Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649 KB, 64 trang )

Luận văn
CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRONG QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH:
1. Khái niệm :
2. Phân loại thị trường :
Khi xem xét trên giác độ cạnh tranh hay độc quyền tức là xem xét hành vi của
thị trường, các nhà kinh tế chia thị trường như sau : Thị trường cạnh tranh hoàn hoả,
thị trường độc quyền, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo bao gồm có cạnh tranh
độc quyền và độc quyền tập đoàn.
Khi phân loại thị trường, các nhà kinh tế sử dụng các tiêu thức cơ bản sau
:
 Số lượng người bán và người mua : Đây là tiêu thức rất quan trọng xác định
cấu trúc thị trường. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền
có nhiều người bán và người mua. Mỗi người trong số họ chỉ bán (Hoặc mua) một
phần rất nhỏ trong lượng cung thị trường. Trong thị trường độc quyền bán thì một
ngành chỉ có một người bán (Người sản xuất) duy nhất. Trong thị trường độc quyền
mua chỉ có một người mua duy nhất. Trong thị trường độc quyền mua chỉ có một
người mua duy nhất. Trong thị trường độc quyền bán tập đoàn chỉ có một vài người
bán, còn trong thị trường độc quyền mua tập đoàn chỉ có một số người mua.
 Loại sản phẩm : Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, sản phẩm đồng nhất,
trong thị trường cạnh tranh độc quyền sản phẩm khác nhau. Trong thị trường độc
quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống nhau hoặc khác nhau một ít. Trong thị
trường đọc quyền sản phẩm là đồng nhất.
 Sức mạnh thị trường của người bán và người mua. Trong thị trường cạnh


tranh hoàn hảo, người bán và người mua không có ảnh hưởng đến giá thị trường
của sản phẩm, nghĩa là họ không có sức mạnh thị trường. Trong thị trường độc
quyền bán ( mua ) họ có ảnh hưởng đến rất lớn đến giá thị trường sản phẩm. Trong
thị trường độc quyền tập đoàn, người bán ( mua ) có ảnh hưởng đến giá thị trường
của sản phẩm ở một mức độ nào đó.
 Các trở ngại gia nhập thị trường : Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo các
trở ngại gia nhập thị trường là rất thấp. Ngược lại, trong thị trường độc quyền bán (
mua ) tập đoàn có những trở ngại đáng kể đối với việc gia nhập thị trường. Chẳng
hạn trong các ngành sản xuất ô tô luyện kim … việc xây dựng nhà máy mới là rất
tốn kém. Đó chính là trở ngại lớn đối với việc gia nhập thị trường. Còn trong điều
kiện độc quyền thì việc gia nhập thị trường là cực kì khó khăn.
 Hình thức cạnh tranh giá : Trong cạnh tranh hoàn hảo không có sự cạnh tranh
phi giá. Trong cạnh tranh độc quyền cũng như trong độc quyền tập đoàn, các nhà
sản xuất sử dụng nhiều hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo, phân biệt sản
phẩm. Các nhà độc quyền cũng quảng cáo để thu hút thêm khách hàng.


2.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo :
 Khái niệm : Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường trong đó các hãng
đều nhỏ bé nên không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường. Có nghĩa là không cần
biết sản phẩm được sản xuất d
 Đặc trưng của thị trường cạnh tranh hoàn hảo :
- Có nhiều người mua người bán độc lập với nhau. Thị trường cạnh tranh
hoàn hảo đòi hỏi có nhiều người mua va người bán mà mỗi người trong số họ hành
động độc lập với tất cả những người khác. Số người bán vào mua được gọi là nhiều
khi những giao dịch bình thường của một người mua hoặc người bán không ảnh
hưởng gì đến giá mà ở đó các giao dịch được thực hiện.
- Tất cả các đơn vị hàng hoá trao đổi được coi là giống nhau. Dễ nhận thấy
trong các thị trường thực tế có đặc trưng này. Chẳng hạn thị trường than đá thuộc
cùng một cấp chất lượng hoặc thị trường xăng mỗi đơn vị là bản sao y hệt của một

đơn vị bất kì khác. Bởi vậy, người mua không bao giờ phải quan tâm họ mua các
đơn vị sản phẩm đó của ai.
- Tất cả người mua và bán đều có hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan
đến việc trao đổi. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo đòi hỏi tất cả người bán và mua
đều có liên hệ với tất cả những người trao đổi tiềm năng, biết tất cả các đặc trưng
của các mặt hàng trao đổi, biết tất cả giá mà người bán đòi và người mua trả. Mọi
người có liên hệ mật thiết với nhau và thông tin giữa họ là liên tục
- Không có gì cản trở việc họ gia nhạp và rút khỏi thị trường. Thị trường
cạnh tranh hoàn hảo ở mỗi thời điểm mỗi người đều phải được tự do trở thành người
bán hoặc người mua, đựoc tự do gia nhập thị trường và được trao đổi ở cùng một
mức giá mà những người trao đổi hiện hành. Tương tự, nó đòi hỏi không có trở ngại
nào ngăn không cho một người nào đó không là người mua hoặc là người bán trong
thị trường và vị thế rút lui khỏi thị trường.
 Đặc trưng của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo :
- Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có thể bán tất cả sản phẩm của mình ở
mức giá thị trường đang thịnh hành, nếu doanh nghiệp đặt giá cao hơn gia thị trường
thì doanh nghiệp đó không bán được sản phẩm nào vì người tiêu dùng sẽ mua của
người khác. Theo nghĩa đó, doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không có sức mạnh
thị trường, tức là không có khả năng kiểm soát giá thị trường đối với sản phẩm của
mình bán. Sản lượng của doanh nghiệp là nhỏ so với cung thị trường vì thế doanh
nghiệp không có ảnh hưởng đáng kể đến tổng sản lượng hoặc giá trên thị trường.
- Các doanh nghiệp cạnh tranh riêng lẻ có thể bán hết sản lượng của mình ở
giá thị trường đang thịnh hành, Đây là một đặc trưng nổi bật của việc không có sức
mạnh thị trường của các doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp cạnh tranh không có
ảnh hưởng độc lập đến giá thị trường. Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo đứng trước
đường cầu nằm ngang đối với sản lượng của mình. Cần phân biệt đường cầu thị
trường và đường cầu mà một doanh nghiệp cụ thể phải đối mặt. Đường cầu thị
trường luôn là một đường dốc xuống dưới.
Sản lượng của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo : Giả định tối đa hoá lợi nhuận
thường được sử dụng trong kinh tế vi mô vì nó mô tả hành động của doanh nghiệp



một cách chính xác ở một mức độ hợp lí và tránh được những phức tạp không cần
thiết khi phân tích. Chúng ta bắt đầu nghiên cứu quyết định sản lượng tối đa hoá lợi
nhuận của một doanh nghiệp bất kì dù doanh nghiệp này hoạt động trong thị trường
cạnh tranh hoàn hảo hay không mà doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến giá thị
trường. Vì lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí nên tìm ra sản lượng tối
đa hoá lợi nhuận ta phải phân tích chi phí và doanh thu của nó. Tổng doanh thu là :
TR = Pq. Tổng chi phí cũng phụ thuộc vào sản lượng do đó lợi nhuận của doanh
nghiệp là : pi = TR (q) – TC (q). Để tối đa hoá lợi nhuận khi doanh nghiệp sẽ chọn
sản lượng sao cho chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng sản lượng là lớn nhất

Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


2. Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
Hành vi cạnh tranh có các đặc trưng cơ bản sau:
- Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có thể bán tất cả sản lượng của mình ở
mức giá thị trường đang thịnh hành, nếu doanh nghiệp đặt giá cao hơn thì doanh
nghiệp sẽ không bán được tý nào vì người tiêu dùng sẽ mua của người khác. Theo
nghĩa đó, doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không có sức mạnh thị trường, tức là
không có khả năng kiểm soát giá thị trường đối với sản phẩm mình bán. Sản lượng
của doanh nghiệp là nhỏ so với cung thị trường, vì thế doanh nghiệp không có ảnh
hưởng đáng kể đến tổng sản lượng hoặc giá trên thị trường.
- Các doanh nghiệp cạnh tranh riêng lẻ có thể bán hết sản lượng của mình ở
giá thị trường đang thịnh hành. Đây là đặc trưng nổi bật của việc không có sức mạnh
thị trường của các doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp cạnh tranh không có ảnh
hưởng độc lập đến giá thị trường. Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có sản lượng
quá nhỏ so với dung lượng thị trường do đó các quyết định sản lượng của doanh
nghiệp không có ảnh hưởng đáng kể đến giá. Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo

đứng trước đường cầu nằm ngang đối với sản lượng của mình. Cần phân biệt đường
cầu, thị trường và đường cầu mà một doanh nghiệp cụ thể phải đối mặt. Đường cầu
thị trường luôn là một đường dốc xuống dưới. Hình V.1a biểu thị trường cầu doanh
nghiệp cạnh tranh hoàn hảo còn hình V.1b là đường cầu thị trường.

Giá (P)

Giá (P)

d

Sản lượng (q)
Sản lượng Q
Hình(a)
V.1. Đường cầu của doanh nghiệp cạnh(b)
tranh

hoàn hảo và đường cầu thị trường


3. Sản lượng của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
Giả định tối đa hoá lợi nhuận thường được sử dụng trong kinh tế vi mô vì nó
mô tả hành vi của doanh nghiệp một cách chính xác ở một mức độ hợp lý và tránh
được những phức tạp không cần thiết khi phân tích.
Ta hãy bắt đầu bằng việc nghiên cứu quyết định sản lượng tối đa hoá lợi
nhuận của một doanh nghiệp bất kỳ dù doanh nghiệp này hoạt động trong thị trường
cạnh tranh hoàn hảo hay trong một thị trường nào đó mà doanh nghiệp có thể ảnh
hưởng đến giá. Vì lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh nghiệp thu và chi phí nên để
tìm ra sản lượng tối đa hoá lợi nhuận ta phải phân tích doanh thu và chi phí của nó.
Tổng doanh thu là TR = P.q. Tổng chi phí cũng phụ thuộc vào sản lượng. Do đó lợi

nhuận của doanh nghiệp là:
(q) = TR(q) - TC(q)
Để tối đa hoá lợi nhuận doanh nghiệp sẽ chọn sản lượng sao cho chênh lệch
giữa tổng doanh thu và tổng sản lượng là lớn nhất. Hình V.2 cho thấy đường tổng
doanh thu là đường thẳng, vì với một mức giá đã cho, tổng doanh thu tỷ lệ thuận với
sản lượng.
Chi phÝ,
doanh thu,
lî i nhuËn

TC(q)

TR(q)

B

0

q0

q*

S¶n l­ î ng (q)
(q)

Độ dốc của nó là doanh thu cận biên. Độ dốc này cho thấy tổng doanh thu
tăng thêm bao nhiêu khi sản lượng tăng thêm một đơn vị. Vì có chi phí cố định và
chi phí biến đổi nên tổng chi phí không phải là đường thẳng. Độ dốc của nó là chi
phí cận biên - cho thấy tổng chi phí tăng bao nhiêu thì sản lượng tăng thêm 1 đơn vị.
TC(q) dương hạn. Ở các mức sản lượng thấp, lợi nhuận âm ( < 0) vì doanh thu

không đủ để bù đắp chi phí. Doanh thu cận biên lớn hơn chi phí cận biên nói lên


rằng tăng sản lượng sẽ làm tăng lợi nhuận, khi sản lượng tăng lợi nhuận có thể
dương (với q > q0) và tăng cho đến tận khi sản lượng đạt tới q*. Ở đó doanh thu cận
biên bằng chi phí cận biên, q* là sản lượng tối đa hoá lợi nhuận. Khoảng cách thẳng
đứng giữa đường TR và đường TC, (đoạn AB) ở điểm này là lớn nhất nói cách khác,
(q) đạt điểm cực đại của nó. Sau mức sản lượng q*, doanh thu cận biên nhỏ hơn
chi phí cận biên, lợi nhuận giảm, điều này phản ánh tổng chi phí tăng nhanh hơn
tổng doanh thu.
Ta cũng có thể chứng minh quy tắc này bằng đại số như sau:
 = TR - TC
 đạt cực đại ở điểm mà một đơn vị sản lượng gia tăng làm cho  không thay
đổi, nghĩa là /q = 0

  TR  TC


q q
q
mà TR/q = MR. TC/q = MC. Do đó ta kết luận rằng lợi nhuận đạt cực
đại khi:
MR(q) = MC(q)
Vì doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo gặp đường cầu nằm ngang nên đường
cầu mà doanh nghiệp gặp cũng chính là đường doanh thu bình quân và doanh thu cận
biên. Dọc đường cầu này doanh thu cận biên bằng giá. Vì MR = P nên quy tắc tối đa
hoá lợi nhuận đối với doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là
MC(q) = P
Lựa chọn sản lượng trong ngắn hạn
Hình V.3 cho thấy đường cầu (D) mà doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo gặp

và các đường tổng chi phí bình quân (ATC), chi phí biến đổi bình quân (AVC) và
chi phí cận biên (MC) của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo tối đa hoá lợi nhuận ở q* vì ở đó MC = P.
Nếu doanh nghiệp sản xuất mức sản lượng q1, ở đó MC < P thì doanh nghiệp có thể
tăng lợi nhuận bằng cách tăng sản lượng. Diện tích gạch chéo giữa q 1 và q* là phần
lợi nhuận bị mất do chỉ sản xuất ở q1...

Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


Gi¸

MC ATC

Lî i nhuËn bÞmÊt
v×q1 < q*
D

Lî i nhuËn bÞmÊt
v×q2 < q*

C
B

q1

q2

AVC


q* S¶n l­ î ng

Hình V.3. Doanh nghiệp cạnh tranh thu được lợi nhuận dương
Ở mức sản lượng cao hơn, chẳng hạn q2, ở đó MC > MR, như vậy giảm sản
lượng sẽ làm tăng lợi nhuận vì tiết kiệm được phần chi phí vượt quá phần tăng trong
tổng doanh thu. Diện tích gạch chéo giữa q* và q2 là lợi nhuận bị mất do sản xuất ở
q2.
Hình này còn cho ta thấy lợi nhuận ngắn hạn của doanh nghiệp cạnh tranh
hoàn hảo. Khoảng cách AB là hiệu số giữa giá và tổng chi phí bình quân ở mức sản
lượng q*, đó là lợi nhuận bình quân (lợi nhuận tính trung bình cho một đơn vị sản
lượng). Đoạn BC là tổng sản lượng sản xuất ra. Vì thế diện tích hình chữ nhật
ABCD là tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong ngắn hạn không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có lãi. Hình
V.4 cho thấy một tình huống trong đó chi phí cố định quá cao làm cho tổng chi phí
bình quân tăng nhanh nhưng chi phí biến đổi bình quân và chi phí cận biên vẫn giữ
nguyên. Ở sản lượng tối ưu q*, giá thấp hơn tổng chi phí bình quân, như vậy đoạn
AB là khoản lỗ bình quân. Hình chữ nhật ABCD bây giờ biểu thị tổng thua lỗ.
Trường hợp này doanh nghiệp có hai sự lựa chọn trong ngắn hạn: Sản xuất hoặc
đóng cửa (ngừng) sản xuất tạm thời. Doanh nghiệp có thể sản xuất và chịu lỗ trong
ngắn hạn vì doanh nghiệp hy vọng rằng sẽ kiếm được lợi nhuận trong tương lai, khi


giá của sản phẩm tăng hoặc chi phí sản xuất giảm. Trong hai phương án trên doanh
nghiệp sẽ chọn phương án nào có lợi hơn.
Gi¸

D
C
F


ATC

MC

AR = MR = P
B

AVC

E

q* S¶n l­ î ng

Hình V.4 Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo chịu lỗ
Trong hình V.4 ta thấy nếu doanh nghiệp sản xuất ở mức sản lượng q* doanh
nghiệp sẽ bị lỗ một khoản bằng diện tích hình chữ nhật ABCD, nếu doanh nghiệp
đóng cửa sản xuất doanh nghiệp sẽ mất toàn bộ chi phí cố định là diện tích hình chữ
nhật ABCD. Vì AE là chi phí cố định bình quân vì thế doanh nghiệp nên tiếp tục sản
xuất thì sẽ bị mất ít hơn là đóng cửa sản xuất.
Như vậy chi phí cố định không liên quan đến quyết định sản lượng của doanh
nghiệp trong ngắn hạn nhưng lại là yếu tố quyết định đối với việc xem xét có nên
dời bỏ ngành trong dài hạn hay không.
4. Đường cung ngắn hạn của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
Đường cung của doanh nghiệp cho thấy doanh nghiệp sẽ sản xuất sản lượng
nào ở mỗi mức giá. Như ta đã thấy, các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo sẽ tăng
sản lượng đến điểm mà ở đó giá bằng chi phí cận biên, và sẽ đóng cửa nếu giá nhỏ
hơn chi phí biến đổi bình quân. Vì thế, với những mức sản lượng dương (q > 0)
đường cung ngắn hạn của doanh nghiệp là một phần của đường chi phí cận biên cắt
đường chi phí biến đổi bình quân ở điểm chi phí biến đổi bình quân tối thiểu nên
đường cung của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là đường chi phí cận biên trên

điểm chi phí biến đổi bình quân tối thiểu.
Gi¸

MC
AC

AVC


Hình V.5 Đường cung ngắn hạn của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
Với bất kỳ mức giá nào lớn hơn chi phí biến đổi bình quân, sản lượng tối đa
hoá lợi nhuận được đọc trực tiếp trên hình V.5. Ví dụ, ở giá P1 lượng cung sẽ là q1, ở
giá P2 lượng cung sẽ là q2. Với những giá thấp hơn chi phí biến đổi bình quân tối
thiểu sản lượng tối ưu bằng không.
Đường cung ngắn hạn của các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo dốc lên do
sự có mặt của quy luật hiệu suất giảm dần đối với một hoặc nhiều yếu tố sản xuất.
Giá thị trường tăng sẽ làm cho các doanh nghiệp trong ngành tăng sản lượng. Giá
cao hơn làm cho phần sản lượng gia tăng có lãi và làm tăng tổng lợi nhuận, vì giá đó
áp dụng cho tất cả các đơn vị sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra.
5. Đường cung ngắn hạn của thị trường
Đường cung ngắn hạn của thị trường cho thấy số lượng sản phẩm mà ngành
sẽ sản xuất trong ngắn hạn ở mỗi mức giá. Sản lượng của ngành là tổng lượng cung
của tất cả các doanh nghiệp. Vì thế đường cung thị trường là tổng chiều ngang của
các đường cung của các doanh nghiệp.
Thặng dư sản xuất trong ngắn hạn
Một khái niệm tương tự thặng dư dùng được áp dụng cho các doanh nghiệp.
Nếu chi phí cận biên tăng dần thì giá của sản phẩm sẽ cao hơn chi phí cận biên đối
với mỗi đơn vị sản phẩm sản xuất ra trừ đơn vị cuối cùng. Như vậy doanh nghiệp
thu được thặng dư từ tất cả các đơn vị, trừ đơn vị cuối cùng. Thặng dư sản xuất là
phần diện tích nằm trên đường cung và nằm dưới đường giá. Hình V.6a biểu thị



thặng dư sản xuất của một doanh nghiệp, hình V.6b biểu thị thặng dư sản xuất trên
thị trường.
Gi¸

Gi¸
MC
A

AVC

B

P*

Ps

PS

C

D

q* S¶n l­ î ng

Q* S¶n l­ î ng

(a)


(b)

Hình V.6 Thặng dư sản xuất
6. Lựa chọn sản lượng trong dài hạn
Trong dài hạn doanh nghiệp có thể thay đổi tất cả các đầu vào, bao gồm cả
quy mô nhà máy. Doanh nghiệp có thể bắt đầu sản xuất (nghĩa là gia nhập ngành)
hoặc đóng cửa sản xuất (nghĩa là rút khỏi ngành). Trong thị trường cạnh tranh hoàn
hảo ta giả định rằng các doanh nghiệp có thể gia nhập hoặc dời bỏ ngành mà không
có một hạn chế pháp lý hoặc một chi phí đặc biệt nào.
Hình V.7 cho thấy cách thức mà một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo ra
quyết định về sản lượng tối đa hoá lợi nhuận trong dài hạn. Các đường tổng chi phí
bình quân ngắn hạn (SAC) và chi phí cận biên ngắn hạn (SMC) là đủ thấp để doanh
nghiệp thu được lợi nhuận dương được cho bởi diện tích hình chữ nhật ABCD, bằng
việc sản xuất sản lượng q1, ở đó chi phí cận biên ngắn hạn bằng giá bán p 1 và bằng
doanh thu cận biên (MR). Đường chi phí bình quân dài hạn (LAC) phản ánh sự có
mặt của hiệu suất tăng của quy mô cho đến mức sản lượng q2 và hiệu suất giảm của
quy mô ở những mức sản lượng lớn hơn q2. Đường chi phí cận biên dài hạn (LMC)
cắt đường chi phí bình quân dài hạn (LAC) ở q2 - điểm tối thiểu của chi phí bình
quân dài hạn.
Gi¸

LMC
SMC

D
C
G

A


SAC
E

B

F

LAC

P1 = MR


Hình V.7 Lựa chọn sản lượng trong dài hạn
Nếu doanh nghiệp tin rằng giá thị trường sẽ ở mức P1 thì nó sẽ mở rộng quy
mô của nhà máy để sản xuất mức sản lượng q3, ở đó LMC = P1. Khi sự mở rộng kết
thúc thì lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp sẽ tăng từ AB đến EF, và tổng lợi
nhuận sẽ tăng từ ABCD lên EFGD. Sản lượng q3 tối đa hoá lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
Lưu ý rằng giá trị thị trường cao hơn thì lợi nhuận doanh nghiệp thu được
cũng cao hơn. Tương tự, khi giá thị trường giảm từ P1 đến P2 thì lợi nhuận của
doanh nghiệp sẽ giảm xuống bằng không.
7. Cân bằng cạnh tranh dài hạn
Giá cân bằng dài hạn ban đầu của sản phẩm là P1 ở hình V.8b (xác định ở giao
đỉnh của đường cung S1 và đường cầu D). Hình V.8a cho thấy rằng các doanh
nghiệp thu được lợi nhuận dương vì chi phí bình quân dài hạn tối thiểu bằng giá P2
(ở sản lượng q2). Khoản lợi nhuận dương này khuyến khích các doanh nghiệp mới
gia nhập ngành, làm cho đường cung dịch chuyển đến S2. Cân bằng dài hạn xảy ra ở
giá P2. Vì doanh nghiệp thu được lợi nhuận bằng không, không có động cơ khiến
các doanh nghiệp gia nhập hoặc rút khỏi ngành.
Gi¸


LMC

LAC

S2

Gi¸

S1
P1

P1

P2

P2

q1
a)

q2

q1

S¶n l­ î ng
b)

q2


S¶n l­ î ng


Hình V.8 Cân bằng cạnh tranh dài hạn
Như vậy, cân bằng dài hạn xảy ra khi tất cả các doanh nghiệp trong ngành tối
đa hoá được lợi nhuận, không có doanh nghiệp nào có động cơ gia nhập hoặc rút
khỏi ngành vì tất cả các doanh nghiệp trong ngành đều thu được lợi nhuận bằng
không, giá của sản phẩm ở mức mà lượng cung của ngành bằng lượng cầu của tất cả
những người tiêu dùng.

III. ĐỘC QUYỀN
Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu độc quyền bán và độc quyền mua.
Độc quyền bán là một thị trường trong đó chỉ có một người bán nhưng có nhiều
người mua. Độc quyền mua là một thị trường trong đó có nhiều người bán nhưng
chỉ có một người mua.
1. Độc quyền bán
a) Nguyên nhân dẫn đến độc quyền bán
Một doanh nghiệp có thể chiếm được vị trí độc quyền bán nhờ một số nguyên
nhân cơ bản sau:
- Đạt được tính kinh tế của quy mô, yếu tố quan trọng quyết định cấu trúc thị
trường là sản lượng ở mức quy mô tối thiểu có hiệu quả so với cầu của thị trường.
Quy mô tối thiểu có hiệu quả là sản lượng mà tại đó đường chi phí bình quân dài
hạn của một doanh nghiệp ngừng đi xuống. Như vậy nếu một doanh nghiệp đạt
được tính kinh tế của quy mô thì việc mở rộng sản lượng của nó sẽ loại bỏ được các
đối thủ và cuối cùng sẽ là người bán duy nhất trên thị trường nếu mức sản lượng có
chi phí bình quân dài hạn tối thiểu của nó là đủ lớn để đáp ứng cầu thị trường.
- Bắng phát minh sáng chế (bản quyền). Luật về bằng phát minh sáng chế
(bản quyền) cho phép các nhà sản xuất có được vị trí độc quyền bán về một sản
phẩm hoặc một quy trình công nghệ mới trong một khoảng thời gian nhất định.



- Kiểm soát các yếu tố (đầu vào) sản xuất. Một doanh nghiệp có thể chiếm
được vị trí độc quyền bán nhờ quyền sở hữu một loại đầu vào (nguyên liệu) để sản
xuất ra một loại sản phẩm nào đó.
- Quy định của Chính phủ. Một doanh nghiệp có thể trở thành độc quyền hợp
pháp nếu nó là người duy nhất được cấp giấy phép sản xuất kinh doanh một loại sản
phẩm dịch vụ nào đó. Chẳng hạn đường sắt Việt Nam, Bưu điện Việt Nam...
b) Đường cầu và doanh thu cận biên trong độc quyền bán
Là người sản xuất duy nhất đối với một loại sản phẩm, nhà độc quyền bán có
vị trí độc nhất trên thị trường. Nhà độc quyền bán có sự kiểm soát toàn diện đối với
số lượng sản phẩm đưa ra bán. Nhưng điều này không có nghĩa là nó muốn đặt giá
cao bao nhiêu cũng được vì mục đích của nó là tối đa hoá lợi nhuận. Đặt giá cao sẽ
có ít người mua và lợi nhuận thu được sẽ ít hơn.
Vì là người duy nhất bán một hàng hoá hoặc dịch vụ cụ thể trên thị trường,
nhà độc quyền bán đứng trước đường cầu thị trường - một đường cầu dốc xuống
dưới về phía phải. Đường cầu thị trường chính là đường doanh thu bình quân (AR)
của doanh nghiệp. Khi đường cầu dốc xuống thì giá và doanh thu bình quân luôn lớn
hơn doanh thu cận biên vì tất cả các đơn vị đều được bán ở cùng một giá. Tăng
lượng bán thêm một đơn vị thì giá phải giảm xuống, như vậy tất cả các đơn vị bán ra
đều phải giảm giá chứ không phải chỉ một đơn vị bán thêm. Đường doanh thu cận
biên vì thế luôn nằm dưới đường cầu, trừ điểm đầu tiên, như mô tả ở hình V.9.
Giá

D
MR

Sản lượng

Hình V.9 Đường cầu và doanh thu cận biên
c) Quyết định sản lượng của Nhà độc quyền


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


Ở phần II ta thấy một doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận phải sản xuất mức
sản lượng sao cho doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên. Lời giải này cũng được
áp dụng cho bài toán sản lượng của nhà độc quyền bán. Ở hình V.10, đường cầu thị
trường D là đường doanh thu bình quân của doanh nghiệp. Đường doanh thu cận
biên và các đường chi phí bình quân và cận biên cũng đã được biểu thị trong hình
này. Doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên ở sản lượng Q*. Từ đường cầu ta tìm
ra giá tương ứng P* của mức sản lượng Q* này.
Gi¸
MC
AC

P1
P*
P2

Q1 Q* Q2

D
S¶n l­ î ng

Hình V.10 Tối đa hoá lợi nhuận của Nhà độc quyền bán
Làm thế nào để biết Q* là sản lượng tối đa hoá lợi nhuận? Giả sử sản lượng
nhỏ hơn Q1 chẳng hạn, lúc đó giá tương ứng sẽ là P1. Như biểu thị trên hình doanh
thu cận biên (MR) cao hơn chi phí cận biên (MC). Nếu nhà độc quyền bán sản
lượng nhiều hơn Q 1 một ít thì sẽ thu thêm được lợi nhuận bổ sung (MR - MC) và
nhờ đó tổng lợi nhuận tăng. Nhà độc quyền bán có thể tăng sản lượng để tăng tổng

lợi nhuận cho đến tận sản lượng Q*, ở đó lợi nhuận bổ sung từ việc sản xuất thêm
một đơn vị sản phẩm bằng không. Như vậy sản lượng nhỏ hơn (Q1) không phải là
sản lượng tối đa hoá lợi nhuận, ngay cả khi sản lượng đó cho phép nhà độc quyền
bán đặt giá cao hơn. Nếu sản xuất mức sản lượng Q 1 tổng lợi nhuận của nhà độc
quyền bán sẽ nhỏ hơn mức cực đại một khoản bằng phần gạch chéo dưới đường MR
và trên đường MC, giữa Q 1 và Q2. Tương tự, sản lượng lớn hơn, Q2 chẳng hạn, cũng
không phải là sản lượng tối đa hoá lợi nhuận, ở sản lượng Q 2 này chi phí cận biên
MC cao hơn doanh thu cận biên MR, do đó nếu nhà độc quyền bán sản xuất ít đi


một ít thì lợi nhuận thu được sẽ tăng thêm (MC - MR). Nhà độc quyền có thể làm
cho lợi nhuận tăng thêm nữa bằng việc giảm bớt phần sản lượng phía sau Q*, phần
lợi nhuận tăng thêm do sản xuất Q* chứ không phải Q2 là phần diện tích gạch chéo
nằm dưới đường MC và trên đường MR, giữa Q* và Q2.
Quy tắc ngón tay cái vè định giá
Như ta đã biết, để tối đa hoá lợi nhuận, nhà độc quyền bán phải sản xuất mức
sản lượng mà tại đó MR = MC.
Ta có:
MR =

=

TR
(PQ)
=
Q
Q

PQ + QP
Q


= P(1+

=P+Q

P
Q

P
1
P
x
) = P(1+
)
Q
Ed
Q

Đặt MR = MC ta được:
P(1+1/Ed) = MC
P=

MC
1 + 1/Ed

Trong độc quyền bán không có đường cung. Nói cách khác, không có mối
quan hệ 1:1 giữa giá và sản lượng. Bởi vì quyết định sản lượng của Nhà độc quyền
phụ thuộc không chỉ vào chi phí cận biên mà còn vào hình dáng của đường cầu. Do
đó, sự dịch chuyển của đường cầu không kéo theo một loạt các mức giá và các mức
sản lượng như với đường cung cạnh tranh hoàn hảo. Trong độc quyền bán, sự dịch

chuyển của cầu có thể dẫn đến thay đổi giá mà sản lượng không thay đổi, như biểu
thị ở hình V.11a, hoặc sự thay đổi trong sản lượng mà giá không đổi, như biểu thị ở
hình V.11b, hoặc thay đổi trong cả sản lượng cả giá.
Gi¸

Gi¸
MC

P1
P2

MC

P1 = P2

D1

D2
MR2

A1

D2
MR2

Mr 1

D1



Hình V.11 Sự chuyển dịch của cẩu dẫn đến giá thay đổi hoặc
lượng thay đổi chứ không phải cả hai
Sức mạnh độc quyền
Sự khác nhau cơ bản giữa doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo và doanh nghiệp
độc quyền bán là doanh nghiệp độc quyền bán có sức mạnh thị trường. Doanh
nghiệp cạnh tranh hoàn hảo phải đặt giá bằng chi phí cận biên còn doanh nghiệp độc
quyền bán đặt giá cao hơn chi phí cận biên. Vì thế sức mạnh độc quyền bán được đo
bằng chỉ số Lerner, gọi là mức độ của sức mạnh độc quyền Lerner (do Abba Lerner
đưa ra năm 1934).
L=

P - MC
P

0L1

Mất không từ sức mạnh độc quyền
Vì sức mạnh độc quyền tạo ra giá cao hơn và sản lượng sản xuất ra thấp hơn
so với cạnh tranh hoàn hảo nên ta dễ thấy người tiêu dùng bị thiệt hại còn người sản
xuất thì được lợi. Nhưng nếu coi phúc lợi của người tiêu dùng và của người sản xuất
như nhau thì cả người tiêu dùng và người sản xuất tính thành một tổng thể sẽ không
được lợi bằng trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Có thể thấy điều này khi so
sánh thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất được tạo ra trong ngành cạnh tranh
hoàn hảo và trong ngành độc quyền bán. Hình V.12 cho thấy nếu thị trường là cạnh
tranh hoàn hảo thì giá và sản lượng sẽ là Pc và Qc. Nếu thị trường là độc quyền bán
thì giá và sản lượng là Pm và Qm. Như vậy so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì
thị trường độc quyền bán tạo ra phúc lợi ít hơn một phần thặng dư tiêu dùng (diện


tích A) và thặng dư sản xuất (diện tích B) bị mất do chỉ sản xuất ở mức sản lượng

Qm. Phần phúc lợi bị mất gọi là mất không.
Gi¸
Pm

MC

A
Pc
B

Qm

D

Qc
MR

S¶n l­ î ng

Hình V.12 Mất không từ sức mua độc quyền
2. Độc quyền mua
Ở phần trên ta đã tập trung vào phía người bán của thị trường. Bây giờ ta quay
lại phía người mua. Một số khái niệm: Độc quyền mua đề cập tới thị trường trong đó
chỉ có một người mua, độc quyền mua tập đoàn là một thị trường trong đó chỉ có
một số người mua.
Khi thị trường có một hoặc một số người mua thì người mua có sức mạnh độc
quyền mua. Đó là khả năng thay đổi giá của hàng hoá. Nó cho phép người mua có
thể mua hàng hoá ở mức giá thấp hơn giá thịnh hành trong thị trường cạnh tranh.
Khi ra quyết định mua bao nhiêu hàng hoá người mua cũng áp dụng nguyên
lý cận biên - mua hàng hoá cho đến số lượng mà đơn vị mua cuối cùng đêm lại giá

trị bổ sung, hay lợi ích, đúng bằng chi phí trả cho đơn vị cuối cùng đó.
Như ta đã biết, đường cầu của một cá nhân biểu thị giá trị cận biên (hay ích
lợi cận biên), là một hàm số của số lượng mua. Vì thế đường giá trị cận biên là
đường cầu về hàng hoá. Nhưng chi phí cận biên của việc mua thêm một đơn vị hàng
hoá phụ thuộc vào người mua có sức mạnh độc quyền mua hay không.
Khi người mua không có sức mạnh độc quyền mua (người bán cạnh tranh) thì
họ phải chấp nhận giá sẵn có trên thị trường, vì thế chi tiêu cận biên (ME) và chi
tiêu bình quân (AE) là không đổi và bằng nhau, số lượng mua được xác định bằng


việc đặt giá bằng giá trị cận biên (đường cầu). Điều này hoàn toàn tương tự như
người bán cạnh tranh (Pc Qc).
Khi người mua có sức mạnh độc quyền mua (người mua độc quyền) thì
đường cung thị trường là đường chi tiêu bình quân (AE) của nhà độc quyền mua.
Chi tiêu bình quân tăng, nếu chi tiêu cận biên nằm trên chi tiêu bình quân. Nhà độc
quyền mua số lượng Qm mà ở đó các đường chi tiêu cận biên (ME) và giá trị cận
biên (ME) (cầu) cắt nhau (hình V.13). Giá trả cho một đơn vị là P *m được xác định
từ đường chi tiêu bình quân (cung).
Gi¸

ME

Pc

S = AE

A

P* m


B

*

Qm

D

Qc

S¶n l­ î ng

Hình V.13 Người mua độc quyền


Sức mạnh độc quyền cũng gây ra mất không là diện tích A và B (tương tự như
sức mạnh độc quyền bán).
Định giá với sức mạnh thị trường
Tất cả các chiến lược định giá mà ta sẽ xem xét có một điểm chung đó là
những cách chiếm thặng dư của người tiêu dùng và chuyển sang cho người sản xuất.
Phân biệt giá (gọi tắt của phân biệt đối xử bằng giá).
Phân biệt giá hoàn hảo (còn gọi là phân biệt giá cấp một). Nếu có thể đặt cho
mỗi khách hàng một giá thì doanh nghiệp sẽ đặt cho mỗi khách hàng một mức giá
tối đa mà khách hàng đó sẵn sàng trả cho mỗi đơn vị mua, ta gọi giá tối đa này là giá
đặt trước của người tiêu dùng. Việc đặt cho mỗi khách hàng một mức giá bằng giá
đặt trước của họ được gọi là phân biệt giá hoàn hảo. Hình V.14 cho thấy nếu doanh
nghiệp đặt cho mỗi khách hàng một giá bằng giá đặt trước của họ thì việc mở rộng
đến sản lượng Qc sẽ có lợi. Khi chỉ một giá được đặt ra là Pm thì lợi nhuận biến đổi
(chênh lệch giữa doanh thu và chi phí biến đổi) của doanh nghiệp là diện tích nằm
giữa đường doanh thu cận biên và đường chi phí cận biên. Bằng việc phân biệt giá

hoàn hảo, lợi nhuận này sẽ được mở rộng thành diện tích nằm dưới đường cầu và
đường chi phí cận biên.
Gi¸
MC
Pm
Pc
D
MR
Qc

S¶n l­ î ng

Hình V.14 Phân biệt giá hoàn hảo
Phân biệt giá cấp hai. Trong một số thị trường, mỗi người tiêu dùng mua
nhiều đơn vị hàng hoá trong một khoảng thời gian đã cho và cầu của người tiêu
dùng giảm dần theo số đơn vị đã mua. Khi sự tiêu dùng tăng lên thì sự sẵn sàng
thanh toán của họ giảm dần. Trong trường hợp này doanh nghiệp có thể phân biệt


đối xử theo số lượng tiêu dùng. việc này được gọi là phân biệt giá cấp hai. Cơ chế
hoạt động của phân biệt giá cấp hai là đặt các mức giá khác nhau cho các số lượng
hoặc các khối lượng khác nhau của cùng một hàng hoá hoặc dịch vụ. Hình V.15
biểu thị 3 "khối" với ba mức giá tương ứng là P1, P2, P3. Đây cũng là một trường hợp
đạt được tính kinh tế của quy mô. Tổng chi phí bình quân và chi phí cận biên giảm
dần. Phân biệt giá cấp hai có thể làm cho người tiêu dùng có lợi bằng việc mở rộng
sản lượng và hạ thấp chi phí.

P1
Pm
P2

ATC
MC

P3
Qm
Khèi 1

Khèi 2

MR

D

Khèi 3

Hình V.15 Phân biệt giá cấp hai
Phân biệt giá cấp 3. Hình thức phân biệt giá này chia khách hàng ra thành hai
hoặc nhiều nhóm với các đường cầu riêng biệt. Đây là hình thức phân biệt giá phổ
biến nhất (áp dụng trong vé máy bay, đồ săn sẵn, rượu...). Các giá tối ưu và sản
lượng tối ưu là các giá và các mức sản lượng sao cho doanh thu cận biên từ mỗi
nhóm đều bằng chi phí cận biên. Hình V.16 cho thấy nhóm 1 có đường cầu D1 bị đặt
giá P1, nhóm 2 với đường cầu D2 bị đặt giá P2. Chi phí cận biên phụ thuộc vào tổng
sản lượng sản xuất ra (Q T).

Gi¸

P1
P2

MC


D2

D1
Mr T

S¶n l­ î ng


Hình V.16 Phân biệt giá cấp ba
Lưu ý rằng chi phí cận biên phụ thuộc vào tổng sản lượng sản xuất ra, còn Q1
và Q2 phải được chọn sao cho MR1 = MR2 = MC. Phân biệt giá theo thời kỳ và đặt
giá cao điểm.
Phân biên giá theo thời kỳ là một chiến lược định giá quan trọng được sử
dụng rộng rãi và có liên quan chặt chẽ với phân biệt giá cấp ba. Ở đây người tiêu
dùng được chia ra thành các nhóm khác nhau với các hàm cầu khác nhau và đặt các
giá khác nhau ở những thời điểm khác nhau. Ví dụ trong ngành phát hành sách, lúc
đầu người ta đặt giá cao và chiếm được thặng dư từ người tiêu dùng có cầu cao về
hàng hoá và không sẵn sàng chờ mua. Sau đó người ta giảm giá xuống để thu hút số
đông trên thị trường. Điều này được minh hoạ ở hình V.17.
Gi¸
P1
P2

AC = MC
Mr 1
D1
Q1

Q2


S¶n l­ î ng

Hình V.17 Phân biệt giá theo thời kỳ

Đặt giá cao điểm. Cầu về một số hàng hoá dịch vụ tăng nhanh trong những
khoảng thời gian nhất định trong ngày hoặc trong năm. Đặt giá P2 (ở hình V.18) ở
thời kỳ cao điểm là có lợi hơn cho doanh nghiệp so với việc chỉ đặt một giá trong

Gi¸
MC
P2


suốt các thời kỳ. Đây cũng là một việc làm hiệu quả vì chi phí cận biên cao hơn
trong thời kỳ cao điểm.

Hình V.18 Đặt giá cao điểm
Đặt giá hai phần
Đặt giá hai phần có liên quan đến phân biệt giá và cho ta một biện pháp nữa
để chiếm thêm thặng dư tiêu dùng. Bằng đặt giá hai phần, doanh nghiệp đòi người
tiêu dùng phải trả trước một khoản phí để có quyền mua sản phẩm, sau đó người tiêu
dùng phải trả phí bổ sung cho mỗi đơn vị sản phẩm họ cần tiêu dùng. Hình V.19 cho
thấy người tiêu dùng có đường cầu D. Doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận bằng việc
đặt chi phí cận biên và phí gia nhập bằng toàn bộ thặng dư của người tiêu dùng. Ví
dụ kinh điển về trường hợp này là vé vào cửa công viên và phí sử dụng trả cho mỗi trò
giải trí trong công việc.
Ngoài ra còn có nhiều cách khác nữa để chiếm đoạt thặng dư tiêu dùng như
bán kèm, bán trói buộc...
Gi¸


T*
P*

MC
D
S¶n l­ î ng

Hình V.19 Đặt giá hai phần


IV. CẠNH TRANH KHÔNG HOÀN HẢO
1. Cạnh tranh độc quyền
Có nhiều ngành trong đó các doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm khác nhau.
Vì lý do này hoặc lý do khác, người tiêu dùng coi mặt hàng của mỗi doanh nghiệp
khác với của các doanh nghiệp khác. Sự khác nhau của sản phẩm là do người tiêu
dùng nghĩ ra, có thể đúng hoặc không đúng. Do đó, một số người tiêu dùng (chứ
không phải là tất cả) sẽ trả giá cao hơn cho sản phẩm mà mình thích.
Thị trường cạnh tranh độc quyền có hai đặc trưng then chốt:
a) Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán sản phẩm phân biệt
(đã được làm cho khác sản phẩm của các doanh nghiệp khác) các sản phẩm này có
thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Nói
cách khác, độ co dãn của cầu theo giá là cao nhưng không phải là vô cùng.
b) Có sự tự do gia nhập và rút khỏi. Doanh nghiệp mới ra nhập thị trường với
các mặt doanh nghiệp của mình tương đối dễ dàng và các doanh nghiệp ở trong
ngành rời bỏ cũng tương đối dễ nếu các sản phẩm của họ trở nên không có lãi.
Cân bằng trong ngắn hạn và trong dài hạn
Giống như trong độc quyền bán, doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền đứng
trước đường cầu dốc xuống và có thể có sức mạnh độc quyền bán. Tuy vậy điều này
không có nghĩa là các doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền chắc chắn thu được lợi

nhuận lớn. Cạnh tranh độc quyền tương tự như cạnh tranh hoàn hảo ở điểm có sự tự
do gia nhập, vì vậy khả năng thu được lợi nhuận sẽ cuốn hút các doanh nghiệp mới
với các mặt hàng cạnh tranh tham gia vào thị trường, làm cho lợi nhuận giảm xuống
bằng không.

Gi¸

Gi¸
MC
ATC

PSR

MC

PLR

AC
D
MR
QSR

S¶n l­ î ng

DLR
MR
QLR

S¶n l­ î ng



Hình V.20 Hãng cạnh tranh độc quyền trong ngắn hạn và dài hạn
Hình V.20 biểu thị giá và sản lượng cân bằng của doanh nghiệp cạnh tranh
độc quyền trong ngắn hạn và trong dài hạn. Hình V.20a biểu thị cân bằng ngắn hạn.
Vì sản phẩm của doanh nghiệp khác với của các đối thủ cạnh tranh nên đường cầu
của doanh nghiệp dốc xuống dưới. Đây là đường cầu của doanh nghiệp chứ không
phải đường cầu thị trường. Đường cầu thị trường dốc hơn rất nhiều. Sản lượng tối đa
hoá lợi nhuận ngắn hạn QSR được xác định ở điểm cắt của đường chi phí bình quân
nên doanh nghiệp thu được lợi nhuận, biểu thị bằng diện tích hình chữ nhật gạch
chéo.
Trong dài hạn, lợi nhuận này sẽ kích thích các doanh nghiệp mới gia nhập thị
trường. Khi các doanh nghiệp mới đưa ra các mặt hàng cạnh tranh thì doanh nghiệp
đang ở trong ngành sẽ mất đi một phần thị trường và doanh thu sẽ giảm mặc dù
đường cầu của nó vẫn là một đường dốc xuống dưới, như biểu thị ở hình V.20b.
Trong dài hạn các đường chi phí bình quân AC và chi phí cận biên MC cũng có thể
dịch chuyển. Nhưng để cho đơn giản ta giả định các chi phí này không đổi. Đường
cầu dài hạn DLR sẽ tiếp xúc với đường chi phí bình quân của doanh nghiệp. Ở đây
sản lượng tối đa hoá lợi nhuận là QLR, giá là PLR và lợi nhuận bằng không vì P = AC.
Doanh nghiệp vẫn có sức mạnh độc quyền bán; đường cầu dài hạn của nó dốc xuống
vì mặt hàng cụ thể của doanh nghiệp vẫn là độc nhất. Thế nhưng việc gia nhập của
các doanh nghiệp mới đã làm cho lợi nhuận của nó giảm xuống bằng không.
Nói chung, các doanh nghiệp có thể có chi phí khác nhau và một số mặt hàng
sẽ nổi trội hơn. Trong trường hợp này các doanh nghiệp có thể đặt các giá khác nhau
một ít và một số doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận nhỏ.
So sánh thị trường cạnh tranh độc quyền với thị trường thị trường cạnh tranh
hoàn hảo ta thấy trong thị trường cạnh tranh độc quyền giá cân bằng cao hơn chi phí


×