa Việt Nam: “DSVH bao gồm di sản văn hóa
phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” [21]
Như vậy, DSVH được hiểu là tài sản, là báu vật như các tác phẩm nghệ thuật
dân gian, các công trình kiến trúc, các tác phẩm điêu khắc, các tác phẩm văn học…
mà thế hệ trước để lại cho các thế hệ sau. DSVH được chia làm hai loại: DSVH vật
thể và DSVH phi vật thể.
Theo Công ước về bảo vệ DSVH phi vật thể của UNESSCO (2004)
“Di sản “văn hóa vật thể” (tangible culture) được hiểu là những sản phẩm văn
hóa có thể “sờ thấy được”. Là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ yếu dưới dạng
vật thể có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường nét, màu sắc, kiểu
dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định; Được tạo tác từ bàn tay khéo léo
của con người, để lại dấu ấn lịch sử rõ rệt. DSVH vật thể luôn chịu sự thách thức của
19


quy luật bào mòn của thời gian, trong sự tác động của con người, vì thế nó luôn đứng
trước nguy cơ bị biến dạng hoặc thay đổi nhiều so với nguyên gốc.”
“Di sản “văn hóa phi vật thể” (intangible culture) được hiểu là các tập quán,
các hình thức thể hiện, biểu đạt tri thức, kỹ năng, kèm theo đó là các công cụ, đồ vật,
đồ tạo tác, các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm và
một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần DSVH của họ. DSVH phi
vật thể được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, được cộng đồng và các
nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua
lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ
một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa

dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người.” [29, tr. 142]
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức
vốn có của nó. Bảo tồn là không để mai một, “không để bị thay đổi, bị biến hóa hay
biến thái”. Như vậy, khi nói đối tượng bảo tồn “phải được nhìn là tinh hoa”, chúng
ta đã khẳng định giá trị đích thực và khả năng tồn tại theo thời gian, dưới nhiều thể
trạng và hình thức khác nhau của đối tượng được bảo tồn. Công tác bảo tồn được
chia là hai loại; bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế thừa.
Đối tượng được bảo tồn cần thỏa mãn hai điều kiện:

- Một là, nó phải được nhìn là tinh hoa, là một “giá trị” đích thực được thừa
nhận minh bạch, không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi.

- Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu dài
trước những biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa toàn cầu hiện nay, với chính
sách mở cửa và bối cảnh nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa đang diễn
ra cực kỳ sôi động.
Như vậy cần đánh giá nghiêm túc thực trạng bảo tồn DSVH và vai trò của
ngành du lịch. Quá trình bảo tồn, tu bổ, tôn tạo và khai thác du lịch đối với các di
sản, di tích đang cho thấy nhiều bất cập, cả với các DSVH phi vật thể và hàng nghìn
di tích được xếp hạng khác đang hàng ngày ít nhiều bị biến dạng đi.
Đối với nhiệm vụ bảo tồn DSVH trong hoạt động du lịch, cũng như bảo tồn
văn hóa các vùng du lịch khác nhau ở Việt Nam, một yêu cầu quan trọng phải được
20


thực hiện, đó là phải chú trọng đến văn hóa của từng vùng, phải chú ý đến các
DSVH, văn hóa của vùng đó. Do những đặc điểm tạo sinh văn hóa Việt dựa trên
những điều kiện địa – văn hóa, địa – kinh tế đặc thù, văn hóa Việt gồm nhiều vùng
khác nhau với những đặc điểm khu biệt rõ rệt. Vì thế, không chỉ trong khai thác di

sản vào hoạt động du lịch, mà bảo tồn di sản cũng phải tôn trọng tối đa yêu cầu tính
địa phương, tính vùng như linh hồn của di sản.
Mỗi một địa phương đều có nét riêng cần được bảo tồn tối đa những giá trị
nguyên bản, nguyên vẹn và nguyên nghĩa của nó. Vấn đề bảo tồn và phát huy
DSVH trong hoạt động du lịch luôn gắn liền với những mâu thuẫn nảy sinh trong
quá trình phát triển kinh tế của thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa. Kinh tế càng phát
triển thì càng tiềm tàng những nguy cơ hủy hoại văn hóa. Nếu không có quan điểm
và phương pháp bảo tồn văn hóa đúng đắn, thì chúng ta khó có thể bảo vệ các di sản
văn hóa vô giá ấy.
1.1.5. Tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch văn hóa
“Tuyên truyền là phổ biến, giải thích để thuyết phục mọi người tán thành,
ủng hộ, làm theo.” [19, Tr. 1367]
“Quảng bá là phổ biến rộng rãi bằng các phương tiện thông tin cho nhiều
người, nhiều nơi”.[19, Tr. 1031]
“Xúc tiến là kích thích, tạo điều kiện, động lực cho hoạt động, làm cho tiến
triển nhanh hơn, phát triển mạnh hơn theo một hướng nào đó”.[19, Tr. 1478]
Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến DLVH như là: hình ảnh về DLVH,
điểm đến tiêu biểu của DLVH, sản phẩm về DLVH, dịch vụ DLVH được quảng bá,
giới thiệu rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, báo đài cả trong và ngoài
nước. Nhiều sự kiện, hoạt động xúc tiến DLVH trọng điểm được tổ chức mang tính
liên kết, hợp tác vùng miền, tại các địa bàn trọng điểm về DLVH trong nước cũng
như tại điểm đến. Các thị trường khách quốc tế truyền thống là những yếu tố quan
trọng tác động đến sự thu hút khách du lịch góp phần tạo nên sự tăng trưởng của
toàn ngành.
Các hoạt động sự kiện về DLVH liên quan đều được tuyên tuyền quảng bá
một cách kịp thời trên trang web và bản tin của ngành. Cụ thể như giới thiệu hoạt
động, các sự kiện hưởng ứng năm du lịch quốc gia, khu vực, phối hợp xây dựng
21



phóng sự DLVH nhằm thu hút khách du lịch, tuyên truyền kỷ niệm những sự kiện
lớn trong năm của toàn quốc hay của điểm đến. Điển hình như ngày giải phóng
hoàn toàn miền Nam - thống nhất đất nước 30-4 và quốc tế lao động 1-5; Xây dựng
trang web về lễ hội, ẩm thực, văn hóa đặc trưng cho vùng nhằm giới thiệu tới khách
du lịch trực tiếp hơn, hoặc quảng bá qua các dịp kỷ niệm ngày du lịch thế giới, ngày
du lịch Việt Nam.…
Xúc tiến du lịch là tích cực tham gia đầy đủ các hoạt động liên quan đến công
tác xúc tiến trong và ngoài nước, tham gia và đưa tin kịp thời về các hoạt động liên
quan của ngành. Cụ thể tham gia tổ chức gian hàng trưng bày tuyên truyền quảng bá
DLVH ở một số quốc gia trong những tuần lễ văn hóa như Nhật, Hàn, Pháp... Hội
nghị nhân dịp đầu xuân, tham gia Hội chợ Du lịch Quốc tế Việt Nam (VITM), gặp
mặt các nhà đầu tư, tổ chức đón đoàn Famtrip về khảo sát tại các điểm du lịch, điển
hình là về DLVH của điểm đến; Phối hợp tham mưu xây dựng chương trình xúc
tiến DLVH thực hiện theo chương trình hành động quốc gia về du lịch, chương
trình xúc tiến DLVH gắn với văn hóa của vùng, miền của điểm đến, tham gia Liên
hoan Du lịch Làng nghề truyền thống…
1.1.6. Khách du lịch
Ngành Du lịch muốn hoạt động và phát triển thì khách du lịch là nhân tố quyết
định. Nếu không có khách du lịch thì các nhà kinh doanh du lịch không thể kinh
doanh được. Nếu nhìn trên góc độ thị trường thì khách du lịch chính là “cầu” còn
nhà kinh doanh chính là “cung” của thị trường. Vậy khách du lịch được hiểu như
thế nào?
Tại chương I điều 4 của Luật Du lịch “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc
kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu
nhập ở nơi đến.”[20]
Theo PGS.TS Trần Đức Thanh:
“Du khách là những người từ nơi khác đến và/hoặc kèm theo mục đích thẩm
nhận tại chỗ những giá trị vật chất, tinh thần, hữu hình hay vô hình của thiên nhiên
và/hoặc của cộng đồng xã hội. Về phương diện kinh tế, du khách là người sử dụng
dịch vụ của các doanh nghiệp du lịch lữ hành, lưu trú, ăn uống…” [15, tr. 20]


22


Như vậy có thể hiểu rằng khách DLVH tham gia du lịch có thể với động cơ
nghỉ ngơi, phục hồi tâm sinh lý, tham quan, nghiên cứu, học tập về văn hóa kết hợp
với mục đích công vụ khác. Khách DLVH thường đến các di tích lịch sử, những nơi
có phong cảnh đặc sắc, gắn kết với văn hóa truyền thống, lối sống địa phương... để
tiến hành các hoạt động tham quan tìm hiểu văn hóa lịch sử, tham gia lễ hội...
1.1.7. Cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm: cơ sở vật chất của ngành du lịch (hệ
thống cơ sở ăn uống, vui chơi, giải trí…) là yếu tố trực tiếp đối với việc đảm bảo
điều kiện cho các dịch vụ du lịch được tạo ra và cung ứng cho du khách; Cơ sở vật
chất kỹ thuật của một số ngành kinh tế quốc dân khác tham gia phục vụ du lịch
(giao thông, bưu chính, điện nước…). Những yếu tố này có ý nghĩa quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến việc khai thác tài nguyên, phục vụ khách du lịch. Đồng thời góp
phần quyết định độ dài thời gian lưu trú.
Đối với khách DLVH thì cơ sở vật chất kỹ thuật phải có những điều kiện phục
vụ đặc trưng như các nhà hàng có những đồ ăn, cách bài trí trang thiết bị hoặc cung
cách phục vụ thể hiển văn hóa đặc trưng của điểm đến…; với cơ sở lưu trú ngoài
việc thể hiện văn hóa đặc trưng của điểm đến còn phải đáp ứng yêu cầu của từng
đối tượng khách theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo 4
yêu cầu chính là mức độ tiện nghi, thẩm mỹ, vệ sinh và an toàn.
1.1.8. Kiến trúc Chùa, Đền
Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước phương Đông, bên cạnh đền, đình thờ
thần, chùa Việt là nơi thờ Phật và trong nhiều trường hợp, thờ cả Thần. Việc xây
dựng đền, chùa bao giờ cũng là công việc trọng đại đối với nhân dân làng quê Việt
Nam. Trước tiên là phải chọn đất xây chùa. Việc chọn đất thường bị chi phối bởi
quan niệm phong thủy, cho rằng vị trí của chỗ ở, thế đất, có ảnh hưởng to lớn đối
với con người sống trên đó. Nhìn chung đền, chùa Việt Nam thường được dựng ở

những nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp, có mối liên hệ với cộng đồng. Việc ý thức về
môi trường cảnh quan tự nhiên và xã hội phải luôn được cân nhắc kỹ càng trong
suốt quá trình xây dựng, tu bổ và phát triển.
Đặc điểm chung của các di tích kiến trúc nghệ thuật ở Việt Nam đó là:

23


- Chịu ảnh hưởng nhiều của phong cách mỹ thuật phương Đông. Được quy
hoạch xây dựng tuân theo địa lý của phương Đông và quan niệm âm dương trong
kinh Dịch.
- Về mặt vị trí địa lý, đạt được các đặc điểm có Long chầu, Hổ phục, có tiền
án, hậu trẩm và minh đường, thường xuyên lấy thiên nhiên tô điểm cho kiến trúc,
nơi nào thiếu các yếu tố tự nhiên thì tạo ra phong cảnh như đảo hồ, trồng cây để
trang trí cho công trình và kiến trúc hài hoà với thiên nhiên, thường được xây dựng
ở những nơi có cảnh đẹp.
- Tên gọi của các công trình hay các bộ phận cấu trúc của công trình, hệ thống
hoành phi câu đối, đại tự đều có ý nghĩa triết học, là những câu văn hay, xúc tích,
những từ mang ý nghĩa triết học.
- Các công trình được bố trí xây dựng theo lối đăng đối, có trật tự, các công
trình chính thường nằm trên trục dũng đạo, các công trình khác được bố trí đăng
đối, có trật tự tiền, hậu ,tả, hữu.
- Phần lớn các di tích được xây dựng bằng vật liệu truyền thống, kết hợp hài
hoà các giá trị văn hoá, kiến trúc nghệ thuật giữa văn hoá Việt Nam với văn hoá
Trung Hoa, Ấn Độ...
Có thể nói, mỗi DTLS văn hoá thường thể hiện những đặc điểm chung về kiến
trúc mỹ thuật của từng thời đại, mang tính phân vùng và phù hợp với điều kiện địa
lý tại chỗ. Chùa, đền tuy có những chức năng khác nhau nhưng đều gắn bó và quen
thuộc với người dân Việt Nam từ rất lâu. Chùa là nơi để thờ Phật và tu tập của các
tăng, ni, Phật tử. Đền là nơi thờ những người có công lớn với làng, xã hoặc gắn bó

với một địa danh nhất định nào đó sẽ được phong Thánh và thờ ở đây.
a. Chùa
Chùa Việt Nam bao giờ cũng là một quần thể kiến trúc, gồm các hạng mục
công trình được bố trí theo các giải pháp bố cục khác nhau. Tổ hợp không gian chùa
luôn tuân theo nguyên tắc khép kín mang tính hệ thống, tạo ra một không gian biệt
lập với khu dân cư nhưng không quá cách xa để thuận tiện cho việc tu dưỡng của
tăng, ni và giáo hoá chúng sinh. Tên gọi các giải pháp quy hoạch này được đặt theo
các chữ Hán có dạng gần với bình diện kiến trúc chùa, cụ thể như sau:

24


Kiểu chùa chữ Đinh (丁): có chính điện hay thượng điện (gọi là Đại Hùng Bảo
Điện), tức là ngôi nhà đặt các bàn thờ Phật, nối thẳng góc với nhà bái đường hay
nhà tiền đường ở phía trước. Nhà bái đường đôi khi được gọi là chùa hộ, có lẽ vì ở
đây thường được bố trí các tượng Hộ Pháp. Một số chùa tiêu biểu kiểu kiến trúc này
là chùa Hà, chùa Bộc (Hà Nội); chùa Nhất Trụ, chùa Bích Động (Ninh Bình); chùa
Trăm Gian (Hải Dương); chùa Dư Hàng (Hải Phòng)...
Kiểu chữ Công (工): Phổ biến hơn là kiến trúc có nhà chính điện và nhà bái
đường song song với nhau và được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà
Thiêu hương, nơi các vị tu hành làm lễ.
Kiểu chùa chữ Tam (三 ): thông thường là quy hoạch ba nếp nhà song song
với nhau, thường được gọi là chùa hạ, chùa trung, chùa thượng, như kiểu chùa Kim
Liên ở Hà Nội, chùa Tây Phương ở Hà Tây…
Kiểu chùa nội Công ngoại Quốc: Một kiểu chùa khá phổ biến ở miền Bắc Việt
Nam là kiến trúc có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường (hay nhà bái đường) ở
trước với nhà hậu đường có thể là nhà Tổ hay nhà Tăng xá ở phía sau làm thành
một hình chữ nhật bao quanh lấy các kiến trúc khác ở giữa. Kiểu chùa này gọi là nội
Công ngoại Quốc. Có nghĩa là phía trong có hình chữ Công (工), còn phía ngoài có
cái khung bao quanh như ở chữ Quốc. Tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Cầu

(Hội An); chùa Keo (Thái Bình)...
Chùa Tháp: Ở một số chùa có bố trí tháp Phật lớn ở trước mặt như chùa Dâu,
chùa Phổ… nhưng một số chùa khác, các tháp lại ở hai bên chùa hay có vườn tháp
riêng. Về cấu trúc của tháp Phật nói chung đều cấu tạo gồm 4 phần: phần ngầm, đế
tháp, thân tháp và ngọn tháp. Phần ngầm có thể được xây theo hình vuông, lục giác,
bát giác hoặc tròn; không gian ngầm thường nằm chìm hoàn toàn dưới mặt đất
nhưng đôi khi có phần nằm trên mặt đất, phần phía dưới mặt đất (bán âm bán
dương).
b. Đền
Là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị thần hoặc một danh
nhân quá cố. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ
25


×