Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Lịch sự trong giao tiếp tiếng trung quốc (so sánh với tiếng việt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.13 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

PHAN THỊ THANH THỦY

LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP TIẾNG TRUNG QUỐC
(SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT)

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số:
62 22 0240

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA NƯỚC NGOÀI

TP.HỒ CHÍ MINH - Năm 2017


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sự là một phổ niệm mà bản chất của nó vốn không phải là một vấn
đề thuần túy ngôn ngữ học. Nội dung và hình thức của phạm trù này còn liên
quan đến văn hóa học, dân tộc học, tâm lý học v.v. Ý nghĩa này được thể hiện
dưới các hình thức ngôn ngữ không giống nhau, mang đậm bản sắc riêng của
các dân tộc khác nhau trên thế giới. Để hiểu rõ bản chất của lịch sự trong giao
tiếp một ngôn ngữ cụ thể, không những cần xem xét nó một cách toàn diện, từ
lý thuyết đến ứng dụng thực tiễn, mà còn phải có sự so sánh, đối chiếu giữa các
ngôn ngữ để tìm ra sự tương đồng và khác biệt. Lựa chọn vấn đề lịch sự trong
giao tiếp tiếng Trung Quốc (so sánh với tiếng Việt) làm đề tài LA là một cơ hội


tốt để chúng tôi tiếp cận sâu hơn lý thuyết về lịch sự, tìm hiểu kỹ hơn ngôn ngữ
lịch sự trong tiếng Trung Quốc và đối chiếu với tiếng Việt dưới góc nhìn liên
văn hóa. Hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ góp thêm một cách nhìn rộng hơn và
toàn diện hơn về lịch sự ngôn ngữ trong tiếng Trung Quốc trong các biến thể sử
dụng, đồng thời bổ sung thêm những tư liệu bổ ích cho việc giảng dạy, học tập,
nghiên cứu và dịch thuật tiếng Trung Quốc ở nước ta.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. LA tập trung khảo sát đặc điểm của lịch sự trong giao tiếp tiếng
Trung Quốc, đối chiếu lịch sự trong tiếng Trung Quốc và tiếng Việt qua một số
nghi thức giao tiếp là chào, mời, cảm ơn.
2.2. Để đạt được các yêu cầu trên, LA lần lượt giải quyết các nhiệm vụ
trọng tâm sau: (a) xác lập bản chất của ngôn ngữ lịch sự trong tiếng Trung
Quốc qua việc khảo sát, phân loại, mô tả một cách tương đối đầy đủ hệ thống
kính ngữ và khiêm ngữ;(b) đi tìm sự tương đồng và khác biệt của lịch sự trong
giao tiếp tiếng Trung Quốc và tiếng Việt qua một số nghi thức giao tiếp dương
tính như: chào, mời, cảm ơn; (d) đề xuất một số ứng dụng trong giảng dạy tiếng
Trung Quốc cho người Việt về ngôn ngữ lịch sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. LA chủ yếu tập trung miêu tả, phân loại ba bình diện cấu trúc, ngữ
nghĩa, ngữ dụng của ngôn ngữ lịch sự trong tiếng Trung Quốc (có so sánh với
tiếng Việt) trong hành chức. Như vậy, đối tượng khảo sát của LA là những diễn


2

ngôn có chứa yếu tố lịch sự ở mọi cấp độ.
3.2. Dựa trên các bình diện: đặc trưng ngữ nghĩa, giá trị ngữ dụng, hình
thức và cấu trúc biểu đạt, LA chỉ tập trung xem xét các quy tắc và biểu hiện cụ
thể của lịch sự trong giao tiếp tiếng Trung Quốc ở các khía cạnh: lịch sự qua hệ
thống khiêm ngữ, kính ngữ, từ ngữ xưng hô, một số sở thuộc hữu quan và một

số quán ngữ. Từ đó tập trung khảo sát lịch sự qua ba nghi thức: chào, mời và
cảm ơn trong hai ngôn ngữ. Trong phần lớn trường hợp, LA chỉ tập trung khảo
sát ở các mô hình tương đối phổ biến.
4. Phương pháp nghiên cứu
LA chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: (i) Phương pháp
miêu tả; (ii) Phương pháp phân tích diễn ngôn; (iii) Phương pháp so sánh đối
chiếu.
5. Ý nghĩa Luận án
5.1. Ý nghĩa lý luận
LA mở rộng phạm vi quan sát đến những ứng xử ngôn ngữ mang tính
hướng nội (không đánh giá quá cao về mình) và cả những ứng xử ngôn ngữ
mang tính hướng ngoại (suy nghĩ tốt đẹp về người khác), nhằm mục đích miêu
tả và làm sáng tỏ thêm một số đặc điểm về lịch sự trong giao tiếp của người
Trung Quốc. Dựa vào nguồn ngữ liệu có tính chất quy nạp, đặc biệt chú ý đến
quan niệm, nhận thức và cách ứng xử của người bản ngữ, LA tiến hành phân
tích hệ thống kính ngữ và khiêm ngữ trong tiếng Trung Quốc, đồng thời khảo
sát và đối chiếu các thang độ lịch sự của các nghi thức giao tiếp dương tính
(chào, mời, cảm ơn). Từ đó, đúc kết thành những đặc điểm lịch sự chung nhất
cũng như những khác biệt về lịch sự trong giao tiếp tiếng Trung Quốc và tiếng
Việt. Có thể nói, thành tựu so sánh đối chiếu ngôn ngữ Trung - Việt hiện nay
chưa nhiều, hy vọng cách tiếp cận này cho phép LA có thể lấp đầy phần nào
một số ô trống mà các công trình đi trước còn để lại.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của LA có thể là những tham khảo bổ ích trong việc
dạy tiếng Việt cho người Trung Quốc và tiếng Trung Quốc cho người Việt,
cũng như việc đối dịch từ tiếng Việt sang tiếng Trung Quốc và ngược lại.


3


6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của LA được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chương 2. Đặc điểm của lịch sự trong giao tiếp tiếng Trung Quốc
Chương 3. Lịch sự trong tiếng Trung Quốc và tiếng Việt qua một số nghi
thức giao tiếp và một vài ứng dụng
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Gần nửa thế kỷ qua, vấn đề lịch sự trong ngôn ngữ đã được nghiên cứu
trên nhiều hướng. Bên cạnh việc xây dựng mô hình lịch sự chung cho các ngôn
ngữ, các tác giả còn nghiên cứu sự liên quan giữa lịch sự và giới; lịch sự trong
tương tác các nền văn hóa; biểu hiện lịch sự trong các ngôn ngữ cụ thể v.v. Tuy
nhiên, bên cạnh những yếu tố cơ bản giống nhau, lịch sự vẫn được nhìn nhận và
đánh giá khác nhau giữa các nền văn hóa.
Ở phương Tây, có thể kể đến các tên tuổi như: R.T.Lakoff (1973, 1977)
với ba loại quy tắc lịch sự; G.N.Leech (1983) với 6 phương châm lịch sự; P.
Brown và S. C. Levinson (1978) & (1987) với chủ trương gắn liền khái niệm
lịch sự với thể diện và một danh mục phong phú các chiến lược và tiểu chiên
lược lịch sự; Fraser (1981) với hợp đồng hội thoại (conversational contract) và
các nghiên cứu của các tác giả khác như George Yule (1986), Kerbrat
Orecchioni (1997), Maria Sifianou (1999) Spencer-Oatey (2000), Scollon
(2001), Watts (2003) v.v.
Ở Trung Quốc, có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu sau: Hà Tự Nhiên
(1988) với 语用学概论 (Ngữ dụng học đại cương) đã đề cập, giới thiệu, phân
tích nguyên lý lịch sự của phương Tây qua việc dẫn giải, minh họa bằng các ví
dụ tiếng Trung Quốc, đặt lại sự khác biệt về thang độ lịch sự được thể hiện
trong tiếng Trung Quốc so với các ngôn ngữ châu Âu; Trần Tùng Sầm (1989)
với 礼貌语言 (Ngôn ngữ lịch sự) đã nêu quan điểm: không chỉ nghiên cứu

những nguyên tắc và kết cấu ngữ pháp, ngôn ngữ lịch sự còn cần phải nghiên


4

cứu trong hoạt động giao tiếp; Cố Việt Quốc (1992) với 礼貌 - 语用与文化
(Lịch sự - Ngữ dụng và văn hóa) đã phân tích ngôn ngữ lịch sự theo cách nhìn
của văn hóa phương Đông nói chung và văn hóa Trung Quốc nói riêng, Châu
Tiêu Quyên (2005) với 现代汉语礼貌语言研究 (Nghiên cứu ngôn ngữ lịch sự
trong tiếng Hán hiện đại) đã đi sâu tìm hiểu về tính lịch sự trong tiếng Trung
Quốc trên hai bình diện: phạm trù lịch sự điển hình và phạm trù lịch sự phi điển
hình qua một số cấu trúc ngôn ngữ. Ngoài các công trình nghiên cứu lớn kể trên
còn có hàng loạt các bài viết về các khía cạnh khác nhau của lịch sự, trong đó
có nhiều bài viết gắn liền với nghi thức giao tiếp, lễ phép và cả những vấn đề
liên quan đến giáo dục ngôn ngữ.
Ở Việt Nam, ba chuyên gia hàng đầu về ngữ dụng học là Nguyễn Đức
Dân (1998), Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đỗ Hữu Châu (2001) đã có công lớn
trong việc giới thiệu lý thuyết về lịch sự. Ngoài ra, còn phải nhắc đến các công
trình mang tính thực tiễn của các tác giả như Vũ Thị Thanh Hương với một loạt
các công trình nghiên cứu về lịch sự, Nguyễn Quang (2002) bước đầu đã tiếp
cận lịch sự ở góc độ giao văn hóa, Tạ Thị Thanh Tâm (2009) đã khảo sát lịch sự
qua một số nghi thức giao tiếp dương tính và âm tính, từ đó khái quát được một
số đặc điểm lịch sự trong tiếng Việt.
Ngoài ra, còn có một số các nghiên cứu liên quan đến các vấn đề như:
lịch sự và giới, giao tiếp và ứng xử ngôn ngữ, giao thoa văn hóa v.v. Tiêu biểu
là công trình của các tác giả: Hoàng Anh Thi (2001), Nguyễn Đức Thắng
(2002), Nguyễn Thị Thanh Bình (2003), Vũ Tiến Dũng (2002 và 2003) v.v.
LA đã cố gắng phác họa một bức tranh chung về tình hình nghiên cứu
lịch sự trong và ngoài nước, trình bày một cách ngắn gọn những gì đã được giới
nghiên cứu quan tâm và phân tích, khám phá; cả những kết quả đạt được và

những vấn đề còn đang tranh cãi; những hướng nghiên cứu còn đang bỏ ngỏ.
Nhìn chung, một mô hình lịch sự mang tính phổ quát cho mọi nền văn hóa vẫn
còn là cái đích mà chúng ta phải hướng đến. Bởi lẽ, quan niệm về lịch sự trong
giao tiếp của một dân tộc phải được gắn kết chặt chẽ với quá trình phát triển của
một cộng đồng ngôn ngữ đó.


5

1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Lịch sự và các yếu tố liên quan
1.2.1.1. Một số quan điểm về lịch sự
Lịch sự, tiếng Anh: politenees, tiếng Pháp: politesse có nguồn gốc từ
tiếng Latinh là politus, nghĩa là nhẵn bóng, trơn tru, mượt mà. Các nhà ngôn
ngữ học như Lakoff, G.N.Leech, Kerbrat Orecchioni, S. Blum - Kulla, Fraser
B. và Nolen W. (1981), Thomas Jenny ... đều xác lập nội hàm và ngoại diên của
thuật ngữ này theo cách riêng. Có thể hiểu, lịch sự là cách ứng xử của con
người với con người sao cho phù hợp với các quy tắc xã hội.
1.2.1.2. Khái niệm lịch sự trong tiếng Trung Quốc và tiếng Việt
a. Lịch sự trong tiếng Trung Quốc là 礼貌 (lễ mạo), bắt nguồn từ những
chế định về lễ trong xã hội phong kiến và được hiểu với nghĩa rộng bao gồm
mọi cách ứng xử trong xã hội phát triển về mặt tổ chức.
Theo Y. Gu (1990) trong "Politeness phenomena in modern Chinese", 礼
貌 (lễ mạo) bắt nguồn từ khái niệm 礼(lễ) được Khổng Tử (551 - 479 tr CN)
dùng để chỉ việc tuân thủ thứ bậc và trật tự xã hội. Đây là một trong năm đức
tính (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) mà con người cần phải tu dưỡng, rèn luyện và duy
trì nó trong các mối quan hệ xã hội. Đến khoảng hai hoặc ba trăm năm sau khi
Khổng Tử mất, 礼(lễ) mới bắt đầu được dùng để chỉ khái niệm lịch sự trong ý
nghĩa "khiêm tốn với mình và tôn kính với người"(humble yourself but show
respect to other). Có bốn yếu tố cơ bản trong quan niệm của người Trung Quốc

về lịch sự. Đó là: sự tôn kính (respectfulness), sự khiêm tốn (modesty), sự nồng
hậu (attitudinal warmth) và sự tao nhã (refinement). Trong đó, hai yếu tố tôn
kính và khiêm tốn luôn được đặt lên vị trí quan trọng. Khái niệm lịch sự của
người Trung Quốc thiên về lịch sự chuẩn mực theo kiểu phương Đông. Đây
cũng là lý do giải thích vì sao liên quan đến ngôn ngữ lịch sự, xét về mặt biểu
đạt, tiếng Trung Quốc có hai lớp từ ngữ đối lập nhau là khiêm ngữ và kính ngữ.
b. Trong tiếng Việt, "lịch sự" vốn là một từ được ghép từ hai từ tố gốc
Hán, về mặt ngữ nghĩa đã được Việt hóa. Theo chúng tôi hiểu, đối với người
Việt, phạm trù lịch sự phải đặt trong mối quan hệ mật thiết với lễ .
Có thể thấy, với người Trung Quốc và người Việt Nam, lịch sự đều bắt


6

nguồn từ những chế định về lễ, phạm trù lễ (đạo đức, lễ giáo, lễ độ, lễ phép)
được đề cao hơn phạm trù lịch sự, bao trùm phạm trù lịch sự.
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa lịch sự và lễ phép
Lễ phép là một phạm trù thuộc đạo đức và văn hóa được đặc biệt coi
trọng trong ứng xử, trong quan hệ liên nhân. Lễ phép thiên về lịch sự chuẩn
mực và là một biểu hiện của lịch sự, hay, lễ phép nằm trong lịch sự, có quan hệ
mật thiết với lịch sự.
1.2.1.4. Thể diện và các khái niệm hữu quan
a. Phạm trù "cái tôi" (self) (ego)
Cái tôi (hay bản ngã) được xem là chủ thể của thể diện. Người Trung
Quốc nhận thức cái tôi thông qua một loạt các quan hệ xã hội hơn là các đặc
tính nội tại của cá nhân, và các hành vi ứng xử của họ, kể cả hành vi ngôn ngữ,
cũng bị chi phối bởi các thuộc tính hướng ngoại (quan hệ) hơn là hướng nội.
b. Khái niệm về thể diện
Thể diện (face) là một trong những khái niệm quan trọng trong các lý
thuyết về lịch sự. Đó là "hình ảnh cái tôi trước công chúng của một con người,

nó liên quan đến tình cảm và ý thức xã hội của bản thân mà ai cũng mong
muốn mọi người nhận ra."
c. Quan niệm của người Trung Quốc về thể diện
Tiếng Trung Quốc có nhiều từ tương đương với thuật ngữ thể diện (face),
đó là : 面子(diện tử) mặt ngoài, bề ngoài; thể diện, sĩ diện,面目(diện mục): bộ
mặt; diện mạo; mặt mày, thể diện; mặt mũi (danh dự, lòng tự trọng);体面 (thể
diện): thể diện, sĩ diện; vẻ vang; vinh dự; 脸 (kiểm,liểm): mặt, bộ mặt; thể diện,
liêm sỉ; 脸面(kiểm diện): mặt, bộ mặt, khuôn mặt; thể diện; nể mặt; 脸皮 (kiểm
bì): da mặt; thể diện, sĩ diện; ngượng, xấu hổ, nhục; 颜面 (nhan diện): mặt; thể
diện; mặt mũi v.v. Thể diện trong quan niệm của người Trung Quốc chính là
danh dự và uy tín của một cá nhân trong cộng đồng, hay nói khác đi, đó là hình
ảnh xã hội, là chân dung mang tính xã hội của một con người.
1.2.1.5. Chiến lược giao tiếp lịch sự
Trong hội thoại, dù xét từ góc độ chủ động hay bị động, hướng nội hay
hướng ngoại, đối với bất kỳ nghi thức giao tiếp nào, các mặt thể diện của cả S


7

và H đều có nguy cơ bị đe dọa, vì vậy, nói như P. Brown & S.C.Levinson, bất
cứ một sự lựa chọn duy lý nào, cũng sẽ cố tránh những hành động đe dọa thể
diện hoặc sẽ cố gắng làm giảm đi mối đe dọa đó. Tứ đó, chiến lược giao tiếp và
cả thang độ lịch sự được hình thành.
1.2.2 Một số phương diện của ngữ dụng có liên quan đến phạm trù
lịch sự
1.2.2.1. Lý thuyết hoạt động giao tiếp
a. Giao tiếp và bản chất của giao tiếp
Giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin. Đây là bản chất cơ bản của ngôn
ngữ. Chức năng của giao tiếp là vai trò, nhiệm vụ mà giao tiếp phải thực hiện,
phải đảm nhiệm trong đời sống cộng đồng. Tùy theo từng cuộc giao tiếp cụ thể

mà chức năng nào được coi là chính. Chức năng giao tiếp là chức năng có tính
tương tác.
b. Sự chi phối của các chức năng giao tiếp đối với phạm trù lịch sự
Phạm trù lịch sự có thể bị chi phối bởi nhiều yếu tố trong và ngoài ngôn
ngữ, bao gồm: quan hệ liên nhân, hoàn cảnh giao tiếp.
c. Nghi thức giao tiếp
Nghi thức giao tiếp là một tập hợp các quy tắc ứng xử ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ liên quan đến đặc điểm văn hóa xã hội, tồn tại trong một giai đoạn
lịch sử nhất định của một cộng đồng ngôn ngữ. Mối quan hệ của lịch sự và nghi
thức giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hành vi ngôn
ngữ.
1.2.2.2. Lý thuyết hội thoại và lịch sự
a. Hội thoại
Hội thoại (conversation) là “hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến
của ngôn ngữ, cũng là hình thức cơ sở cho mọi hoạt động ngôn ngữ khác”.
(Diệp Quang Ban, 2003). Hội thoại có thể gồm hai bên (song thoại), ba bên
(tam thoại), hoặc nhiều bên (đa thoại).
b. Các đơn vị hội thoại
Các đơn vị cấu trúc của hội thoại là :
+ Cuộc thoại (conversation); cuộc tương tác (interaction)
+ Đoạn thoại (séquence)


8

+ Cặp trao đáp (échange)
c. Vận động hội thoại
Hội thoại vận động thông qua sự trao lời và sự trao đáp theo những quy
tắc nhất định để tương tác lẫn nhau của các nhân vật giao tiếp.
d. Thương lượng hội thoại

Quá trình diễn ra hội thoại cũng là quá trình thương lượng của các nhân
vật giao tiếp, kết quả của sự thương lượng đó là thái độ hợp tác của S và H.
1.2.2.3. Lý thuyết hành động ngôn ngữ
a. Hành động ngôn ngữ
Trong tương tác hội thoại (conversational interaction), hành động ngôn
ngữ được hiện thực hóa thành những hành vi cụ thể: hành vi tại lời gián tiếp
(indirect illocutionary force) và hành vi tại lời trực tiếp (direct illocutionary
force).
b. Câu ngữ vi và động từ ngữ vi
Động từ ngữ vi là các động từ thể hiện các hành vi ngôn ngữ như chào,
chúc, khuyên v.v. Câu ngữ vi chỉ là một cách thức biểu hiện về giao tiếp và nó
có thể ảnh hưởng đến những sắc thái khác nhau trong giao tiếp.
1.2.3. Một số đặc điểm về ngôn ngữ Trung Quốc
1.2.3.1. Về nguồn gốc tiếng Trung Quốc
So với tiếng Hán cổ đại, tiếng Hán hiện đại (hay còn gọi là tiếng Trung
Quốc) đã có sự thay đổi lớn về nhiều mặt làm cho tiếng Trung Quốc trở nên gần
gũi, dễ học, dễ nhớ hơn.
1.2.3.2. Đặc điểm về ngữ âm
Tiếng Trung Quốc là ngôn ngữ có thanh điệu và có tính đơn âm tiết.
1.2.3.3. Đặc điểm về từ vựng
Từ đơn âm tiết khoảng 26% số lượng từ vựng, 71% là từ song âm tiết và
3% là từ có 3,4 hoặc 5 âm tiết.
1.2.3.4. Đặc điểm về ngữ pháp
Là ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ
pháp được biểu thị chủ yếu bằng phương thức trật tự từ (sắp xếp theo hướng
không thuận).


9


1.2.4. Bất lịch sự, ranh giới giữa lịch sự và bất lịch sự trong nghi thức
giao tiếp
Ở Việt Nam hiện nay, xu hướng nghiên cứu bất lịch sự như một phản đề
hầu như chưa được giới thiệu. Có thể kể đến Locher Miriam A và Richard J.
Watts (2008), đặc biệt là Jonathan Culpeper. Đương nhiên, nghiên cứu về lịch
sự, không thể không tham khảo về bất lịch sự.
1.2.5.1. Khái niệm "bất lịch sự"
"Bất lịch sự là thái độ tiêu cực đối với những hành vi cụ thể xảy ra trong
một ngữ cảnh cụ thể. Thái độ này được duy trì do mong muốn hay niềm tin
rằng làm thế nào để những thuộc tính của một người/ một nhóm người được
người khác thừa nhận trong quá trình tương tác. Tuy nhiên, trong một hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể, một hành vi được xem là bất lịch sự khi hành vi đó mâu
thuẫn với những gì mà người khác mong đợi. Những hành vi như vậy sẽ gây
những tác động tiêu cực hay sự xúc phạm đối với người tiếp nhận. Mức độ xúc
phạm có thể tăng hay giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, chẳng hạn
người tiếp nhận có hiểu được hành vi đó là hoàn toàn có chủ đích hay không."
1.2.5.2. Phân loại bất lịch sự
Culpeper (1996) đã chia bất lịch sự thành hai loại: bất lịch sự cố hữu
(inherent impoliteness) và bất lịch sự giả (mock impoliteness).
1.2.5.3. Các chiến lược giao tiếp bất lịch sự
Với quan niệm xem bất lịch sự là "vật ký sinh" của lịch sự (the parasite of
politeness), dựa trên mô hình chiến lược lịch sự của Brown & Levinson,
Culpeper đã đề xuất 5 chiến lược bất lịch sự, cụ thể hóa các phương thức tấn
công thể diện.
1.2.5.4. Ranh giới giữa lịch sự và bất lịch sự qua nghi thức giao tiếp
Có thể phân biệt nội hàm của hai khái niệm này như sau:
Lịch sự
Bất lịch sự
- Đề cao và bảo vệ thể diện của
- Đề cao và bảo vệ thể diện của

đối tác đồng thời bảo vệ thể diện mình đồng thời tự làm mất thể diện
của chính mình
của chính mình
- Tránh hoặc làm giảm nhẹ các
- Tránh hoặc làm giảm nhẹ các hành
hành động đe dọa thể diện của đối động nâng cao thể diện cho đối tác
tác
- Thực hiện các hành động đe dọa


10

- Thực hiện các hành động tự đe thể diện của đối tác
dọa thể diện của chính mình
- Làm tăng sự đối đầu trong giao
- Làm giảm sự đối đầu trong tiếp
giao tiếp
- Phục vụ quyền lợi của chính mình
- Phục vụ quyền lợi của đối tác
Trong chương này, LA đã điểm qua tình hình nghiên cứu về lịch sự của
các tác giả trong và ngoài nước. Toàn bộ tri thức trong chương này là cơ sở lý
thuyết, LA sẽ dựa vào đó để khảo sát đặc điểm lịch sự trong tiếng Trung Quốc
qua một số nghi thức giao tiếp dương tính.
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP TIẾNG
TRUNG QUỐC
2.1. Dẫn nhập
Để cụ thể hóa một số vấn đề lý thuyết đã được trình bày ở chương trước,
LA sẽ tiến hành khảo sát, hệ thống và miêu tả ngôn ngữ lịch sự trong tiếng
Trung Quốc.
2.2. Kính ngữ, khiêm ngữ và vấn đề xưng hô

Hệ thống xưng hô khá phức tạp trong tiếng Trung Quốc có vai trò rất
quan trọng trong việc biểu hiện tính lịch sự và cụ thể hơn là lịch sự chuẩn mực.
Khiêm ngữ và kính ngữ trong tiếng Trung Quốc gắn bó mật thiết với phạm trù
xưng hô. Nếu khiêm ngữ thường hướng về ngôi thứ nhất (tức là S) trong quá
trình giao tiếp, hay nói cách khác là thiên về xưng; thì kính ngữ lại được sử
dụng theo trục quy chiếu đơn hướng : người nói (S) -------> (người nghe (H).
2.2.4. Nguyên tắc sử dụng kính ngữ và khiêm ngữ trong xưng hô
Cùng với sự xuất hiện của hệ thống từ vựng nói chung, lớp từ ngữ thể
hiện sự khiêm nhường và kính trọng cũng xuất hiện như một sự tất yếu của lịch
sử nhằm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp của xã hội. Nghiên cứu kính ngữ và khiêm
ngữ là nghiên cứu những phương tiện ngôn ngữ biểu thị tính lịch sự trong quan
hệ giữa người ở vai dưới với người ở vai trên khi thực hiện các hành động tại
lời.
2.2.5. Khiêm ngữ và vấn đề xưng hô trong tiếng Trung Quốc
2.2.5.1. Khiêm ngữ
Khiêm ngữ là những từ ngữ lịch sự dùng để biểu thị sự khiêm tốn thường


11

dùng trong giao tiếp.
2.2.5.2. Khiêm ngữ và hình thức tự xưng
Dưới đây là kết quả khảo sát các biểu thức khiêm ngữ dùng để tự xưng
trong tiếng Trung Quốc: 小 (tiểu) + X, 卑 (ti) + X ,鄙 (bỉ) + X,贱 (tiện)+ X, 贫
(bần) + X 敝 (tệ)+ X,下 (hạ)+ X, 薄 (bạc)+ X, 寒 (hàn) + X, 不 (bất) + X, 寸
(thốn) + X, 陋 (lậu)+ X, 愚 (ngu) + X, 末 (mạt) + X. Nhìn chung, các thành tố
phụ đứng trước X trong các biểu thức khiêm xưng thường là những yếu tố
mang ý nghĩa hạ thấp: ngu muội, bé nhỏ, nông cạn, nghèo, hèn, ít ỏi v.v. Nhìn
chung, các khiêm ngữ dùng để tự xưng thường được dùng cả trong giao tiếp ở
phạm vi gia đình và xã hội, đặc biệt là trong xã hội cũ. Trong giao tiếp gia đình,

các từ này thể hiện vị thế, tôn ti, quan hệ huyết thống giữa những người tham
gia giao tiếp, góp phần thể hiện thái độ lễ phép cần phải có của S. Ở phạm vi
giao tiếp xã hội, các từ tự xưng trên, ngoài sắc thái lễ phép, lịch sự, thể hiện vị
thế, tôn ti trong xã hội, còn mang đậm dấu ấn của sự khiêm nhường, một trong
những đức tính tốt đẹp của người Trung Quốc.
2.2.6. Kính ngữ và vấn đề xưng hô trong tiếng Trung Quốc
2.2.6.1. Kính ngữ là gì?
Kính ngữ được hiểu là những hình thức ngôn ngữ lịch sự dùng để thể hiện
sự tôn trọng đối với đối tượng có vị thế cao hơn mình hay đối với người lớn
tuổi.
2.2.6.2. Kính ngữ và hình thức tôn xưng trong tiếng Trung Quốc
Dưới đây là kết quả khảo sát các biểu thức kính ngữ dùng để tôn xưng
trong tiếng Trung Quốc: 慈 (từ) + X, 大 (đại) + X, 贵(quý) + X, 老(lão)+ X, 太
(thái) + X, 先 (tiên)+ X, 贤(hiền)+ X, 尊 (tôn) + X, 恩 (ân)+ X,高 (cao)+ X, 台
(đài) + X. Tùy vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà những các kính ngữ được sử
dụng mang sắc thái ý nghĩa khác nhau. Các thành tố phụ đi kèm yếu tố X
thường mang ý nghĩa tôn vinh: cao, giỏi, hay, lớn, quý, kính trọng, tôn sùng v.v.
Xét từ góc độ lịch đại, hệ thống kính ngữ trong tiếng Trung Quốc qua các thời
kỳ lịch sử có xu hướng phát triển, hoàn thiện và đơn giản dần.
2.3. Khiêm ngữ, kính ngữ và các từ ngữ chỉ quan hệ sở thuộc
2.3.1. Khiêm ngữ chỉ quan hệ sở thuộc


12

Sở thuộc là phạm trù ngữ pháp biểu thị mối quan hệ giữa chủ thể và cái
thuộc về chủ thể đó. Các khiêm ngữ thể hiện quan hệ sở thuộc gồm có các dạng
thức sau: 家 (gia) + X,舍 (xá) + X, 寒 (hàn) + X, 贱 (tiện)+ X, 陋 (lậu)+ X,
敝 (tệ)+ X, 荆 (kinh) + X, 愚 (ngu) + X, 拙 (chuyết) + X, 小 (tiểu) + X, 菲
(phỉ)+ X,卑 (ti) + X , 浅 (thiển) + X, 薄 (bạc) + X, 寸 (thốn)+ X. Các khiêm

ngữ chỉ quan hệ sở thuộc thường chỉ được dùng gắn liền với ngôi thứ nhất, tức
chủ thể hành động của phát ngôn. Đa số các từ ngữ thuộc nhóm này chỉ còn gặp
trong văn cổ. Một số khiêm ngữ chỉ quan hệ sở thuộc như 寓意,浅见, 浅意,舍
妹 vẫn còn được sử dụng trong giao tiếp như một cách nói nhằm làm giảm bớt
tính chủ quan trong nhận định của mình, thể hiện tính khiêm tốn, lịch sự.
2.3.2. Kính ngữ chỉ quan hệ sở thuộc
Kính ngữ sở thuộc được hiểu là những gì thuộc về H. Các biểu thức kính
ngữ dùng để chỉ quan hệ sở thuộc trong tiếng Trung Quốc gồm: 宝 (bảo) + X,
大 (đại)+ X, 高 (cao)+ X, 贵 (quý) + X, 老(lão)+ X, 太 (thái) + X, 贤 (hiền)+
X,尊 (tôn) + X,令 (lệnh) + X.Nếu khiêm ngữ sở thuộc chỉ dùng với hoặc liên
quan đến ngôi thứ nhất thì kính ngữ sở thuộc lại gắn với ngôi thứ hai và thứ ba.
Và tất cả những yếu tố này đều gắn bó với lịch sự và vai giao tiếp.
2.4. Khiêm ngữ, kính ngữ và các hình thức biểu hiện khác
2.4.1. Một số mô thức cấu tạo từ biểu thị sự khiêm nhường: 辱 (nhục)
+ X, 叨 (thao) + X, 忝 (thiểm) + X, 猥 (ôi) + X. Các biểu thức ngôn ngữ trên
đều đề cập những gì liên quan đến mình (self). Xét thuần túy về mặt cấu tạo,
các từ ngữ này như đã thấy thường kết hợp với các yếu tố khác mang ý nghĩa
khiêm nhường. Cách định danh này có phần hơi cổ và thường gắn liền với ngôi
thứ nhất.
2.4.2. Một số mô thức cấu tạo từ biểu thị sự kính trọng: 拜 (bái) (vái
lạy, bái) + X, 呈(trình)(cầu xin; kiến nghị; dâng; thỉnh cầu; cầu nguyện) + X,
宠 (sủng)(sủng ái; cưng chiều; nuông chiều ) + X,垂 (thùy)(rủ lòng; hạ cố;
chiếu cố) + X, 赐 (tứ)(ban thưởng; ban tặng; ban cho; tặng cho; dành cho;
được) + X, 奉 (phụng) (kính; xin) + X, 伏 (phục) (xuống; xuống thấp; hạ) + X;
恭 (cung)(cung kính; kính cẩn) + X, 惠 (huệ) (hân hạnh) + X, 敬 (kính)(cung


13

kính) + X, 慈 (từ) (yêu thương; kính; lòng tốt; âu yếm; đằm thắm-đối với kẻ

dưới) + X;敦 (đôn) (thành khẩn; thật thà; trung hậu; chân thành; thành thực) +
X; 恩 (ân) (ân huệ; ân) + X; 烦 (phiền) (làm phiền; quấy rầy; nhờ; phiền) + X;
俯 (phủ) (cúi xin; kính xin; đoái) + X; 告(cáo) (xin; xin phép; yêu cầu; thỉnh) +
X; 光 (quang) (hạ cố; đến) + X; 海 (hải) (to; lớn; rộng) + X; 鸿 (hồng) (lớn;
to; to lớn) + X; 驾 (giá) (xe cộ) +X v.v. Khả năng biểu thị sự kính trọng của các
phương tiện từ vựng nói trên thường tiềm ẩn ngay trong đặc điểm ngữ nghĩa
của chúng. Các từ ngữ thuộc nhóm này mang sắc thái trang trọng. Sự xuất hiện
của chúng làm cho phát ngôn có phần kiểu cách.
2.4.3. Các ngữ cố định biểu thị ý nghĩa khiêm nhường và kính trọng
Sự xuất hiện của các ngữ cố định biểu thị sự khiêm nhường của S hoặc sự
kính trọng mà S dành cho H. Những cách nói trên tuy có phần khách sáo nhưng
đều ít nhiều thể hiện phép lịch sự trong giao tiếp.
2.4.4. Khiêm ngữ và kính ngữ trong hội thoại
Thông thường, các phát ngôn hồi đáp biểu thị sự khiêm tốn thường tương
ứng với kiểu phát ngôn trong cặp thoại: khen - đáp lời khen hay mở đầu cho
một cuộc thoại với nội dung tặng, cho, phát biểu, trình bày. Đây là một trong
những nét đặc trưng văn hóa của người Á Đông, đặc biệt là người Trung Quốc,
bởi nó liên quan đến thói quen tự khiêm, một trong những tiêu chí để đánh giá
thang độ lịch sự trong giao tiếp của người Trung Quốc.
CHƯƠNG 3: LỊCH SỰ TRONG TIẾNG TRUNG QUỐC VÀ TIẾNG
VIỆT QUA MỘT SỐ NGHI THỨC GIAO TIẾP VÀ MỘT VÀI ỨNG
DỤNG
3.1. Lịch sự và nghi thức chào
3.1.1. Khái niệm và phân loại nghi thức chào
Chào là một trong những nghi thức giao tiếp cơ bản không thể thiếu được
ở bất kỳ một xã hội nào. Đây là một hành vi ngôn ngữ tự thân đã mang tính lịch
sự.
3.1.2. Lịch sự và lời chào trực tiếp
Chào trực tiếp là hành vi chào mà phát ngôn chứa nó có sự tương ứng



14

giữa cấu trúc với hiệu lực ở lời. Qua khảo sát, LA nhận thấy trong tiếng Trung
Quốc có các kiểu chào trực tiếp như sau:
Kiểu a: Đại từ nhân xưng chỉ ngôi thứ 2 + 好 !
Ví dụ: 你好!(Chào anh!)
Kiểu b: (老/小 )+ tên riêng (H) + (好/早) !
Ví dụ: 嗨!张华!(Này, Trương Hoa!)
Kiểu c: Tên riêng + từ xưng hô + (đại từ nhân xưng ) + (好/早) + (啊) !
Ví dụ: 马大娘,您早啊!(Cô Mã, chào cô!)
Kiểu d: Tên riêng + từ chỉ chức danh/chức vụ + đại từ nhân xưng +
(好/早) !
Ví dụ: 王局长早!(Chào Cục trưởng Vương!)
Kiểu e: Cụm từ định danh chỉ ngôi đối + 好!
Ví dụ: 大家好! (Chào mọi người!)
Có thể nhận thấy, trong các kiểu chào trực tiếp của người Trung Quốc
thường không xuất hiện thành phần tự xưng (người chào - S) và động từ ngữ vi
(chào, chào mừng, chào đón). Điều này rất khác so với tiếng Việt. Thứ đến,
kiểu chào trực tiếp (a) và (b) rất giống trong tiếng Việt, ngoại trừ trường hợp,
người Trung Quốc thường hay sử dụng Họ, trái lại người Việt Nam lại dùng
ngay Tên riêng. Kiểu (c) và (d) có sự khác biệt không lớn. Nhìn chung, trong
tiếng Việt, ba thành phần (động từ ngữ vi, thành phần tự xưng, thành phần
hô gọi) không nhất thiết phải cùng đồng thời tham gia vào cấu tạo của lời chào
trực tiếp. Tuy nhiên, động từ ngữ vi là thành phần hạt nhân hầu như không thể
thiếu trong phát ngôn chào trực tiếp. Đôi khi, thành phần này có thể được lược
bỏ nếu phát ngôn chào có sử dụng các từ ngữ biểu thị tình thái, nhất là tiểu từ
tình thái cuối câu. Ngoài ra, sự hiện diện của thành phần tự xưng trong lời chào
của người Việt làm cho lời nói tăng thêm tính lịch sự, thể hiện thái độ cung
kính, tôn trọng, yêu mến của S đối với H, nếu là vai dưới; còn nếu S > H thì lời

chào thể hiện tính thân thiện, thông cảm. Điều này trong tiếng Trung Quốc
không được thể hiện rõ do không xuất hiện thành phần tự xưng. Tiếng Việt
cũng như tiếng Trung Quốc đều sử dụng các từ để hô gọi trong lời chào, bao


15

gồm nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc, từ ngữ chỉ tên riêng, nhóm từ chỉ nghề
nghiệp, chức danh, chức vụ, tước hiệu v.v. Trong những bối cảnh giao tiếp
trang trọng, mang tính xã giao, lịch sự; hoặc trong lần gặp mặt đầu tiên giữa các
bên tham thoại, người Trung Quốc thường sử dụng kiểu chào như: 高兴认识您
(rất vui được gặp anh) 欢迎您来 (hoan nghênh anh đến đây) v.v.
Ví dụ: 杨教授您好,很高兴认识您,我之前就听过您做的讲座,真
是精彩极了(Kính chào Giáo sư Dương, rất vui được gặp Giáo sư, tôi đã được
nghe Giáo sư báo cáo chuyên đề, rất hay ạ!)
Trong tiếng Việt, kiểu chào này thường có mô hình : Vui mừng/ nhiệt
liệt/ hân hạnh/ chào đón /chào mừng + H!
Ví dụ: Nhiệt liệt chào mừng quý vị đại biểu và quý thầy cô đã đến tham
dự buổi lễ kỷ niệm 40 năm thành lập trường.
Tiếng Trung Quốc tuy có lời chào chung nhưng trên thực tế, lời chào này
thường gắn liền với đối tượng cụ thể (biểu hiện qua các từ ngữ xưng hô chỉ ngôi
đối rất phong phú). Lời chào trong tiếng Trung Quốc thường không xuất hiện
động từ ngữ vi chào và từ tự xưng. Tiếng Việt không có lời chào chung mà bao
giờ lời chào cũng gắn liền với ngôi thứ hai cùng với động từ ngữ vi làm hạt
nhân và các từ biểu thị tình thái kèm theo.
3.1.3. Lịch sự và lời chào gián tiếp
Trong tiếng Trung Quốc và tiếng Việt, các phát ngôn chào hỏi gián tiếp
là tương đương nhau và có thể biểu đạt thông qua các hình thức sau:
Hình thức phát ngôn
Phát ngôn reo gọi


Tiếng Trung Quốc
嗨!张华!

Tiếng Việt
Ô, Trương Hoa!

Phát ngôn hỏi

吃饭了吗?

Anh ăn cơm chưa?

Phát ngôn xác nhận

你来了!

Anh đến rồi!

Phát ngôn mời

请坐! 请坐!

Anh ngồi chơi!

Phát ngôn chúc mừng

新年快乐!

Năm mới vui vẻ!


Phát ngôn khen ngợi

哇,你今天的皮鞋真 Hôm nay chị mang đôi
giày đẹp quá!
亮!

Tuy biểu hiện cụ thể có thể khác nhau, nhưng điểm tương đồng dễ thấy
nhất trong tiếng Trung Quốc và tiếng Việt về nghi thức chào dưới hình thức hỏi


16

là sự quan tâm giữa các tham thể.
3.2. Lịch sự và nghi thức mời
3.2.1. Khái niệm và phân loại nghi thức mời
Mời (邀请)là một hành động thuộc nhóm ứng xử, là một trong những
chiến lược lịch sự nhằm xác lập và củng cố tình thân hữu giữa các đối tác giao
tiếp. Đây là hành động hoàn toàn có tính chất tự nguyện từ phía S. Có thể khái
quát đặc điểm của nghi thức mời như sau:
Đặc điểm

Nghi thức giao tiếp

Mời

- Nghi thức giao tiếp dương tính
- Đề cao thể diện và vị thế của H
- Mang lại lợi ích cho H
- Củng cố tình thân hữu, tạo không khí giao

tiếp thân mật
- Có thể dùng để bù đắp thể diện cho H
- Được đánh giá theo hướng tích cực
- Thường được H chấp nhận

3.2.2. Lịch sự và hình thức mời trực tiếp
Kiểu a: S+ 请 (mời) + H + nội dung mời
Ví dụ: 我想请你到我们家吃个饭。
Kiểu b: S+ 请 (mời) + H + nội dung mời (có kính ngữ/ khiêm ngữ đi
kèm)
Ví dụ:赵晖先生,您好!我们想请您莅临鄙单位做个讲座.

(Chào

ông Zhao Hui, chúng tôi muốn mời ông bớt chút thời gian đến tham gia buổi
hội thảo do đơn vị chúng tôi tổ chức.)
Nhìn chung, kiểu mời (a) của tiếng Trung Quốc không có gì khác biệt
trong tiếng Việt. Cấu trúc của kiểu mời này thể hiện cái lõi của lời mời. Kiểu
mời này, với người Việt, lời mời có màu sắc trung tính. Trong khi đó, kiểu (b),
bên cạnh lõi còn có các thành phần chêm xen, rào đón, nài nỉ, và trong cảm
nhận của người Việt, nó thể hiện sự thân tình và lịch sự. Tương ứng với kiểu
(a), tiếng Việt có dạng: S + mời + H + nội dung mời. Tương ứng với kiểu (b),


17

tiếng Việt có dạng: S+ (xin) (trân trọng) (kính) + mời + H + nội dung mời
3.2.3. Lịch sự và hình thức mời gián tiếp
Kiểu a: Cấu tạo phát ngôn mời chỉ có nội dung mời.
Ví dụ:喝茶去!(Đi uống trà đi!)

Kiểu b: Lời mời là cách nói vòng, gián tiếp được thể hiện bằng hình
thức hỏi.
Ví dụ:我们一起去逛街好不好(Chúng ta cùng đi dạo được không?)
Kiểu c: hình thức mời gián tiếp dưới hình thức rủ rê
Ví dụ: 姑姑,初三回来吃饭吧,我们都很想你(Cô ơi, mùng ba cô về
nhà ăn cơm nhé, mọi người đều rất nhớ cô!
Kiểu d: hình thức mời gián tiếp bằng câu điều kiện
Ví dụ:姑姑,新年快乐!又过一年,您侄女长成大姑娘了,学会做饭
了,您今天要是没有特别安排的话,一定要来尝尝我的手艺!(Chúc cô
năm mới vui vẻ! Lại một năm nữa trôi qua, cháu cô lớn rồi, đã biết nấu ăn rồi,
nếu hôm nay cô không bận việc gì thì đến nếm thử vài món ăn của cháu nhé! )
Kiểu e: hình thức mời gián tiếp kèm thành phần chỉ nguyên nhân
Ví dụ:大姑,新年快乐呀,身体可好?今天我家包饺子,您也过来一
起吃个饭,一起热闹热闹吧(Chào cô, chúc cô năm mới vui vẻ, cô khoẻ không
ạ? Hôm nay nhà cháu làm sủi cảo, cô đến nhà cháu ăn cơm cho vui nhé.)
Trên đại thể, trong tiếng Việt, các hình thức mời gián tiếp gần như có mô
hình tương đương với các kiểu mời trên. Tuy nhiên, khác với tiếng Trung Quốc,
đối với người Việt, mời bằng hình thức hỏi thường không phù hợp với văn hóa
ứng xử, được cho là khách sáo, do đó kém hiệu quả.
3.2.4. Áp đặt lời mời trong văn hóa ứng xử của người Trung Quốc và
người Việt
Ngoại trừ những lời mời mang tính thân mật giữa những người bạn thân
thiết như "Ê, đi ăn chè mày!", đa phần người Việt và người Trung Quốc thường
sử dụng các hình thức rào đón trước khi đưa ra lời mời. Nội dung những biểu
thức rào đón này thường là: (a) Nêu lý do mời; (b) Hỏi thăm tình hình của H
trước khi mời. Người Trung Quốc thường không chấp nhận lời mời ngay mà cả
hai bên tham thoại phải trải qua một cuộc thương lượng mang tính hình thức


18


như sau:
Mời - từ chối ------> (rào đón), mời - từ chối ------> (rào đón), mời từ chối ---------> (rào đón), mời - chấp nhận.
Tùy vào đánh giá của người tham gia giao tiếp về các yếu tố trực tiếp liên quan
như tình huống xảy ra, tùy thuộc vào mối quan hệ thân - sơ, sức nặng của lời đề
nghị và tiến triển của quá trình giao tiếp mà H sẽ quyết định xem nên từ chối
bao nhiêu lần trước khi chấp nhận. Trong nghi thức mời, người Việt cũng có
hiện tượng áp đặt tương tự.
3.3. Lịch sự và nghi thức cám ơn
3.3.1. Khái niệm và phân loại nghi thức cảm ơn
Hành động cảm ơn (感谢言语行为 là hành vi tại lời thuộc nhóm ứng xử
theo phân loại của Austin và thuộc nhóm biểu cảm theo bảng phân loại của
Searle. Ngoài cách nói cảm ơn một cách tường minh thể hiện qua các từ 谢谢
(cám ơn), 多谢(đa tạ),感谢(cảm tạ), 感激(cảm kích. Với mỗi trường hợp
cụ thể, người Trung Quốc có thể có những cách cảm ơn khác nhau . Chẳng hạn:
(a) 给你/您添麻烦 (Gây thêm rắc rối cho anh rồi)
(b) 麻烦你/您了(Làm phiền anh rồi.)
(c) 辛苦你/您了(Vất vả cho ông /anh/ chị/ ngài /bà rồi.).
(d) 让你受累了/让您受累了/让您费心 (Làm anh vất vả rồi/ Làm
ngài vất vả rồi/ khiến ông bận tâm rồi)
(e) 真过意不去 (Thật áy náy quá)
(f) 真不好意思 (Thật ngại quá)
(g) 打扰你/您 (Làm phiền ông /anh/ chị/ ngài rồi)
(h) 太破费了(Làm ông /anh, chị/ ngài tốn kém rồi!)
(j) 你太好了/你人真好 (Anh tốt quá/ Con người anh thật tốt)
Với người Việt, từ "cảm ơn" trong ý nghĩa nguyên văn của nó cũng ít khi
dược sử dụng. Cũng như người Trung Quốc, tùy vào tình huống cụ thể, tùy vào
thái độ tình cảm của người được hưởng lợi và vào mối quan hệ liên nhân giữa
các bên tham gia giao tiếp mà S có những cách cám ơn khác nhau.
Ví dụ: Chú bày vẽ làm gì; Quý hóa quá; Em xin anh; Anh thật chu đáo



19

quá.
3.3.2. Lịch sự và lời cảm ơn trực tiếp
Kiểu a: lời cảm ơn chỉ có một thành phần hạt nhân là động từ ngữ vi :
谢谢(cám ơn), 多谢(đa tạ),感谢(cảm tạ), 感激(cảm kích)
Ví dụ: 感谢!感谢! ( Xin cảm ơn! Xin cảm ơn!”)
Kiểu b: 谢谢 / 多谢/感谢 /感激 + H
Ví dụ: 谢谢你,但是不用 麻烦你了
(Cám ơn anh, nhưng không cần phiền anh đâu!)
Kiểu c: Nội dung cảm ơn + phó từ chỉ mức độ :十分 (rất), 很 (rất), 非
常 (vô cùng), 太(quá) + 谢谢 / 多谢/感谢 /感激
Ví dụ:太谢谢了,你们给我们山区农民带来了方便。”
(Cảm ơn chị rất nhiều, các chị đã đem lại sự thuận tiện cho những người
nông dân đến từ vùng núi như chúng tôi.)
Kiểu d: Nội dung cảm ơn + + 谢谢 / 多谢/感谢 /感激 + kính ngữ
Ví dụ:承蒙盛情款待,不胜感激,谨致谢意。
(Được ngài chiêu đãi nồng hậu, chúng tôi vô cùng cảm kích, kính gửi tới
Ngài lời cảm ơn chân thành.)
Kiểu e: (S)+ 谢谢 / 多谢 /感谢 /感激 + H + nội dung cám ơn
Ví dụ:谢谢贵方合作,再一次致以深深的歉意。
(Cảm ơn quý công ty đã hợp tác và một lần nữa xin gửi đến quý công ty
lời xin lỗi sâu sắc.)
Tiếng Việt về cơ bản cũng có các mô hình cám ơn tương đương tiếng
Trung Quốc. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, cấu trúc cám ơn trực tiếp tối giản chỉ
với duy nhất động từ ngữ vi cảm ơn chỉ sử dụng trong những bối cảnh giao tiếp
bình thường nhất và ít được sử dụng. Các từ nhân xưng chỉ ngôi thứ hai (bao
gồm đại từ nhân xưng, từ chỉ chức danh chức vụ, từ chỉ quan hệ thân tộc, tên

riêng) đều có thể trực tiếp đứng ngay sau động từ ngữ vi trong phát ngôn cảm
ơn. Ngoài cảm ơn còn có các động từ ngữ vi thể hiện sự biết ơn như : đội ơn, đa
tạ, cảm tạ, cảm kích. Tuy nhiên, các từ này thường nhấn mạnh tính trang trọng
của hành vi cảm ơn, có từ đã không còn dùng trong xã hội hiện đại (đội ơn),


20

hoặc chỉ dùng phổ biến ở nông thôn hoặc ở những người lớn tuổi.
3.3.3. Lịch sự và hình thức cảm ơn gián tiếp
Kiểu a: lời cảm ơn có cấu trúc của một phát ngôn thể hiện sự băn
khoăn của S.
Ví dụ: 我真不知道该怎么感谢你才好?你对我太好了。
(Tôi thật sự không biết nên làm thế nào để trả ơn anh mới phải? Anh tốt
với tôi quá.)
Kiểu b: lời cảm ơn có cấu trúc của một phát ngôn thể hiện sự quan
tâm H hay thể hiện sự áy náy của S khi đã làm phiền H
Ví dụ:给你添麻烦了,请下班后过来聊聊天吧。”
(Gây thêm phiền phức cho anh rồi, sau khi tan ca ghé qua trò chuyện
chút nhé.” )
Kiểu c: lời cảm ơn được thể hiện dưới dạng một lời khen mang tính
khẳng định
Ví dụ: 不瞒你说,我都三个月没钱付房租了,要不是遇到你这样的
观音菩萨,说不定我现在已经饿得没力气说话了呢!
( Không giấu gì anh, đã 3 tháng tôi chưa đóng tiền nhà, nếu như không
gặp được Bồ tát như anh, nói không chừng tôi đã đói đến mức không còn hơi
sức để nói chuyện nữa kia!)
Hình thức cảm ơn gián tiếp trong tiếng Việt về cơ bản cũng sử dụng các
mô hình tương đương với mô hình cảm ơn trong tiếng Trung Quốc. Nhìn chung,
ở cả hai ngôn ngữ, nghi thức cảm ơn gián tiếp thường khó nhận diện hơn so với

nghi thức cảm ơn trực tiếp.
3.4. Ứng dụng kết quả nghiên cứu trong quá trình dạy học ngoại ngữ
3.4.1. Cơ sở lý luận
Người Việt học tiếng Trung Quốc cũng như người Trung Quốc học tiếng
Việt, không chỉ cảm thấy khó khăn khi gặp những cái không tương đồng, mà
còn thấy khó hơn khi gặp phải những tương đồng trong khác biệt hay những
khác biệt trong tương đồng. Do đó, khảo sát việc sử dụng một số nghi thức giao
tiếp trong tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam học tiếng Trung Quốc cần
phải được xem xét dưới góc độ ngôn ngữ giao văn hóa.


21

3.4.2. Một số khảo sát về sử dụng nghi thức giao tiếp trong tiếng
Trung Quốc của sinh viên Việt Nam
Bài tập 1: Bài tập vận dụng nhằm kiểm tra khả năng nhận biết và sử
dụng từ ngữ để thể hiện các nghi thức giao tiếp chào, mời, cảm ơn trong tiếng
Trung Quốc.
Bài tập 2: khả năng chuyển dịch lời chào, lời mời, lời cảm ơn từ tiếng
Trung Quốc sang tiếng Việt, có chú ý đến các yếu tố văn hóa giao tiếp và thói
quen sử dụng ngôn ngữ của người bản ngữ.
Kết quả khảo sát cho thấy: hầu như sinh viên chưa nhạy cảm trong việc
chuyển dịch cho phù hợp với cách diễn đạt ngôn ngữ đích mà còn lệ thuộc vào
cách diễn đạt của nguyên bản tiếng Trung Quốc.
3.4.3. Một số kiến nghị về giải pháp khắc phục lỗi của sinh viên Việt
Nam học tiếng Trung Quốc
3.4.3.1. Về phía người dạy
Với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, giáo viên phải thực sự đóng vai
trò tích cực, chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy ngoại ngữ theo lối tương
tác, chủ động gợi mở các tình huống giao tiếp khác nhau để diện tiếp xúc ngôn

ngữ của sinh viên được mở rộng. Trong quá trình giảng dạy, nhất là dạy đọc
hiểu và dịch, giáo viên cần chú ý đối chiếu hai ngôn ngữ Trung - Việt.
3.4.3.2. Về phía người học
Với tư cách là nhân vật trung tâm của quá trình dạy - học, sinh viên cần
phát huy tính chủ động, tích cực trong mỗi giờ lên lớp cũng như khả năng tự
học hỏi của mình. Thường xuyên có ý thức đối chiếu các bình diện từ ngôn ngữ
đến văn hóa của hai ngôn ngữ Trung - Việt. Từ kết quả của việc sử dụng lời
chào hỏi, mời, cảm ơn, sinh viên có thể chủ động mở rộng xem xét các nghi
thức khác, thậm chí phải chú ý đến các lớp từ ngữ thể hiện tính lịch sự, hệ
thống khiêm ngữ và kính ngữ; hoặc linh hoạt sử dụng các từ ngữ tình thái biểu
thị khả năng, nghĩa là tránh những hành động ngôn ngữ mang tính áp đặt.


22

KẾT LUẬN
Đối chiếu với những mục đích đặt ra ở phần mở đầu, đến đây, LA xin đúc
kết một số nhận xét sau:
1. Lịch sự là một thuộc tính thuộc phạm trù ứng xử của con người trong
giao tiếp. Lịch sự trong quan niệm của người Trung Quốc thiên về lịch sự
chuẩn mực theo kiểu phương Đông.
2. Trong thực tế vẫn luôn tồn tại các cuộc giao tiếp vượt ra khỏi khuôn
khổ của các nguyên tắc đó, chúng thể hiện mặt đối lập với lịch sự, đó là bất lịch
sự. LA đã dành một số trang thích đáng để trình bày một số vấn đề cơ bản về lý
thuyết bất lịch sự trên quan điểm của Jonathan Culpeper. Đồng thời giải thích
và xác định ranh giới giữa lịch sự và bất lịch sự qua một số nghi thức giao tiếp
trong tiếng Trung Quốc và tiếng Việt.
3. Ngôn ngữ lịch sự trong tiếng Trung Quốc thể hiện rõ nhất trên hai
phương diện kính và khiêm. Trên thực tế, hai phương diện này luôn hỗ trợ cho
nhau. Người biết kính trọng người khác thì tất phải biết hạ mình. Người biết hạ

mình tức là biết tôn trọng người khác. Nghiên cứu nội dung ngữ nghĩa và sự
phát triển, bảo lưu của hai hệ thống từ ngữ kính ngữ và khiêm ngữ trong xã hội
hiện đại, có thể thấy được chế độ xã hội trong tiến trình lịch sử, diện mạo văn
hóa, tâm lý dân tộc của một xã hội nhất định; đồng thời có thể khảo sát cấu trúc
của các kính ngữ, khiêm ngữ với tư cách là những ký hiệu không thuần túy
ngôn ngữ mà mang đậm hàm ý văn hóa truyền thống.
4. Khiêm ngữ là những từ ngữ khiêm tốn dùng để tự xưng hay để chỉ
những gì liên quan đến mình, đó là cách nói đẩy mình xuống thấp hơn đối tác.
Kính ngữ là những hình thức ngôn ngữ dùng để thể hiện sự tôn trọng đối
với người có vị thế cao hơn mình, đó là cách nói đẩy đối tác lên cao hơn mình.
Đối với người Trung Quốc, kính ngữ và khiêm ngữ được xem là phương
tiện quan trọng để biểu thị tính lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ. LA khảo sát hệ
thống kính ngữ và khiêm ngữ theo các tuyến sau:
- S ở vị thế thấp tự quy chiếu, tự gọi mình (tự xưng) với H là đối tượng
giao tiếp ở vị thế cao hơn
- S nói về những hành động, sự vật thuộc về mình (sở thuộc của S) với H


23

là đối tượng giao tiếp ở vị thế cao hơn.
- S ở vị thế thấp, tự đề cao, hô gọi đối tượng giao tiếp là người ở vị thế
cao hơn
- S ở vị thế thấp, tự đề cao, nâng bậc những hành động, sự vật thuộc về
đối tượng giao tiếp là người ở vị thế cao hơn
- Các phương tiện ngôn ngữ khác với khả năng biểu thị tính khiêm
nhường và kính trọng.
5. LA tiếp tục vận dụng hệ thống khái niệm về lịch sự đã trình bày trước
đó để mô tả một số nghi thức giao tiếp dương tính, bao gồm nghi thức chào,
nghi thức mời và nghi thức cảm ơn.

6. Cuối cùng, thông qua kết quả khảo sát về việc học tiếng Trung Quốc
của sinh viên Việt Nam chuyên ngành Trung văn tại một số trường đại học, LA
đã chú ý tìm hiểu năng lực nhận diện, khả năng vận dụng và chuyển dịch các
cấu trúc trong nghi thức chào, mời và cảm ơn của sinh viên. Đồng thời đề xuất
một số gợi ý để khắc phục lỗi cho người Việt khi học tiếng Trung Quốc. Tiếc
rằng, LA chưa có điều kiện khai thác kỹ hơn các kết quả này.


24

CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phan Thị Thanh Thủy (2016), Về một số cách xưng hô trang trọng
trong tiếng Hán hiện đại (liên hệ với tiếng Việt), Ngôn ngữ & đời sống, số 1.
2. Phan Thị Thanh Thủy (2016), Ranh giới giữa lịch sự và bất lịch sự qua
hành vi rào đón trong tiếng Việt, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm, số 5 (83).


×