Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Vấn đề phát triển kinh tế bền vững ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.69 KB, 69 trang )

Vấn đề phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam hiện
nay
(LLCT) - Phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc
gia.Tính bền vững về kinh tế được thể hiện trên các khía cạnh: sự gia tăng
quy mô kinh tế, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tiến bộ và bình đẳng về cơ hội tham gia cũng như hưởng thụ thành quả phát
triển của mọi người. Những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu kinh tế nhất định. Tuy nhiên, xét dưới góc độ phát triển kinh tế bền vững
thì cịn bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Do vậy, cần có những giải pháp phát
triển bền vững kinh tế trong những năm tới.

1.Thực trạng phát triển bền vững về kinh tế
Về tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua tương đối cao nhưng thiếu
bền vững, điều này được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng qua từng năm và từng thời
kỳ. Giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng bình quân đạt 7,5%/năm; giai đoạn 2006
-2010 giảm xuống còn 6,9%/năm; năm 2011 đạt 6,24%, năm 2012 đạt 5,25%, năm
2013 đạt 5,5%, năm 2014 tăng trưởng đạt trên 6% và 6 tháng đầu năm 2015 đạt
6,22%. Số liệu này cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướng
giảm. Nhìn chung, các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế có mức tăng, song cũng
chưa thực sự bền vững.
Về năng lực cạnh tranh


Kinh tế tăng trưởng cao trong một thời gian dài nên quy mô của nền kinh tế tăng
lên rõ rệt, điều này đã làm cho vị thế kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh quốc giacòn thấp và chậm
được cải thiện. Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp (Global Competitiveness
Index) của nước ta liên tục giảm. Cụ thể, thứ hạng của Việt Nam như sau: hạng 61
năm 2004-2005; hạng 64 năm 2006-2007; hạng 68 năm 2007-2008; hạng 70 năm
2008-2009 và hạng 75 năm 2009-2010. Không những tụt hạng theo thời gian, tức


là năng lực cạnh tranh tổng thể của Việt Nam chậm được cải thiện so với các quốc
gia khác trên thế giới, mà chúng ta còn chậm tiến bộ so với chính bản thân chúng
ta.
Về cơ cấu các thành phần kinh tế
Cơ cấu các thành phần kinh tế của Việt Nam có sự thay đổi tích cực. Các thành
phần kinh tế đã chuyển dịch theo hướng từ độc tôn khu vực kinh tế nhà nước, đến
nay đã có đầy đủ các thành phần kinh tế hoạt động cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ và
tạo động lực cho nhau để phát triển. Các thành phần kinh tế đã phát huy tiềm năng,
thế mạnh để phát triển. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng chiếm tỷ trọng
lớn trong GDP (riêng khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên 30% GDP năm 2013);
khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong tăng trưởng, chiếm khoảng trên 20% GDP, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua.
Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm tỷ trọng ngày
càng nhỏ dần trong GDP: chiếm 40,28% GDP vào năm 1995, năm 2000 chiếm
38,52% GDP, năm 2005 là 38,40% và năm 2010 là 33,74% và chi phối nhiều
ngành kinh tế then chốt, tập trung vào những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.
Sự phát triển tích cực của các thành phần kinh tế thời gian qua đã góp phần tạo
nhiều cơng ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội. Tuy nhiên, sự yếu kém về trình độ cơng nghệ, quy mơ sản xuất
nhỏ, cơng nghệ lạc hậu, khả năng tích tụ vốn và huy động vốn thấp, trình độ và kỹ
năng quản lý yếu nên năng lực cạnh trạnh của các thành phần kinh tế không cao,
dẫn đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam rất thấp.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường đi liền với chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. Trong những năm qua, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, phát huy lợi thế so sánh ngành và vùng
lãnh thổ. Gắn khai thác, phân phối, sử dụng các nguồn lực và quá trình sản xuất
với thị trường. Xu hướng chung là công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ
tăng nhanh và nền kinh tế từng bước được hiện đại hóa.

Trong điều kiện điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội, kỹ thuật, vốn đầu tư phát
triển ít ỏi và bắt đầu từ cơ sở kinh tế tự túc, tự cấp là chính, đạt được sự chuyển


dịch cơ cấu ngành kinh tế như trên là một thành cơng lớn, giúp Việt Nam nhanh
chóng thốt khỏi tình trạng nước kém phát triển. Tuy vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế còn diễn ra chậm, chưa đáp ứng được u cầu. Tỷ trọng nơng - lâm - thủy sản
cịn chiếm tới 22,02%. Về cơ bản vẫn là cơ cấu kinh tế của một nước nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ kém phát triển, đặc biệt là ngành dịch vụ trong suốt hơn 10
năm qua hầu như không thay đổi. Nếu phân tích sâu hơn về sự chuyển dịch cơ cấu
trong nội bộ từng ngành kinh tế thì có thể thấy rằng, chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỷ trọng những mặt hàng, những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, có khả năng
cạnh tranh cao, có hàm lượng chất xám cao... còn diễn ra rất chậm.
Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực thấp, chậm được cải thiện
và ngày càng có xu hướng giảm sút
Hệ số ICOR của nền kinh tế ngày càng cao: Thời kỳ 1996 - 2000 bình quân là 4,7;
thời kỳ 2001 - 2005 là 5,2; thời kỳ 2006 - 2010 là 6,1; năm 2010 là 6,2; năm 2011
là 6,2 và năm 2012 là 6,7. Đóng góp của yếu tố lao động đã nhỏ nhưng lại có xu
hướng giảm là bất hợp lý đối với một nước có tiềm năng về số lượng lao động và
giá rẻ. Đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1990 - 2000
là 22%, thời kỳ 2001 - 2010 giảm xuống 19%. Điều này phản ánh những bất cập
sau: chưa tận dụng hết lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế; chất lượng lao
động thấp, năng suất lao động xã hội khơng cao.
Đóng góp của các nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế nhỏ
và có xu hướng giảm sút: thời kỳ 1990 - 2000 là 44%, giảm xuống còn 26% thời
kỳ 2001 - 2010. Điều này phản ánh tính chất lạc hậu về cơng nghệ kỹ thuật và hiệu
quả của tăng trưởng ngày càng thấp. Đóng góp của TFP vào tăng trưởng thấp là
do: hàm lượng cơng nghệ trong giá trị sản phẩm thấp; trình độ công nghệ của các
ngành kinh tế thấp; hoạt động chuyển giao công nghệ kém hiệu quả và công tác
nghiên cứu và triển khai (R&D) trong nước còn nhiều hạn chế.

Hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước không cao; cơ cấu kinh tế chậm
chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả
Đáng chú ý là khu vực quốc doanh chiếm một lượng vốn rất lớn, song đầu tư rất
kém hiệu quả, thể hiện ở các chỉ số ICOR, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư, tỷ suất
lợi nhuận trên vốn kinh doanh, vấn đề giải quyết việc làm... điều này không chỉ ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động mà còn làm hạn chế sự năng động của nền kinh tế.
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP hiện còn chiếm trên 22%, tỷ trọng của dịch vụ
chỉ chiếm chưa đầy 39% và hầu như không thay đổi trong 10 năm gần đây; tỷ
trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm từ 42% - 43% GDP. Trình độ cơng
nghệ của các ngành công nghiệp lạc hậu và chậm đổi; chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chưa tối ưu và đồng đều, chưa phát huy lợi thế trong từng ngành, từng vùng, từng
sản phẩm; vẫn còn nhiều ngành tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên.


Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật còn nhiều yếu kém; môi trường và tài nguyên
thiên nhiên đang bị suy thối nhanh chóng dưới áp lực tăng trưởng nhanh
Phát triển đô thị, đặc biệt là phát triển nông thơn cịn thiếu quy hoạch và tự phát,
hoặc có quy hoạch nhưng quản lý kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội còn lạc
hậu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Môi trường thành thị và nhiều
vùng nông thôn ngày càng bị ô nhiễm do chất thải sinh hoạt, chăn ni và nơng
dược... Những điều đó dẫn đến năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp Việt Nam và năng lực cạnh tranh của sản phẩm đều hết sức thấp
kém.
Các vấn đề môi trường như ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học, khai
thác khoáng sản và quản lý chất thải rắn đang ngày càng nghiêm trọng.
Kinh tế vĩ mô thiếu vững chắc và có những dấu hiệu bất ổn; thể chế kinh tế thị
trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp
Nợ công gia tăng, chiếm tỷ lệ lớn trong GDP. Hiện nợ công của Việt Nam chiếm
trên 60% GDP. Thâm hụt ngân sách với tỷ lệ khá cao. Bội chi ngân sách hàng năm
từ khoảng từ 3% - 6% GDP. Nguồn lực vốn cho tăng trưởng vẫn dựa q nhiều

vào nguồn lực bên ngồi, trong đó, vốn vay ODA chiếm tỷ trọng cao, gây nên gánh
nặng nợ quốc gia ngày càng tăng và đe dọa sự ổn định tài chính trong tương lai. Hệ
thống ngân hàng thương mại đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, nợ xấu chưa được xử lý
đang đe dọa đến an ninh tài chính quốc gia.
Thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp, cùng với
kết cấu hạ tầng thấp kém là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển.
Do đó, cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy, nhận thức, mục tiêu phát
triển bền vững và các giải pháp phải ngày càng mạnh mẽ hơn, triệt để hơn, hệ
thống hơn.
2. Giải pháp phát triển bền vững kinh tế
Một là, đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chuyển nền kinh tế phát
triển theo chiều rộng sang chiều sâu
Tăng cường năng lực về khoa học công nghệtrong phát triển kinh tế,nhất là phát
triển mạnh mẽ công tác R&Dtrong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tập trung vào
phát triển các ngành, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi
trường, tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật hiện đại.Nghiên cứu và triển
khai áp dụng mạnh mẽ mơ hình tăng trưởng xanh. Đây là mơ hình mà các quốc
giaphát triểnđã và đang áp dụng.
Hai là, sử dụng tốtcác nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững
Giải phóng nguồn nhân lực, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực và tạo động lực mới
để nguồn nhân lực phát huy tiềm năng, thế mạnh trong phát triển kinh tế.Nhà nước
cần có các quyhoạch sử dụng và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc


gia một cách tốiưunhất,sử dụng hiệu quảnguồn lực vốn. Cải thiện môi trường kinh
doanh và môi trường đầu tư nhằm khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đầu
tư sản xuất kinh doanh.Tạo môi trường, thể chế sản xuất - kinh doanh đồng bộ,
lành mạnh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Đổi mới cơ chế, tổ chức bộ máy và
phương thức hoạt động của Nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo
hướng thơng thống, cơng khai, minh bạchđể thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế.

Kiên quyết xử lý nghiêm tình trạng các địa phương, ngành dựng lênnhững rào cản
(giấy phép con) trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Ba là,tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng
Trong nền kinh tế thị trường, công bằng về cơ hội cho mọi chủ thể trong nền kinh
tế là điều kiện hết sức quan trọng. Cơ chế, mơ hình và cách thức can thiệp của Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại phải theo hướng tôn trọng các quy luật
khách quan của thị trường, tức là phải tạo ra một môi trường để các chủ thể trong
nền kinh tế cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng, phải lấy thị trường làm căn cứ
để phân bổ nguồn lực vốn có hiệu quả, hạn chế tới mức thấp nhất sự can thiệp hành
chính của Nhà nước vào nền kinh tế. Đảm bảo cho mọi chủ thể trong nền kinh tế
thị trường cạnh tranh cơng bằng và bình đẳng, có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp
cận nguồn lực vốn.
Bốn là, đổi mới và hồn thiện hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ môi trường và
đảm bảo công bằng xã hội
Việc đổi mới hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ mơi trường và chính sách xã hội
phải được tiến hành đồng thời và kết hợp theo hướng mỗi chính sách kinh tế phải
gắn với mục tiêu phát triển bền vững, cơng bằng xã hội và mỗi chính sách phát
triển bền vững, chính sách xã hội phải dựa trên những cơ sở tiền đề vật chất của
quá trình tăng trưởng kinh tế và đặc biệt nó phải tạo được động lực cho tăng trưởng
kinh tế, thực hiện được mục tiêu phát triển bền vững. Tránh tình trạng chính sách
tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, xung đột với mục tiêu phát triển bền vững.
Theo đó, hệ thống chính sách kinh tế phải đổi mới theo hướng tạo mọi điều kiện
huy động các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất,
kinh doanh, tăng thu nhập cho người lao động. Đổi mới chính sách xã hội theo
hướng đảm bảo công bằng xã hội, tạo điều kiện tốt hơn để người dân tiếp cận các
dịch vụ thiết yếu, các nguồn lực, khuyến khích làm việc tăng thu nhập. Chính sách
kinh tế và chính sách xã hội phải thực sự là kênh để điều tiết thu nhập giữa các
ngành, giữa các doanh nghiệp, vùng, miền và giữa các bộ phận dân cư. Chính sách
mơi trường phải thực sự làm tăng trưởng kinh tế và thực hiện tốt mục tiêu phát
triển bền vững về môi trường.

Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế
nhanh, bền vữngcần tập trung vào các biện pháp: đổi mới hệ thống giáo dục - đào


tạo,đổi mớinội dung giáo dục - đào tạo theo yêu cầu của thị trường lao động, nâng
cấp trang thiết bị dạy học, học nghề,tiêu chuẩn hóa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng với những tiêu chí chất lượng phù hợp, đào tạo người
lao động có khả năng thích ứng tốt với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Phát triển bền vững là một phương thức phát triển tổng hợp đa ngành, liên
ngành, thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày càng được cụ thể và
rõ nét. Phát triển bền vững, mang tính tất yếu và là mục tiêu cao đẹp của quá trình
phát triển.

Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi tồn cầu. Trong tiến trình phát
triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc mang
tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên
nhiên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được
càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá
vỡ, thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.


Đó là sự tăng trưởng kinh tế khơng cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội. Có
tăng trưởng kinh tế nhưng khơng có tiến bộ và cơng bằng xã hội; tăng trưởng kinh
tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế làm dãn cách hơn sự
phân hóa giàu nghèo, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội. Vì vậy, q trình phát triển
cần có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an ninh xã hội và
bảo vệ môi trường hay phát triển bền vững đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với
toàn thế giới.

Khái niệm phát triển bền vững
Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International Union for
Conservation of Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu của phát triển
bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh
vật” và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp,
nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo
tồn các tài nguyên sinh vật.
Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế giới về
Môi trường và Phát triển (WCED-World Commission on Environment and
Development) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định nghĩa là “Sự
phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng
cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
thiên nhiên và bảo đảm mơi trường sống cho con người trong q trình phát triển.
Phát triển bền vững là một mơ hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và
xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của những lợi ích
tương tự trong tương lai (Gôdian và Hecdue, 1988, GS. Grima Lino).
Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái
đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 và
được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững
tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002: "Phát triển bền vững" là
quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự
phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội
(nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xố đói giảm nghèo và giải quyết việc
làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện


chất lượng mơi trường; phịng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử
dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).

Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội
và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm
quan trọng của bảo vệ mơi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết
những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và
Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de Janeiro đề ra Chương trình
nghị sự tồn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là:
“Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại
đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”.
Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện
phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, cơng bằng, ổn định,
văn hố đa dạng và mơi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững.
Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao
gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã
hội, môi trường.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có được sự
thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục tiêu
thiên niên kỷ.
Tiêu chí của phát triển bền vững
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh và an toàn, chất
lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế
trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận
lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh
tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh
vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một
số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm
những quyền cơ bản của con người.
Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản: Một là,
giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết
kiệm và thay đổi lối sống; Hai là, thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa
dạng sinh học và mơi trường; Ba là, bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên,



mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục; Bốn là, xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; Năm là,
cơng nghệ sạch và sinh thái hóa cơng nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo
năng lượng đã sử dụng).
Nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau: (1) Có tăng
trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫn
phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăng
trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng
trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền
vững về kinh tế. (2) Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá phát triển bền vững về
kinh tế. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nơng nghiệp
thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững. (3) Tăng trưởng kinh tế phải là tăng
trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI,
hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ
văn hóa. Ngồi ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hịa; có sự
bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu
nghèo khơng q cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng
miền không lớn.
Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu
chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình qn đầu người; trình độ
dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.
Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn cần tạo
điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi
người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được.
Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính: Một là, ổn định dân số,
phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị; Hai là, giảm thiểu tác động
xấu của môi trường đến đơ thị hóa; Ba là, nâng cao học vấn, xóa mù chữ; Bốn là,
bảo vệ đa dạng văn hóa; Năm là, bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích

giới; Sáu là, tăng cường sự tham gia của cơng chúng vào các q trình ra quyết
định.
Thứ ba, phát triển bền vững về mơi trường. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển nơng nghiệp, du lịch; q trình đơ thị hóa, xây dựng nơng thơn
mới,... đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường,


điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó,
chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự
trong sạch về khơng khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của
các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định
theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện
chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về mơi trường địi hỏi chúng ta
duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai
thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp
tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.
Phát triển bền vững về môi trường gồm những nội dung cơ bản: Một là, sử dụng có
hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo; Hai là, phát triển không
vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái; Ba là, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ
tầng ơzơn; Bốn là, kiểm sốt và giảm thiểu phát thải khí nhà kính; Năm là, bảo vệ
chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm; Sáu là, giảm thiểu xả thải, khắc phục ơ nhiễm
(nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và khôi phục môi trường những
khu vực ô nhiễm...
Tình hình phát triển bền vững ở Việt Nam
Việt Nam đã ban hành Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 - 2020 nhằm
mục tiêu tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi đơi với tiến bộ, cơng bằng xã hội,
bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Các chỉ tiêu giám sát và đánh giá phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 20112020 gồm: các chỉ tiêu tổng hợp (GDP xanh, chỉ số phát triển con người, chỉ số
bền vững môi trường); Chỉ tiêu về kinh tế (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, năng suất
lao động xã hội, mức giảm tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị GDP, chỉ
số giá tiêu dùng, cán cân vãng lai...); Chỉ tiêu về xã hội (tỷ lệ nghèo, tỷ lệ thất
nghiệp, tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo, tỷ số giới
tính khi sinh, hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập...); Chỉ tiêu về tài
nguyên và môi trường (tỷ lệ che phủ rừng, tỷ lệ đất được bảo vệ, diện tích đất bị
thoái hoá...).


Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 - 2020 được cụ thể hóa bằng những
mục tiêu cơ bản:
Về kinh tế, cần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện tăng
trưởng xanh, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện sản xuất và
tiêu dùng bền vững; bảo đảm an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp, nông
thôn bền vững; phát triển bền vững các vùng và địa phương. Tăng trưởng kinh tế
giai đoạn 2016 - 2020 đạt trung bình 7%/năm, nâng mức thu nhập bình qn đầu
người hằng năm tính theo GDP tăng lên 3.200 - 3.500 USD (so với mức 2.100
USD năm 2015). Lạm phát giữ ở mức dưới 5%.
Về xã hội, tập trung đẩy mạnh công tác giảm nghèo theo hướng bền vững; tạo việc
làm bền vững; Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2%/năm, riêng các huyện
nghèo giảm trên 4%/năm. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; thực hiện tốt các
chính sách an sinh xã hội; năm 2014 đã có 1,4 triệu người tham gia bảo hiểm xã
hội, trên 8,5 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, trên 72% dân số tham gia
bảo hiểm y tế. Đời sống nhân dân được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người
đạt 2.052 USD/người (2014). Tuổi thọ trung bình đạt 73,5 tuổi (2015). Hồn thành
nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ. Ổn định quy mô, cải thiện và nâng cao chất lượng
dân số; phát triển văn hố hài hồ với phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển gia
đình Việt Nam; phát triển bền vững các đơ thị, xây dựng nông thôn mới, phân bố
hợp lý dân cư và lao động theo vùng; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để

nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự phát triển đất
nước, vùng và địa phương;...
Về tài nguyên và mơi trường, chống thối hố, sử dụng hiệu quả và bền vững tài
nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; khai
thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; bảo vệ môi
trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; bảo vệ và phát triển
rừng; giảm ơ nhiễm khơng khí và tiếng ồn ở các đô thị lớn và khu công nghiệp...
Việc triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã
đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi tiếp tục cho phát
triển bền vững giai đoạn tới, thể hiện ở các điểm sau:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 6 năm đạt gần 7% giai đoạn 2006
- 2011; GDP bình quân đầu người đạt 2.100 USD (2015). Cơ cấu kinh tế cũng có
những bước tiến triển tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP


ngày càng tăng, khu vực nông nghiệp trong cơ cấu GDP ngày càng giảm. An ninh
lương thực được bảo đảm. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế đã góp
phần tích cực vào việc phát triển bền vững các lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, kinh tế giai đoạn 2011 - 2015 phục hồi chậm, tăng trưởng chưa đạt mục
tiêu đề ra (5,82%), thấp hơn các giai đoạn trước, chất lượng tăng trưởng thấp.
Đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP-Total Factor Productivity) vào
tăng trưởng còn hạn chế, hệ số sử dụng vốn (ICOR- Incremental Capital - Output
Ratio) cao. Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể
chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.
Về xã hội: sự nghiệp giáo dục có bước phát triển, chi ngân sách nhà nước cho giáo
dục, đào tạo đạt tới 20% tổng chi ngân sách; đến năm 2011, tất cả các tỉnh, thành
phố đã đạt chuẩn giáo dục trung học cơ sở. Giải quyết việc làm đạt kết quả tích
cực: trong 6 năm (2006 - 2011), đã giải quyết được việc làm cho hơn 9 triệu lao
động. Năm 2012 đã tạo việc làm mới cho hơn 1,5 triệu người; năm 2013, phấn đấu
tạo việc làm cho 1,6 triệu người; tuyển mới dạy nghề cho 1,9 triệu người; thực hiện

chiến lược dạy nghề gắn với tạo việc làm.
Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 3,53%, ở khu vực nông thơn là 1,55%.
Cơng tác xóa đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,6% và
đến cuối năm 2013 ước còn 7,6%. Năm 2012, Việt Nam xếp thứ 127 trên tổng số
187 nước và vùng lãnh thổ về HDI và được xếp vào nhóm có tốc độ tăng chỉ số
HDI cao. Việt Nam hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên
hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.
Vấn đề môi trường trong giai đoạn 2011 - 2015 đã được chú trọng hơn. Việc bảo
vệ tài nguyên, môi trường đã đi vào nền nếp. Bằng những chính sách hợp lý, các
giải pháp quyết liệt, vấn đề bảo vệ mơi trường sống, chống ơ nhiễm các nguồn
nước, khơng khí đã được tất cả các địa phương, các ngành và các tầng lớp nhân
dân đồng thuận và cùng tham gia. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng được quan tâm
hơn nên tình trạng cháy và chặt phá rừng đã giảm đi.
Định hướng mục tiêu phát triển kinh tế bền vững giai đoạn 2016 - 2020 của
Việt Nam
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến
năm 2020: GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD. Tỷ trọng công


nghiệp và dịch vụ trong GDP trên 85%. Tổng vốn đầu tư tồn xã hội bình qn 5
năm bằng khoảng 32 - 34% GDP. Bội chi ngân sách nhà nước không quá 4% GDP.
Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 25 - 30%.
Năng suất lao động xã hội bình quân tăng 4 - 5%/năm. Tiêu hao năng lượng tính
trên GDP bình qn giảm 1 - 1,5%/năm. Tỷ lệ đơ thị hố đến năm 2020 đạt 38 40%.
Về xã hội: Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 35 - 40%
(2020). Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp,
chứng chỉ đạt 25 - 26%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Mục tiêu
có 10 bác sĩ và trên 26 giường bệnh trên 1 vạn dân. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt
trên 80% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,3 - 1,5%/năm. Phấn đấu
đến năm 2020 sẽ khơng cịn hộ gia đình nghèo với mức thu nhập dưới 2

USD/ngày.
Về mơi trường: Phấn đấu đến năm 2020 đạt 95% dân cư thành thị, 90% dân cư
nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 80 - 85% chất thải nguy hại, 95
- 100% chất thải y tế được xử lý. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 44 - 45%.
.1.Phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu ở Việt Nam
3.2.1. Những khó khăn thách thức
Trong giai đoạn hiện nay, để PTBV, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức
đang tồn tại hoặc mới phát sinh, bao gồm:
i) Tác động của khủng hoảng tài chính, biến động giá lương thực và năng
lượng:Trong các năm 2007-2010, thế giới phải đối mặt với ba khó khăn nghiêm
trọng: khủng hoảng tài chính, biến động tăng giá nhiên liệu và giá lương thực trên
quy mô toàn cầu. Do vậy, việc thực hiện PTBV của Việt Nam trở nên phức tạp hơn
bởi tác động tiêu cực của các khó khăn này, trong đó nghiêm trọng nhất là khủng
hoảng kinh tế toàn cầu.
ii)
Biến đổi khí hậu:Việt Nam được cho là một trong số rất ít quốc gia trên
thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Trong thời gian qua,
BĐKH đã hiện hữu ngày càng rõ rệt, nhất là sự gia tăng thiên tai và đã gây nhiều
thiệt hại về người và của cho nhiều khu vực, đặc biệt là ở ven biển miền Trung.
Tổng số hàng năm toàn quốc mất mát do thiên tai khoảng 1,5% GDP và hơn 450
tính mạng.
iii) Tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt: Trong thời gian qua, do
những nguyên nhân khác nhau, tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên nước, tài
nguyên sinh vật bị suy thoái nghiêm trọng. Trong một số địa phương, tài nguyên
đất, tài nguyên khoáng sản đã bị khai thác đến mức cạn kiệt hoặc rất lãng phí.


iv)
Ơ nhiễm mơi trường: Mơi trường bị suy thối kéo dài do hậu quả của
chiến tranh để lại (bom mìn và chất độc da cam/dioxin) và quá trình phát triển KTXH hiện nay là một thách thức rất nghiêm trọng khác đối với Việt Nam trong tiến

trình PTBV.
v) Trình độ phát triển, hiệu quả sản xuất và tiêu dùng thấp: Trình độ phát
triển của Việt Nam nói chung cịn thấp, bịtụt hậu so với nhiều nước sau nhiều năm
chiến tranh ác liệt kéo dài. Trình độ phát triển KH-CN (nhất là R&D và chuyển
giao cơng nghệ) cịn thấp. Hệ thống pháp luật đang trong thời kỳ chuyển đổi còn
chưa đồng bộ, chưa thật phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hướng tới tăng trưởng
xanh. Chi phí mơi trường khơng thể hiện đầy đủ trong chi phí sản xuất. Hệ thống
tổ chức, bộ máy quản lý còn chia cắt chưa phù hợp với sự phát triển trong liên kết
của đất nước, trong hội nhập, cần có những chỉnh sửa rất mạnh mẽ.
Các mơ hình sản xuất và tiêu dùng cịn chưa tn thủ chính sách “thân thiện
với mơi trường”. Trong tiêu dùng, lối sống hưởng thụ, tiêu xài lãng phí vẫn cịn
phổ biến ở một bộ phận dân cư, nhất là ở thành thị (Bộ TN&MT, 2010; Chính phủ
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2011, 2012a, b).
3.2.2. Tăng trưởng xanh – con đường phát triển bền vững của Việt Nam
3.2.2.1. Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam
Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 vừa được ban
hành (Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2012a). Mục
tiêu của Chiến lược là tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi đôi với tiến bộ, công
bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Theo đó, các chỉ tiêu giám sát và đánh giá PTBV Việt Nam giai đoạn 20112020 lần đầu tiênđược chính thức đưa ra, gồm: các chỉ tiêu tổng hợp (GDP xanh,
chỉ số phát triển con người, chỉ số bền vững môi trường); các chỉ tiêu về kinh tế
(hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, năng suất lao động xã hội, mức giảm tiêu hao năng
lượng để sản xuất ra một đơn vị GDP, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân vãng lai...); các
chỉ tiêu về xã hội (tỷ lệ nghèo, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lao động đang làm việc trong
nền kinh tế đã qua đào tạo, tỷ số giới tính khi sinh, hệ số bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập...); các chỉ tiêu về tài nguyên và môi trường (tỷ lệ che phủ rừng, tỷ lệ
đất được bảo vệ, diện tích đất bị thối hố...).
Dựa trên những chỉ tiêu nói trên, Chiến lược đã vạch ra các định hướng ưu tiên
nhằm PTBVtrong giai đoạn 2011-2020, cụ thể:

Về kinh tế, cần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện tăng
trưởng xanh, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện sản xuất và
tiêu dùng bền vững; đảm bảo an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp, nông
thôn bền vững; PTBV các vùng và địa phương.
Về xã hội, tập trung đẩy mạnh công tác giảm nghèo theo hướng bền vững; tạo việc
làm bền vững; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; thực hiện tốt các chính sách


an sinh xã hội; ổn định quy mô, cải thiện và nâng cao chất lượng dân số; phát triển
văn hoá hài hoà với phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển gia đình Việt
Nam; PTBV các đơ thị, xây dựng nông thôn mới, phân bố hợp lý dân cư và lao
động theo vùng; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để nâng cao dân trí và
trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước, vùng và địa
phương;...
Về tài nguyên và môi trường, chống thoái hoá, sử dụng hiệu quả và bền vững tài
nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; khai
thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; bảo vệ môi
trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; bảo vệ và phát triển
rừng; giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn ở các đô thị lớn và khu công nghiệp...
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, Chiến lược cũng đề ra 8 nhóm giải pháp chính
gồm: tiếp tục hồn thiện hệ thống thể chế PTBV; nâng cao chất lượng quản trị
quốc gia đối với PTBV đất nước; tăng cường các nguồn lực tài chính để thực
hiện PTBV; tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về PTBV; tăng cường
năng lực quản lý và thực hiện PTBV; nâng cao vai trò, trách nhiệm và tăng cường
sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ và cộng đồng dân cư trong thực
hiện PTBV; phát triển nguồn nhân lực cho thực hiện PTBV; tăng cường vai trò và
tác động của khoa học và công nghệ, đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong thực
hiện PTBV; mở rộng hợp tác quốc tế(Chính phủ nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam, 2012a).

3.2.2.2. Chiến lược Tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh là một nội dung của Chiến lược PTBV Việt Nam giai đoạn 2011
- 2020 nhằm đảm bảo phát triển kinh tế theo hướng nhanh, hiệu quả và bền vững,
đồng thời góp phần giảm nhẹ và phòng chống tác động của BĐKH trong giai đoạn
hiện nay.
Việt Nam vừa ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, thời kỳ 20112020 và tầm nhìn đến năm 2050, nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để
tiến tới việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính
thơng qua nghiên cứu và áp dụng cơng nghệ hiện đại, phát triển hệ thống cơ sở hạ
tầng để nâng cao hiệu quả nền kinh tế, ứng phó với BĐKH, góp phần xóa đói giảm
nghèo, và tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế một cách bền vững.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược Tăng trưởng xanh là “Thay đổi mơ hình tăng
trưởng kinh tế theo hướng tận dụng lợi thế so sánh một cách chủ động và sáng tạo,
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Mục tiêu cụ thể là:
- Tái cấu trúc nền kinh tế và hoàn thiện thể chế theo hướng khuyến khích các
ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao, hạn


chế tiến tới xóa bỏ những ngành sử dụng lãng phí tài ngun thiên nhiên, gây ơ
nhiễm mơi trường;
- Nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi công nghệ hiện đại nhằm sử dụng hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả
với BĐKH;
- Nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc tạo thêm việc làm từ các ngành
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh và cải thiện chất lượng cuộc sống thông
qua việc xây dựng hạ tầng xanh, lối sống thân thiện với mơi trường.
Trên cơ sở đó, sẽ nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh nền kinh tế trong điều
kiện mới, thực hiện việc rút ngắn khoảng cách phát triển, với chất lượng tăng
trưởng cao.
Để đạt được mục tiêu như trên, các hoạt động tăng trưởng xanh trong thời gian sắp

tới sẽ tập trung vào 3 nhóm nhiệm vụ sau:
i) Giảm cường độ phát thải nhà kính (tính trên đơn vị GDP) và tăng tỷ trọng
sử dụng năng lượng tái tạo;
ii) Xanh hóa sản xuất: Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển sâu,
giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tăng cường các ngành công nghiệp sinh thái
và dịch vụ mơi trường, đổi mới cơng nghệ;
iii) Xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững: Xây dựng lối sống hịa hợp với mơi
trường vốn đã là truyền thống lâu đời của các dân tộc Việt Nam. Kết hợp nếp sống
đẹp truyền thống với những phương tiện mới mà nền văn minh hiện đại mang lại
sẽ tạo nên đời sống tiện nghi, chất lượng cao mang đậm bản sắc dân tộc cho xã hội
Việt Nam hiện đại (Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2012b,
c).
Theo thiển ý của chúng tôi, trong Chiến lược Tăng trưởng xanh, ngoài những nội
dung/nhiệm vụ kể trên, cần chú ý một cách thoả đáng tới cách “tiếp cận xanh”,
cách tiếp cận dựa trên HST (ecosystem based approach) để đảm bảo và tăng cường
khả năng chống chịu-thích ứng (adaptive resilience) cho tất cả các hệ thống, bao
gồm cả các HST tự nhiên - chống chịu-thích ứng sinh thái (ecological adaptive
resilience), và các hệ sinh thái-xã hội - chống chịu-thích ứng sinh thái-xã hội
(socio-ecological adaptive resilience) theo nguyên tắc hài hoà với tự nhiên. Vì
PTBV thực chất là bền vững về mặt sinh thái; Tác động của BĐKH, về thực chất,
là tác động lên các thành phần của HST và lên toàn HST nói chung; và Ứng phó
với BĐKH về nguyên tắc cũng là các giải pháp phục hồi, duy trì tính cân bằng của
HST, làm tăng cường sức khoẻ và tính chống chịu-thích ứng của HST (Trương
Quang Học, 2010)
Để làm được việc này, điều quan trọng nhất là có được phương pháp luận đúng,
xây dựng được cơ sở khoa hoc (scientific basis) và xác định được giải pháp tổng
hợp bao gồm cả giải pháp công nghệ (engineeing solutions) phù hợp cho từng đối
tượng cụ thể trong từng điều kiện cụ thể, và sự tham gia tích cực của cộng đồng.



3.2.2.3. Hoàn thiện khung thể chế cho phát triển bền vững
Trong giai đoạn tới, để thúc đẩy việc thực hiện PTBV ở Việt Nam, hệ thống
thể chế, chính sách về PTBV sẽ được hoàn thiện theo hướng thực hiện lồng ghép
các mục tiêu PTBV vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia,
ngành và địa phương; đẩy mạnh công tác giáo dục PTBV, tuyên truyền, nâng cao
nhận thức về PTBV, đào tạo và tăng cường năng lực quản lý về PTBV cho đội ngũ
cán bộ quản lý các cấp, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội, nghề nghiệp và
cộng đồng dân cư; xây dựng và triển khai hệ thống giám sát, đánh giá việc thực
hiện theo những nguyên tắc chỉ đạo sau: i) Khung thể chế phải hài hoà giữa ba lĩnh
vực của PTBV trên nền của văn hoá Việt Nam, được gắn kết bởi thể chế quốc gia,
phù hợp với thông lệ quốc tế và cần được triển khai theo vùng lãnh thổ; ii) Phải có
tầm chiến lược, dài hạn và iii) Hướng tới hệ thống tổ chức quản lý hiện đại (Chính
phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2012b).

KẾT LUẬN
Trong hai mươi năm qua, đặc biệt là 10 năm gần đây, Việt Nam đã tận dụng
thời cơ thuận lợi, vượt qua nhiều thách thức khó khăn thực hiện PTBV đất nước và
đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng về kinh tế, xã hội và môi
trường.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, trong thực thi PTBV cũng còn nhiều yếu
kém, bất cập. Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Chất
lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Tăng trưởng
kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang
phát triển theo chiều sâu. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực cịn hạn
chế; lãng phí, thất thốt cịn nhiều; hiệu quả đầu tư thấp. Tiêu hao nguyên liệu,
năng lượng còn rất lớn. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên chưa thật hợp lý và
tiết kiệm. Các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, bội chi ngân sách, thâm
hụt cán cân thương mại còn lớn, lạm phát cịn cao. Mơi trường sinh thái nhiều nơi
bị ơ nhiễm nặng.
Các lĩnh vực văn hố, xã hội cịn nhiều bất cập, một số mặt vẫn còn bức xúc;

tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; ùn tắc và tai nạn giao thơng cịn nghiêm
trọng; tham nhũng chưa bị đẩy lùi; chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo
đại học và dạy nghề còn yếu kém và chậm được cải thiện; các bệnh viện bị quá tải,
chất lượng dịch vụ y tế còn thấp.
Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan,
nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu.


Trong giai đoạn hiện nay, PTBV ở Việt Nam đang đứng trước nhiều khó
khăn thách thức lớn có tính chất tồn cầu: khủng hoảng tài chính, năng lượng, vấn
đề an ninh lượng thực, BĐKH cũng như những thách thức chủ quan khác của đất
nước. Việt Nam với quyết tâm cao, tiếp tục giữ vững các cam kết quốc tế với quan
điểm phát triển nhanh và bền vững, thực hiệnChiến lược Tăng trưởng xanh nhằm
thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển kinh tế theo chiều sâu để tiến
tới việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính thơng
qua nghiên cứu và áp dụng công nghệ hiện đại, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng để
nâng cao hiệu quả nền kinh tế, ứng phó với BĐKH, góp phần xóa đói giảm
nghèo…, và tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế một cách bền vững, để đưa đất
nước tiến lên xứng tầm với tiềm năng vị thế của nó ở khu vực Đông Nam Á và Thế
giới.
I. Thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam những năm vừa qua:
1. Thành tựu:
Qua mười tám năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn
trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường.
a. Về kinh tế:
Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và tương đối ổn
định. Trong những năm của thập kỷ 90 (thế kỷ 20), tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình
quân 7,5%/ năm, GDP năm 2000 đã gấp hơn 2 lần so với năm 1990. Năm 2003 GDP tăng
7,24%, bình quân 3 năm 2001-2003, tốc độ phát triển nền kinh tế tăng trên 7,1%/năm.

Trong ngành nông nghiệp, sản xuất lương thực từ mức 19,9 triệu tấn (quy thóc) năm 1990 đã
tăng lên tới trên 37 triệu tấn năm 2003; lương thực có hạt bình qn đầu người tăng từ 303 kg
năm 1990 lên 462 kg năm 2003, không những bảo đảm an ninh lương thực vững chắc cho đất
nước mà còn đưa Việt Nam vào danh sách những nước xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới. Nhờ
bảo đảm an ninh lương thực, các cây nông nghiệp hàng hố và chăn ni có điều kiện phát triển.
Gạo, cà phê, cao su, hạt điều, chè, lạc, rau quả, thịt lợn, thuỷ hải sản đã trở thành những mặt
hàng nông sản xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.
Công nghiệp đã được cơ cấu lại và dần dần tăng trưởng ổn định. Tốc độ tăng bình quân hàng
năm trong mười năm qua đạt mức 13,6%; trong đó khu vực quốc doanh tăng 11,4%, khu vực
ngoài quốc doanh tăng 11,4% và khu vực có vốn đầu tư nước ngồi tăng 22,5%. Tính theo giá trị
sản xuất, quy mơ sản xuất cơng nghiệp năm 2000 đã gấp 3,6 lần năm 1990. Trong 3 năm 20012003 công nghiệp tiếp tục phát triển khá, giá trị sản xuất tăng 15%, trong đó cơng nghiệp quốc
doanh tăng 12,1%/năm, cơng nghiệp ngồi quốc doanh tăng 19,8%/năm và cơng nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi tăng 15,6%.
Các ngành dịch vụ đã được mở rộng và chất lượng phục vụ đã được nâng lên, đáp ứng nhu cầu
tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống dân cư. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ bình quân 10
năm (1990-2000) tăng 8,2%, bình quân 3 năm (2001-2003) tăng trên 7%. Thị trường trong nước
đã thơng thống hơn với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị hàng hoá bán ra trên
thị trường trong nước năm 2000 đạt gấp 12,3 lần so với năm 1990. Trong 3 năm (2001-2003) thị


trường trong nước càng trở nên sôi động, tổng mức lưu chuyển hàng hố trên thị trường tăng
bình qn hàng năm trên 12%.
Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải phát triển nhanh, đáp ứng khá tốt cho yêu cầu phát triển kinh tếxã hội. Giá trị dịch vụ vận tải, kho tàng, thông tin liên lạc tăng 1,8 lần.
Du lịch đã có bước phát triển khá, nhiều trung tâm du lịch được nâng cấp, trùng tu, cải tạo, các
loại hình du lịch phát triển đa dạng, đặc biệt trong những năm gần đây đã tập trung khai thác
nâng cao giá trị nhân văn và bản sắc văn hoá dân tộc trong các tuyến du lịch, làm cho du lịch
càng thêm phong phú, hấp dẫn khách du lịch trong và ngồi nước.
Dịch vụ bưu chính viễn thơng phát triển nhanh, mạng lưới viễn thơng trong nước đã được hiện
đại hố về cơ bản. Nhiều phương tiện thông tin hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế đã được phát
triển, bước đầu đáp ứng nhu cầu thông tin, giao dịch thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế của

đất nước. Đã hình thành thị trường dịch vụ bảo hiểm với sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế trong và ngồi nước. Dịch vụ tài chính, ngân hàng có những đổi mới quan
trọng. Các dịch vụ khác như tư vấn pháp luật, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y
tế...đã bắt đầu phát triển.
Do sản xuất phát triển và thực hiện các chính sách điều tiết tài chính, tiền tệ có hiệu quả, mơi
trường kinh tế vĩ mô đã ổn định, tạo điều kiện cho thu hút đầu tư và nâng cao mức sống nhân
dân.
b. Về xã hội:
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển xã hội. Đầu tư của Nhà nước cho
các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng, hiện chiếm trên 25% vốn ngân sách nhà nước, trong đó đặc
biệt ưu tiên đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục-đào tạo, dạy nghề, y tế,
chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phịng chống các tệ nạn xã hội, khoa học-công nghệ, bảo vệ môi
trường cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản khác.
Một hệ thống luật pháp đã được ban hành đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp hơn với
yêu cầu đổi mới của đất nước trong tình hình mới như Bộ Luật dân sự; Bộ Luật lao động; Luật
bảo vệ sức khoẻ nhân dân; Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật bảo vệ môi trường;
Luật giáo dục; Luật khoa học và công nghệ; Pháp lệnh ưu đãi người có cơng, Pháp lệnh người
tàn tật, Luật bảo hiểm...
Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển xã hội đã, đang được triển khai thực hiện và
đạt hiệu quả xã hội cao. Bảy chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 1998-2000 về: xóa đói
giảm nghèo; giải quyết việc làm; dân số và kế hoạch hố gia đình; phịng chống HIV/AIDS;
thanh tốn một số bệnh xã hội và bệnh dịch nguy hiểm; nước sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn; xây dựng lực lượng vận động viên tài năng và các trung tâm thể thao trọng điểm; phòng,
chống tội phạm cũng như một số chương trình mục tiêu khác về: phát triển kinh tế-xã hội các xã
đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tiêm chủng mở rộng cho trẻ em; xóa mù chữ
và phổ cập tiểu học; phịng chống các tệ nạn xã hội...đã được triển khai thực hiện và đạt hiệu quả
tốt về mặt xã hội. Các quỹ quốc gia về xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ tạo việc làm, quỹ đền ơn đáp
nghĩa, quỹ tình thương, quỹ hỗ trợ trẻ em nghèo vượt khó...đã được thành lập và hoạt động có
hiệu quả. Giai đoạn 2001-2005 có 6 chương trình mục tiêu quốc gia về: xố đói giảm nghèo và
việc làm; nước sạch và vệ sinh môi trường nông thơn; dân số và kế hoạch hố gia đình; phịng,

chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS; văn hoá; giáo dục và đào tạo đã
được phê duyệt, đang tích cực triển khai thực hiện và đạt được những kết qủa ban đầu về mặt xã
hội đáng khích lệ.


Đời sống nhân dân ở cả thành thị và nông thơn đã được cải thiện rõ rệt. Cơng cuộc xóa đói giảm
nghèo đạt được những thành tựu được dư luận trong nước và thế giới đánh giá cao. Tỷ lệ hộ
nghèo đói trong cả nước tính theo chuẩn nghèo quốc gia giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 10%
năm 2000 (theo chuẩn cũ), bình quân mỗi năm giảm được gần 300 nghìn hộ. Tính theo chuẩn
mới thì đến năm 2003 tỷ lệ hộ nghèo cịn khoảng 11%. Tính theo chuẩn nghèo có thể so sánh
quốc tế của Điều tra mức sống dân cư 1993 và 1998, thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm
1993 xuống 37% năm 1998 và tỷ lệ nghèo lương thực giảm từ 25% xuống cịn 15%. Từ năm
1991 đến năm 2000, số người có việc làm tăng từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu người, bình qn mỗi
năm tăng thêm khoảng 2,9%. Mỗi năm có khoảng 1,2 triệu chỗ làm việc mới được tạo ra.
Đến năm 2000, cả nước đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trên
90% dân cư được tiếp cận với dịch vụ y tế, 60% số hộ gia đình có nước sạch, sóng truyền hình
đã phủ 85%, sóng phát thanh phủ 95% diện tích cả nước.
Các chỉ tiêu xã hội được cải thiện hơn rất nhiều. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam
đã tăng từ 0,611 năm 1992 lên 0,682 năm 1999. Xếp hạng HDI trong số 162 nước, Việt Nam
đứng thứ 120 năm 1992; thứ 101 năm 1999 và thứ 109 trên 175 nước vào năm 2003. So với một
số nước có tổng sản phẩm trong nước-GDP trên đầu người tương đương, thì HDI của Việt Nam
cao hơn đáng kể. Về chỉ số phát triển giới (GDI), năm 2003 Việt Nam được xếp thứ 89 trong
trong tổng số 144 nước. Phụ nữ chiếm 26% tổng số đại biểu Quốc hội, là một trong 15 nước có
tỷ lệ nữ cao nhất trong cơ quan quyền lực của Nhà nước.
c. Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường:
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm khắc phục những hậu quả môi trường do chiến tranh để lại.
Nhiều chính sách quan trọng về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường đã
được xây dựng và thực hiện trong những năm gần đây. Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường đã được hình thành ở cấp Trung ương và địa phương. Công tác quản lý môi trường, giáo
dục ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho mọi tổ chức, cá nhân ngày càng được mở rộng

và nâng cao chất lượng. Công tác giáo dục và truyền thông về môi trường đang được đẩy mạnh.
Nội dung bảo vệ môi trường đã được đưa vào giảng dạy ở tất cả các cấp học trong hệ thống giáo
dục quốc dân.
Việc thực hiện những chính sách trên đã góp phần tăng cường quản lý, khai thác hợp lý và sử
dụng tiết kiệm tài ngun thiên nhiên; phịng ngừa, ngăn chặn ơ nhiễm, suy thối và sự cố mơi
trường; phục hồi và cải thiện một cách rõ rệt chất lượng môi trường sinh thái ở một số vùng.
2. Những tồn tại chủ yếu:
Bên cạnh những thành tựu nói trên, trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, ngành
và địa phương, tính bền vững của sự phát triển vẫn chưa được quan tâm đúng mức và vẫn còn
một số tồn tại chủ yếu sau đây:
a. Về nhận thức:
Quan điểm phát triển bền vững chưa được thể hiện một cách rõ rệt và nhất qn qua hệ thống
chính sách và các cơng cụ điều tiết của Nhà nước. Các chính sách kinh tế-xã hội còn thiên về
tăng trưởng nhanh kinh tế và ổn định xã hội, mà chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính bền
vững khi khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Mặt khác, các chính
sách bảo vệ mơi trường lại chú trọng việc giải quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thối và
cải thiện chất lượng mơi trường, mà chưa định hướng phát triển lâu dài nhằm đáp ứng những nhu
cầu tương lai của xã hội. Quá trình lập quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và quá


trình xây dựng chính sách bảo vệ mơi trường cịn chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý
với nhau. Cơ chế quản lý và giám sát sự phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và có
hiệu lực.
b. Về kinh tế:
Nguồn lực phát triển cịn thấp nên những yêu cầu về phát triển bền vững ít có đủ điều kiện vật
chất để thực hiện. Đầu tư được tập trung chủ yếu cho những cơng trình mang lại lợi ích trực tiếp,
cịn rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Số nợ hiện nay của Việt Nam so với các nước khác chưa thuộc loại cao và chưa tới giới hạn
nguy hiểm, song nó đang tăng lên nhanh chóng và sẽ có nguy cơ đe doạ tính bền vững của sự
phát triển trong tương lai, nhất là khi vốn vay chưa được sử dụng có hiệu quả. Mức độ chế biến,

chế tác nguyên vật liệu trong nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp và mức độ chi phí nguyên,
nhiên, vật liệu cho một đơn vị giá trị sản phẩm còn cao; sản phẩm tiêu dùng trong nước cũng như
xuất khẩu phần lớn là sản phẩm thô; sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là theo chiều rộng...trong khi
đó những nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ có hạn và đã bị khai thác đến mức tới hạn.
Xu hướng giảm giá các sản phẩm thô trên thị trường thế giới gây ra nhiều khó khăn cho tăng
trưởng nơng nghiệp ở Việt Nam. Với cơ cấu sản xuất như hiện nay, để đạt được một giá trị thu
nhập như cũ từ thị trường thế giới, Việt Nam đã phải bán đi một số lượng hàng hoá hiện vật
nhiều hơn trước.
Các mục tiêu phát triển của các ngành có sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn mâu thuẫn nhau và
chưa được kết hợp một cách thoả đáng. Các cấp chính quyền ở cả Trung ương và địa phương
chưa quản lý có hiệu quả việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
c. Về xã hội:
Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng, tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc, tỷ lệ hộ nghèo
còn cao vẫn là những trở ngại lớn đối với sự phát triển bền vững. Chất lượng nguồn nhân lực còn
thấp. Số lượng và chất lượng lao động kỹ thuật (về cơ cấu ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa
đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
Khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong nền kinh
tế thị trường. Mơ hình tiêu dùng của dân cư đang diễn biến theo truyền thống của các quốc gia
phát triển, tiêu tốn nhiều nguyên vật liệu, năng lượng và thải ra nhiều chất thải và chất độc hại.
Mơ hình tiêu dùng này đã, đang và sẽ tiếp tục làm cho môi trường tự nhiên bị quá tải bởi lượng
chất thải và sự khai thác quá mức.
Một số tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, tham nhũng còn
chưa được ngăn chặn có hiệu quả, gây thất thốt và tốn kém các nguồn của cải, tạo ra nguy cơ
mất ổn định xã hội và phá hoại sự cân đối sinh thái.
d. Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường:
Do chú trọng vào phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng GDP, ít chú ý tới hệ thống thiên nhiên,
nên hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên suy thối
mơi trường và làm mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến. Một số cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, bệnh viện…gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Q trình đơ thị hố
tăng lên nhanh chóng kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nước ngầm, ơ nhiễm nguồn nước

mặt, khơng khí và ứ đọng chất thải rắn. Đặc biệt, các khu vực giàu đa dạng sinh học, rừng, môi
trường biển và ven biển chưa được chú ý bảo vệ, đang bị khai thác quá mức.


Tuy các hoạt động bảo vệ mơi trường đã có những bước tiến bộ đáng kể, nhưng mức độ ô nhiễm,
sự suy thối và suy giảm chất lượng mơi trường vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này chứng tỏ năng
lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy làm công tác bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu
cầu của phát triển bền vững.
Công tác bảo vệ môi trường có tính liên ngành, liên vùng, liên quốc gia và toàn cầu, cần phải
được tiến hành từ cấp cơ sở phường xã, quận huyện. Chúng ta còn thiếu phương thức quản lý
tổng hợp môi trường ở cấp vùng, liên vùng và liên ngành, trong khi đó lại có sự chồng chéo chức
năng, nhiệm vụ giữa các cấp, các ngành trong công tác bảo vệ môi trường. Quản lý nhà nước về
môi trường mới được thực hiện ở cấp Trung ương, ngành, tỉnh, chưa hoặc có rất ít ở cấp quận
huyện và chưa có ở cấp phường xã. Một số quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội vùng đã được xây
dựng, song chưa có cơ chế bắt buộc các địa phương và các ngành tham gia khi xây dựng và thực
hiện quy hoạch này.
II. Những mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc chính và hoạt động ưu tiên để phát triển bền vững ở
Việt Nam:
1. Mục tiêu:
Mục tiêu tổng quát trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 của Đại hội đại biểu
toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX là: "Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát
triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm
2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nguồn lực con người, năng lực khoa
học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của đất
nước trên trường quốc tế được nâng cao". Quan điểm phát triển trong Chiến lược trên được
khẳng định : "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường"; "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ
và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hồ giữa mơi trường nhân tạo với mơi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".

Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh
thần và văn hóa, sự bình đẳng của các cơng dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con
người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển
kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế
hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thối hoặc đình
trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn cho các thế hệ mai sau.
Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội là đạt được kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày
càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tình trạng đói
nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã
hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ
trong một xã hội, duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hố dân tộc, khơng ngừng
nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần.
Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên; phịng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm sốt có hiệu quả ô nhiễm môi
trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu
dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng
môi trường.


2. Những nguyên tắc chính:
Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển chúng ta cần thực hiện những nguyên
tắc chính sau đây:
Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu
cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển.
Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới, bảo đảm an
ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững, bảo đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm cho
nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa với phát triển xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết

kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi
trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc "mọi mặt: kinh tế, xã hội và mơi trường đều
cùng có lợi".
Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố khơng thể tách rời
của q trình phát triển. Tích cực và chủ động phịng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối
với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng rộng rãi nguyên tắc "người gây
thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hồn". Xây dựng hệ thống pháp luật đồng
bộ và có hiệu lực về cơng tác bảo vệ mơi trường; chủ động gắn kết và có chế tài bắt buộc lồng
ghép yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chư-ơng trình và dự án phát
triển kinh tế-xã hội, coi yêu cầu về bảo vệ mơi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá
phát triển bền vững.
Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện
tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Tạo lập điều kiện để mọi người
và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận tới những nguồn
lực chung và được phân phối cơng bằng những lợi ích cơng cộng, tạo ra những nền tảng vật chất,
tri thức và văn hoá tốt đẹp cho những thế hệ mai sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không
thể tái tạo lại được, gìn giữ và cải thiện mơi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch và
thân thiện với môi trường; xây dựng lối sống lành mạnh, hài hoà, gần gũi và yêu quý thiên nhiên.
Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện
với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất, trước mắt cần được
đẩy mạnh sử dụng ở những ngành và lĩnh vực sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng
thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác.
Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của tồn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và
địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người
dân. Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa chọn các quyết
định về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường ở địa phương và trên quy mơ cả nước.
Bảo đảm cho nhân dân có khả năng tiếp cận thơng tin và nâng cao vai trị của các tầng lớp nhân
dân, đặc biệt của phụ nữ, thanh niên, đồng bào các dân tộc ít người trong việc đóng góp vào q
trình ra quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn, lâu dài của đất nước.

Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế để phát triển bền vững đất nước. Phát triển các quan hệ song phương và đa phương, thực hiện
các cam kết quốc tế và khu vực; tiếp thu có chọn lọc những tiến bộ khoa học cơng nghệ, tăng
cường hợp tác quốc tế để phát triển bền vững. Chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng,
hiệu quả, năng lực cạnh tranh. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi
trường do quá trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra.


Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo
đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
3. Những lĩnh vực hoạt động cần ưu tiên:
a. Về lĩnh vực kinh tế:
- Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao khơng ngừng tính hiệu quả,
hàm lượng khoa học-cơng nghệ và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện mơi
trường.
- Thay đổi mơ hình và cơng nghệ sản xuất, mơ hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân thiện
với môi trường, dựa trên cơ sở sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái tạo lại được,
giảm tối đa chất thải độc hại và khó phân huỷ, duy trì lối sống của cá nhân và xã hội hài hòa và
gần gũi với thiên nhiên.
- Thực hiện q trình "cơng nghiệp hóa sạch", nghĩa là ngay từ ban đầu phải quy hoạch sự phát
triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm ngun tắc thân thiện với
mơi trường; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền "công nghiệp
xanh".
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Trong khi phát triển sản xuất ngày càng nhiều
hàng hóa theo yêu cầu của thị trường, phải bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo tồn và phát
triển được các nguồn tài ngun: đất, nước, khơng khí, rừng và đa dạng sinh học.
- Phát triển bền vững vùng và xây dựng các cộng đồng địa phương phát triển bền vững.
b. Về lĩnh vực xã hội:
- Tập trung nỗ lực để xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm; tạo lập cơ hội bình đẳng để mọi
người được tham gia các hoạt động xã hội, văn hố, chính trị, phát triển kinh tế và bảo vệ môi

trường.
- Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng dân số đối với các lĩnh
vực tạo việc làm, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, bảo vệ
môi trường sinh thái.
- Định hướng quá trình đơ thị hóa và di dân nhằm phát triển bền vững các đô thị; phân bố hợp lý
dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo đảm sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi
trường bền vững ở các địa phương.
- Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu
của sự nghiệp phát triển đất nước.
- Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân,
cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống.
c. Về lĩnh vực tài ngun-mơi trường:
- Chống thối hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.
- Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài ngun khống sản.
- Bảo vệ mơi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển.
- Bảo vệ và phát triển rừng.
- Giảm ơ nhiễm khơng khí ở các đơ thị và khu cơng nghiệp.
- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại.
- Bảo tồn đa dạng sinh học.


- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu góp phần
phịng, chống thiên tai.

Phần 2
NHỮNG LĨNH VỰC KINH TẾ CẦN ƯU TIÊN
NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
I. Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững:
Trong 10 năm đầu của thế kỷ 21, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 đã nêu quan

điểm là phải phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, GDP năm 2010 phải tăng gấp đơi
năm 2000.
Để có thể duy trì lâu dài một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh, ổn định và bền vững,
chúng ta cần thực hiện một số định hướng chính sau đây:
1. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới kinh tế nhằm hình thành và hồn thiện cơ chế kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bao gồm:
- Tiếp tục hoàn thiện một số chính sách vĩ mơ nhằm tạo ra mơi trường kinh doanh bình đẳng, có
hiệu quả, thúc đẩy cạnh tranh và tạo lòng tin để các doanh nghiệp và nhân dân bỏ vốn đầu tư
phát triển sản xuất. Khuyến khích kinh tế tập thể và tư nhân phát triển lâu dài. Tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp nhà nước. Tích cực thu hút đầu tư
nước ngồi.
- Duy trì sự ổn định của mơi trường kinh tế vĩ mơ bằng cách hồn thiện các chính sách tài chính,
cân đối ngân sách, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát.
- Đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm từng bước hình thành nền hành chính có hiệu lực, trong
sạch, có đầy đủ năng lực đáp ứng nhu cầu của phát triển bền vững. Phát huy dân chủ, giữ vững
kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có năng lực và đạo
đức tốt.
2. Chuyển nền kinh tế từ tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển chủ yếu theo chiều
sâu trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để tăng năng
suất lao động và nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, nâng cao hiệu
quả của nền kinh tế nói chung và hiệu quả của vốn đầu tư nói riêng.
3. Chuyển nền kinh tế từ khai thác và sử dụng tài nguyên dưới dạng thô sang chế biến tinh xảo
hơn, nâng cao giá trị gia tăng từ mỗi một đơn vị tài nguyên được khai thác. Chuyển dần sự tham
gia thị trường quốc tế bằng những sản phẩm thô sang dạng các sản phẩm chế biến tinh và dịch
vụ. Chú trọng nâng cao hàm lượng khoa học, công nghệ của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ.
4. Triệt để tiết kiệm các nguồn lực trong phát triển, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên khan
hiếm và hạn chế tiêu dùng lấn vào phần của các thế hệ mai sau.



×