Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em theo đạo Thiên Chúa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

CÙ THỊ THANH THUÝ

VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG VIỆC GIÁO DỤC
CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM
THEO ĐẠO THIÊN CHÚA
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP MỘT SỐ GIÁO XỨ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Xã hội học

Hà Nội - 2012


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

CÙ THỊ THANH THUÝ


VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG VIỆC GIÁO DỤC
CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM
THEO ĐẠO THIÊN CHÚA
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP MỘT SỐ GIÁO XỨ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xã hội học
Mã số: 60 31 30

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH. Bùi Quang Dũng

Hà Nội - 2012

2


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI ................................... 15

1.1. Quan điểm của Đảng về giá trị đạo đức của tôn giáo .............................. 15
1.2. Các lý thuyết ................................................................................................ 17
1.2.1. Lý thuyết chức năng ...................................................................................17
1.2.2. Lý thuyết Xã hội hóa ..................................................................................19
1.2.3. Lý thuyết Hành động xã hội .......................................................................21
1.3. Các khái niệm .............................................................................................. 23
1.3.1. Tôn giáo......................................................................................................23
1.3.2. Thiên Chúa giáo .........................................................................................24
1.3.3. Giáo lý ........................................................................................................25

1.3.4. Đạo đức ......................................................................................................27
1.3.5. Đạo đức Thiên Chúa giáo ..........................................................................28
1.4. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ..................................................................... 29
CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................... 32

2.1. Quan điểm của Thiên Chúa giáo về giáo dục trẻ em ............................... 32
2.2. Những giá trị đạo đức được đề cao trong giáo dục Kitô giáo ................. 34
2.2.1. Tình yêu thương, bác ái..............................................................................34
2.2.2. Đức hiếu thảo .............................................................................................35
2.2.3. Đức Công bằng...........................................................................................38
2.2.4. Lòng biết ơn ...............................................................................................39
2.3. Mối quan hệ giữa đạo đức đạo Thiên Chúa với các giá trị đạo đức
của người Việt Nam............................................................................................ 40
2.4. Các hình thức giáo dục đạo đức cho trẻ em của đạo Thiên Chúa ............... 42

1


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

2.4.1. Nghi thức tôn giáo ......................................................................................42
2.4.2. Các lớp giáo lý ...........................................................................................45
2.4.3. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao ........................................48
2.4.4. Hoạt động từ thiện, quyên góp ...................................................................49

2.5. Vai trò của Nhà thờ trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ
em theo Thiên Chúa giáo ................................................................................... 50
2.5.1. Vai trò của Linh mục..................................................................................50
2.5.2. Vai trò của Giáo lí viên ..............................................................................52
2.6. Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em
trong những gia đình theo đạo Thiên Chúa .................................................... 55
2.6.1. Trách nhiệm tôn giáo của cha mẹ trong việc giáo dục con cái ..................55
2.6.2. Hoạt động giáo dục đạo đức tôn giáo của cha mẹ đối với con cái ................57
2.7. Tác động của giáo dục của đạo Thiên Chúa đến quá trình hình thành
nhân cách trẻ em theo Thiên Chúa giáo .......................................................... 60
2.7.1. Tác động tích cực .......................................................................................60
2.7.2. Tác động tiêu cực .......................................................................................63
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 74
PHỤ LỤC............................................................................................................... 77

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là thiết chế xã hội ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người. Nó
thể hiện sự bất lực của con người trước các thế lực tự nhiên, xã hội, sự nhận
thức có giới hạn trước thực tại khách quan. Có nhiều quan điểm khác nhau về
vai trò của tôn giáo. Có quan điểm cho rằng tôn giáo có những mặt tích cực
khi nó đề cao tính nhân văn, hướng thiện, khuyên con người thương yêu giúp
đỡ nhau, tránh điều ác, phi nhân cách, phi đạo đức. Đạo đức tôn giáo có
những điều phù hợp với đạo đức xã hội, và nhiều khi trở thành những giá trị
văn hoá tinh thần của nhân loại. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng tôn
giáo chỉ là hạnh phúc hư ảo của nhân dân, là vòng hào quang thần thánh

trong cái biển khổ của nhân dân, là những bông hoa tưởng tượng trên xiềng
xích của con người, là mặt trời ảo tưởng xoay xung quanh con người. Từ đó
người ta cho rằng, tôn giáo thường hạn chế sự phát triển tư duy duy vật, khoa
học, làm cho con người có thái độ nhẫn nhục, khuất phục, không tích cực, chủ
động, sáng tạo trong việc tạo dựng hạnh phúc thật sự nơi trần gian, mà lại hi
vọng hạnh phúc ở cuộc sống sau khi chết. Hơn nữa, trong xã hội có giai cấp,
tôn giáo thường bị giai cấp thống trị lợi dụng để thực hiện ý đồ chính trị, do
vậy, tôn giáo cũng chứa đựng nhiều yếu tố tiêu cực. Mặc dù, có nhiều quan
điểm khác nhau, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu về tôn giáo đều thống
nhất rằng, tôn giáo có vai trò nhất định trong việc giáo dục các giá trị đạo đức
cho con người.
Cũng như các thiết chế xã hội khác, tôn giáo có chức năng điều tiết và
kiểm soát xã hội. Chức năng kiểm soát xã hội của tôn giáo được thể hiện
tương đối rõ nét khi hầu hết các tôn giáo trên thế giới đều giáo dục các tín đồ
sống theo các giá trị của niềm tin, đạo đức, chuẩn mực xã hội. Tôn giáo không
chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai trò chuyển
tải, hòa nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức nơi trần thế. Với

3


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

tư cách một bộ phận của ý thức hệ, tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội,

cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện
trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật
chất cũng như tinh thần. Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị
nhân bản, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân, chế ngự các
hành vi phi đạo đức, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết.
Việt Nam hiện nay có 3 tôn giáo lớn – được hiểu là số lượng các tín đồ
đông đảo – Phật Giáo: 45 triệu tín đồ ; Thiên Chúa giáo: trên 6 triệu tín đồ;
Đạo Tin lành: trên 1 triệu tín đồ. Ngoài ra còn một số tôn giáo khác như: Cao
Đài, Hòa Hảo, Hồi giáo... Hầu hết những tôn giáo này đều có hệ thống giáo lý
tương đối chặt chẽ trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho con người. Tuy
nhiên, vai trò của các tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị này đến đâu là
một vấn đề rất đáng được quan tâm, nghiên cứu.
Trẻ em là tương lai của đất nước, xã hội hóa giáo dục trẻ em là công
việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều người, nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh
vực nhằm đảm bảo cho hoạt động giáo dục được diễn ra hiệu quả và toàn
diện. Ở nước ta, giáo dục trẻ em được giao chủ yếu cho các trường học, từ cấp
mẫu giáo cho đến các trường phổ thông cơ sở. Hoạt động này ở hầu hết các
trường diễn ra sôi nổi và được đánh giá là có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu chỉ phó
mặc cho Nhà trường trong việc giáo dục trẻ em thì dường như chưa đủ và
lãng phí các nguồn lực xã hội, vì còn nhiều thiết chế xã hội khác có thể tham
gia và làm tốt hoạt động này. Mặt khác, theo đánh giá sơ bộ trên cả nước, các
trường học đang rơi vào tình trạng quá tải về số lượng học sinh, đặc biệt là ở
các thành phố lớn: như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tình trạng này
đặt gánh nặng về chất lượng đào tạo cho các trường học khi phải đảm bảo về
khối lượng kiến thức cũng như có đủ thời gian và nhân lực trong việc chăm lo
giáo dục cho học sinh các giá trị về đạo đức, tinh thần. Thực tế Việt Nam cho
thấy, hầu hết các trường học tập chung chủ yếu vào việc giáo dục các tri thức

4



khoa học về tự nhiên và xã hội cho học sinh, mà chưa dành sự quan tâm thích
đáng đến việc giáo dục các giá trị về tinh thần, đạo đức cho các em. Trước
tình hình đó, một vấn đề đặt ra, là có nên hay không chia sẻ hoạt động giáo
dục trẻ em cho các thiết chế xã hội khác, và cần thiết phải ghi nhận vai trò
giáo dục trẻ em của các thiết chế giáo dục này như thế nào?
Như đã trình bày ở trên, tôn giáo là thiết chế xã hội có thể đảm nhiệm
rất tốt vai trò giáo dục các giá trị đạo đức cho con người nói chung và cho trẻ
em nói riêng. Thiên Chúa giáo là tôn giáo rất coi trọng việc này. Tôn giáo này
cho rằng: ”cả kho tàng thế giới không quý bằng một con người được giáo dục
tốt” 11, tr.26 - 28, do đó giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em là bổn phận
vô cùng quan trọng đối với cha mẹ cũng như các chức sắc tôn giáo.
Đề tài “Vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức
cho trẻ em theo đạo Thiên Chúa” (nghiên cứu trường hợp một số giáo xứ
trên địa bàn Hà Nội) được thực hiện với mong muốn có cái nhìn sâu sắc hơn,
chính xác hơn về vai trò của tôn giáo - mà cụ thể ở đây là Thiên chúa giáo –
trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Năm 1990 khi Viện nghiên cứu tôn giáo chính thức ra đời, nhiều nghiên
cứu về tôn giáo được tiến hành trên nhiều quy mô khác nhau, được đánh giá
cao và có giá trị về mặt khoa học và đã được công bố rộng rãi như: Đề tài
KX.04 Luận cứ khoa học cho việc hoàn chỉnh chính sách tôn giáo của Đảng
và Nhà nước”, do GS Đặng Nghiêm Vạn làm chủ nhiệm đề tài. Những vấn đề
tôn giáo hiện nay” (1993) là kết quả của cuộc hội thảo bàn về những vấn đề tôn
giáo: quan điểm, nhận thức, tình hình, đặc điểm, chính sách tôn giáo... Về tôn
giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” (1998) là kết quả của 3 năm nghiên cứu
của Viện tôn giáo, trong đó làm rõ thêm một số lí thuyết hiện hành và các vấn
đề thực tiễn của đời sống tôn giáo hiện nay. Viện cũng chủ trì cuộc trao đổi về

5



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Một số vấn đề lí luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam” (1997) để làm sáng rõ
một số vấn đề lý luận về tôn giáo đang còn nhiều ý kiến khác nhau trong giới
nghiên cứu. Ngoài những nghiên cứu của Viện tôn giáo, một số công trình
nghiên cứu của cá nhân cũng thể hiện những đóng góp quan trọng.
Luận án “Ảnh hưởng của yếu tố tôn giáo đến mức sinh trong cộng đồng
Thiên Chúa giáo” của Phạm Văn Quyết (Nghiên cứu trường hợp xã Xuân
Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) năm 2001 đã bàn tới sự phụ
thuộc của mức sinh vào yếu tố tôn giáo trong cộng đồng Thiên Chúa giáo.
Hội thảo “Lối sống cộng đồng giáo dân Hà Nội” diễn ra vào tháng 8/1991 tại
Hà Nội đã đề cập cụ thể đến vấn đề đạo Thiên Chúa, lối sống của giáo dân
trên địa bàn Hà nội. Kết quả của hội thảo đã cung cấp bức tranh tổng thể về
các hoạt động, các sinh hoạt tôn giáo của người dân theo đạo Thiên Chúa.
Bài viết ”Vai trò của đạo đức tôn giáo trong đời sống xã hội” (Đặng
Thị Lan, 2007) đã ghi nhận những đóng góp nhất định của tôn giáo trong việc
giáo dục các giá trị đạo đức cho con người. Tác giả bài viết cũng chỉ ra những
ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo đức tôn giáo và đi đến kết luận rằng:
trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo để khẳng
định một cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra những
ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết. Hy vọng
rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực đạo đức tiến bộ

trong tôn giáo sẽ giúp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc và
hữu ích trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Bài viết này đã ghi nhận vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá
trị đạo đức cho con người. Mặt khác, cũng chỉ ra tầm quan trọng của những
nghiên cứu khoa học đối với những giá trị tốt đẹp của đạo đức tôn giáo. Mặc
dù bài viết không mô tả một cách tỉ mỉ các giá trị đạo đức của Thiên chúa
giáo, nhưng cũng cho người đọc thấy được một cách sơ bộ các giá trị đạo đức
tích cực của của tôn giáo này.

6


Trong bài viết “Lối sống của người theo đạo Thiên Chúa Việt Nam: Quá
trình từ theo đạo, giữ đạo đến sống đạo” (Phạm Huy Thông, 2011) cho rằng lối
sống của người theo đạo Thiên Chúa Việt Nam qua gần 500 năm truyền giáo
cũng biến đổi. Tìm hiểu lối sống của người theo đạo Thiên Chúa Việt Nam từ
theo đạo, giữ đạo đến sống đạo, bài viết đã đi đến kết luận: lối sống đạo hiện nay
của người theo đạo Thiên Chúa Việt Nam đã vượt qua kiểu giữ đạo hình thức,
hướng nội mà vượt lên dấn thân phục vụ xã hội và cộng đồng.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu xã hội học thực nghiệm, cũng
không ít bài viết về xã hội học tôn giáo mang tính lí luận và phương pháp
luận. Bài “Một vài suy nghĩ về những quan điểm tôn giáo của Max Weber”
(Bùi Đình Thanh, 1994) và “Suy nghĩ về phương pháp luận nghiên cứu xã hội
học tôn giáo” (Bùi Đình Thanh, 1997), “Emile Durkhiem và tôn giáo
(Nguyễn Đức Truyến, 1994).
Tóm lại, nghiên cứu Xã hội học tôn giáo ở Việt Nam đã và đang nhận
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả về mặt lí luận cũng như thực
tiễn. Tuy nhiên, nếu so sánh với các lĩnh vực nghiên cứu khác của xã hội học
như nông thôn, đô thị, gia đình, giới, kinh tế, lao động, việc làm, di dân…thì
những nghiên cứu về xã hội học tôn giáo còn khiêm tốn. Những vấn đề lí luận

được bàn đến vẫn chủ yếu tâp trung vào việc bình luận, giới thiệu các quan
điểm nghiên cứu tôn giáo của các nhà xã hội học kinh điển, mảng xã hội học
tôn giáo hiện đại vẫn còn vắng bóng. Những công trình nghiên cứu xã hội học
tôn giáo thực nghiệm mới chỉ mang tính chất khám phá bước đầu, vấn đề
phương pháp tiến hành nghiên cứu trong các công trình đó còn rất nhiều điểm
đáng bàn.
Trong các công trình nghiên cứu xã hội học tôn giáo ở Việt Nam cho
tới nay, các công trình nghiên cứu về Thiên Chúa giáo không nhiều, và mới
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về tôn giáo này theo cách nhìn lịch sử, chẳng
hạn các tác giả bàn luận về vấn đề: Thiên Chúa giáo được truyền bá vào Việt

7


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Nam như thế nào; lịch sử tồn tại và phát triển của tôn giáo này ra sao, cộng đồng
người theo Thiên Chúa ở đâu, số lượng bao nhiêu? Chưa có nhiều những nghiên
cứu để đo những tác động của Thiên Chúa giáo đến đời sống xã hội.
3. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. ý nghĩa khoa học của đề tài
Xã hội học tôn giáo là một trong những lĩnh vực nghiên cứu được quan
tâm ngay từ khi xã hội học mới xuất hiện. Rất nhiều nhà xã hội học kinh điển
như: August Comte, Emile Durkhiem, Max Weber...đã giành mối quan tâm

tới vấn đề tôn giáo trong bối cảnh biến đổi xã hội Châu Âu thời kì đầu của
chủ nghĩa tư bản. Ở Việt Nam, xã hội học là một ngành khoa học còn khá
mới, do vậy không có nhiều nghiên cứu dành cho xã hội học tôn giáo. Hơn
nữa, tôn giáo và xã hội Việt Nam có những đặc trưng khác với tôn giáo và xã
hội phương Tây. Do đó, không thể vận dụng một cách máy móc các lí thuyết
xã hội học tôn giáo phương Tây vào nghiên cứu vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.
Nghiên cứu vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức
cho trẻ em theo đạo Thiên Chúa giáo, tức là đang xem xét tôn giáo trong mối
quan hệ với xã hội, chỉ ra những tác động nhất định của đạo đức tôn giáo đến
con người, đến việc phát triển và hoàn thiện nhân cách con người – mà cụ thể
là trẻ em. Nghiên cứu này cũng có đóng góp nhất định về mặt lí luận cũng
như phương pháp nghiên cứu xã hội học tôn giáo ở Việt Nam, trên cơ sở vận
dụng những lí thuyết xã hội học tôn giáo kinh điển kết hợp với các lí thuyết
và phương pháp nghiên cứu xã hội học hiện đại. Nghiên cứu sẽ góp phần vào
việc làm sáng tỏ cách thức vận dụng lí thuyết xã hội học phương Tây trong
nghiên cứu tôn giáo Việt Nam. Đồng thời góp phần nhỏ vào sự phát triển của
môn xã hội học tôn giáo ở Việt Nam.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức
cho trẻ em mang ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc. Đề tài được thực hiện với

8


mong muốn đem lại một bức tranh cụ thể hơn về hoạt động giáo dục tôn giáo
– mà ở đây là Thiên Chúa giáo – đối với trẻ em đang diễn ra trên địa bàn
thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó nghiên cứu chỉ ra vai trò của Thiên Chúa
giáo trong hoạt động giáo dục trẻ em – mà cụ thể là giáo dục các giá trị tinh
thần và đạo đức cho trẻ, những mặt tích cực của giáo dục tôn giáo, và những
yếu tố hạn chế của hoạt động này. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng là nguồn tư

liệu tham khảo cho sinh viên của ngành xã hội học.
4. Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu các giá trị đạo đức của đạo Thiên Chúa.
- Tìm hiểu các hoạt động giáo dục tôn giáo của đạo Thiên Chúa đối với
trẻ em.
- Tìm hiểu hoạt động của chức sắc tôn giáo trong việc giáo dục các giá
trị đạo đức cho trẻ em theo đạo Thiên Chúa.
- Tìm hiểu trách nhiệm, bổn phận và hoạt động của cha mẹ trong việc
giáo dục trẻ em theo đạo Thiên Chúa.
- Tìm hiểu tác động của giáo dục đạo đức Thiên Chúa giáo đối với quá
trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ em.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em theo đạo
Thiên Chúa ở một số giáo xứ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.3. Khách thể nghiên cứu
- Chức sắc tôn giáo: linh mục, giáo lí viên.
- Cha mẹ trong những gia đình theo đạo Thiên Chúa giáo.
- Trẻ em theo đạo Thiên Chúa giáo.
4.4. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu:
+ Giáo xứ Hàm Long

9


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu

lieu mien
mien phi
phi

+ Giáo xứ Phùng Khoang
+ Giáo xứ Cửa Bắc
Thời gian nghiên cứu: 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư duy và lý luận khi giải thích, phân
tích và biện giải các vấn đề trong nghiên cứu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho phép lí giải các sự kiện, hiện tượng
trong tự nhiên – xã hội trong trạng thái vận động và biến đổi không ngừng.
Vận dụng phương pháp luận này đòi hỏi người nghiên cứu có cái nhìn linh
hoạt về mọi vấn đề, khía cạnh được đặt ra trong khi phân tích, nghiên cứu,
luôn đặt chúng trong sự vận động và biến đổi không ngừng, không có sự vật,
hiện tượng nào là đứng im, bất biến. Cùng với sự vận động và biến đổi của xã
hội, tôn giáo nói chung và Thiên chúa giáo nói riêng cũng biến đổi không
ngừng. Sự biến đổi này do nhiều yếu tố, khách quan – biến đổi xã hội; chủ
quan – sự thay đổi về đường hướng, mục đích tôn giáo, và vai trò của tôn giáo
trong đời sống xã hội cũng thay đổi không ngừng. Vai trò tôn giáo ngày nay
chưa chắc đã giống với vai trò tôn giáo trong giai đoạn trước. Mục tiêu giáo
dục tôn giáo ngày nay cũng khác với mục tiêu tôn giáo ngày trước, đòi hỏi về
giáo dục con người ngày nay cũng khác với việc giáo dục con người trong
thời gian trước đây. Cách tư duy này cho phép người nghiên cứu thấy được
đối tượng nghiên cứu của đề tài này cần phải được xem xét một cách cẩn
thận, cần phải có sự so sánh, phân tích, thống kê để đo lường một cách chính
xác về vai trò giáo dục của tôn giáo – mà ở đây là Thiên chúa giáo - đối với
trẻ em trong giai đoạn hiện nay.

Bên cạnh chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng
được xem là nền tảng tư duy cho nghiên cứu. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho

10


rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tồn tại xã hội nào thì ý thức xã
hội đó. Tôn giáo là phạm trù thuộc ý thức xã hội, nó bị quyết định bởi tồn tại
xã hội hiện có. Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu, đòi hỏi
người nghiên cứu phải biết đặt đối tượng nghiên cứu của mình trong bối cảnh
xã hội nhất định. Quá trình phân tích các sự kiện hiện tượng phải luôn gắn với
hoàn cảnh xã hội cụ thể, từ đó thấy được những nguyên nhân, nguồn gốc xã
hội của vấn đề đang nghiên cứu, phân tích. Giáo dục là hiện tượng xã hội gắn
bó chặt chẽ với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử, điều kiện xã hội nào đòi hỏi nền
giáo dục tương ứng như vậy. Đề tài này tập trung chủ yếu vào việc nghiên
cứu vai trò của tôn giáo trong việc giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em, do
đó, nhà nghiên cứu phải gắn chặt chẽ hai hiện tượng, tôn giáo và giáo dục
trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện tại, giá trị đạo đức trong xã hội ngày này
phải phù hợp với đòi hỏi của thực tại xã hội.
Tóm lại, vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử, duy vật biện chứng trong
nghiên cứu này tức là phải xem xét hoạt động giáo dục tôn giáo trên quan
điểm lịch sử, toàn diện, cụ thể và phát triển.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Nghiên cứu này sử dụng các nguồn tài liệu khác nhau, các sách về tôn
giáo, xã hội học tôn giáo. Các bài viết, bài báo đăng trên các tạp chí, trên
Internet nói về vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội. Một số các tài liệu
của đạo Thiên Chúa được sử dụng làm cơ sở phân tích cho nghiên cứu như:
bản ”Tuyên ngôn giáo dục Kitô giáo” là tài liệu quan trọng chỉ rõ nhiệm vụ,
chức năng của hoạt động giáo dục Kitô giáo, các đối tượng tham gia và vai trò

của họ khi tham gia và hoạt động này; Kinh thánh Tân ước, Cựu ước, sách
Huấn ca được sử dụng đề trích dẫn những câu nói, lời giáo huấn của tôn giáo
này về luân lí, đạo đức. Giáo án, bải giảng, tài liệu dùng cho việc giảng dạy
trong các lớp Giáo lí hôn nhân cũng đề cập đến vai trò và trách nhiệm của cha

11


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

mẹ trong giáo dục con cái, cách thức, con đường để đạt hiệu quả cao trong
giáo dục cũng được đưa vào để nghiên cứu phân tích. Tuy nhiên, ngoài trừ
Kinh thánh, những nguồn tài liệu này thường chỉ là những tài liệu lưu hành
nội bộ trong cộng đồng đạo Thiên Chúa, chứ chưa được in thành sách hay
xuất bản.
Mặt khác đề tài cũng sử dụng những thành quả nghiên cứu từ những đề
tài nghiên cứu của một số tác giả đi trước nghiên cứu về Phật giáo, Thiên
Chúa giáo. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nguồn tài liệu sử dụng cho
phân tích đề tài này còn rất hạn chế
5.2.2. Phương pháp quan sát
- Mục đích quan sát
Phương pháp quan sát sử dụng trong luận văn nhằm thu thập những
thông tin có liên quan đến thái độ, hành vi, các dạng hoạt động trong giáo dục
tôn giáo. Các quan sát được diễn ra như sau:

- Thời gian
Giáo xứ Phùng Khoang: chiều các ngày 11,18 tháng 4 năm 2011;
Giáo sứ Hàm Long: chiều ngày 26 tháng 4 năm 2011;
Giáo xứ Cửa Bắc: chiều ngày 2 tháng 5 năm 2011.
- Nội dung quan sát
+ Hoạt động trước giờ học: cách thức trẻ em chơi đùa trong sân Nhà
thờ, các nghi thức trước giờ học.
+ Trong giờ học: cách thức bố trí lớp học, cách thức giảng dạy của giáo
viên, ý thức học tập của học sinh.
+ Sau giờ học: các nghi thức sau giờ học.
Trong quá trình quan sát, các sự kiện, hiện tượng quan sát cũng được
ghi chép lại. Khi phỏng vấn khách thể nghiên cứu, những thông tin về thái độ,
hành vi của người được phỏng vấn cũng được ghi chép lại nhằm cân nhắc tính

12


đúng đắn các thông tin thu được, bổ trợ cho những thông tin đã thu được từ
những phương pháp khác.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Đây là phương pháp đặc thù để thu thập thông tin trong nghiên cứu Xã
hội học. Thông qua việc tác động tâm lý – xã hội trực tiếp giữa người hỏi và
người được hỏi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ
nghiên cứu.
Phỏng vấn sâu các đối tượng cụ thể như sau:
- Giáo lý viên: 3 người (1 người ở giáo xứ Phùng Khoang, 1 người ở
giáo xứ Hàm Long, 1 người ở giáo xứ Cửa Bắc).
- Trẻ em: 3 người (1 người ở giáo xứ Phùng Khoang, 1 người ở giáo xứ
Hàm Long, 1 người ở giáo xứ Cửa Bắc).
- Cha mẹ: 3 người (1 người ở giáo xứ Phùng Khoang, 1 người ở giáo

xứ Hàm Long, 1 người ở giáo xứ Cửa Bắc).
- Cha xứ: 3 người (1 người ở giáo xứ Phùng Khoang, 1 người ở giáo xứ
Hàm Long, 1 người ở giáo xứ Cửa Bắc).
Phỏng vấn sâu, nhằm thu thập các thông tin sau:
- Đối với giáo lý viên: mục đích lớp học, tìm hiểu xem nội dung giảng
dạy trên lớp, thời lượng giảng dạy, các nguyên tắc kỉ luật, các giá trị tôn giáo
đạo đức bắt buộc phải rèn luyện cho học sinh. Đánh giá kết quả sơ bộ về chất
lượng quá trình giảng dạy.
- Đối với học sinh: động cơ theo học, nội dung học tập, thời gian học
tập, mục đích học tập.
- Đối với cha mẹ: nhận thức về trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo
dục con cái, cách thức giáo dục, nội dung giáo dục, mục đích giáo dục, đánh
giá sơ bộ của cha mẹ về các giá trị giáo dục tôn giáo đối với con em mình.

13


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

6. Câu hỏi nghiên cứu

- Hoạt động giáo dục các giá trị đạo đức cho trẻ em theo đạo Thiên
Chúa diễn ra như thế nào?
- Vai trò của các họat động giáo dục của đạo Thiên Chúa giáo đối với trẻ

em như thế nào?
- Vai trò của các đối tượng tham gia vào hoạt động giáo dục của đạo
Thiên Chúa giáo? Vai trò của Linh mục? Vai trò của giáo lí viên? Vai trò của
cha mẹ?
- Nội dung giáo dục đạo đức của Thiên Chúa giáo là gì?
- Giáo dục của đạo Thiên Chúa giáo tác động như thế nào đến trẻ em?
- Đạo đức tôn giáo được giáo dục trong Thiên Chúa giáo có phù hợp với
các giá trị chuẩn mực, đạo đức của người Việt Nam hay không?

14


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Quan điểm của Đảng về giá trị đạo đức của tôn giáo
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, đồng thời là một thực thể xã hội,
một sản phẩm của lịch sử do con người tạo ra, giữ vai trò, vị trí khá quan
trọng trong xã hội đương đại và đã được khẳng định trong lịch sử. Ở nước ta,
từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị,
văn hóa, tinh thần của xã hội, gắn liền với dân tộc và phục vụ lợi ích dân tộc
trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Ngày nay, mặc dù xung
quanh vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng còn có một số ý kiến khác nhau, nhưng tín
ngưỡng và tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần không thể thiếu của một bộ phận
đông đảo quần chúng nhân dân. Tôn giáo vẫn sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân
tộc và phục vụ lợi ích của dân tộc trên con đường phát triển.
Nhìn chung cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành và
phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong quá trình làm nên các giá trị của dân
tộc không thể không kể đến đóng góp của tôn giáo, ở vào bất cứ hoàn cảnh
lịch sử nào, dân tộc Việt Nam cũng sẵn sàng đón nhận và đến với tôn giáo
một cách hết sức tự nhiên. Điều đó chứng tỏ rằng, các giá trị đạo đức tôn giáo
phù hợp với các giá trị đạo đức của người Việt Nam.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, các tôn giáo đã cùng toàn dân
tộc tạo dựng những giá trị thiêng liêng của người Việt, đó là nền văn hóa đậm
đà bản sắc dân tộc, truyền thống yêu nước, thương nòi, truyền thống kiên
cường, bất khuất đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cần cù, sáng tạo trong lao
động, sản xuất... Văn hóa tôn giáo chịu chế định bởi văn hóa dân tộc, nên
trong văn hóa tôn giáo có yếu tố dân tộc và ngược lại.
Ở Việt Nam, các tôn giáo đã góp phần tạo ra và làm phong phú nền văn
hóa Việt Nam. Về giá trị đạo đức xã hội, hết thảy các tôn giáo đều giáo dục
con người Việt Nam vươn tới cái thiện. Có thể khẳng định rằng, tôn giáo đã

15


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

góp phần to lớn tạo dựng các chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam. Cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam ta không có
tôn giáo theo nghĩa truyền thống của nhiều nước khác. Còn nói tôn giáo thờ
cúng, thì mọi người đều thờ cúng ông bà, mọi họ đều thờ cúng tổ tiên, làng thì
thờ cúng thành hoàng và các bậc anh hùng cứu nước, các tổ phụ ngành nghề,
các danh nhân văn hóa. Từ góc độ văn hóa, tôi thấy đây là một đặc trưng đáng
trọng của con người Việt Nam, ở chỗ nó tưởng nhớ những người có công trong
việc tạo lập cuộc sống của mọi gia đình và làng xóm” 9, tr.75.
Một số văn kiện chính trị nêu rõ “Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù

hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” 33, tr. 45-46. Hồ Chí Minh rất trân
trọng các giá trị của tôn giáo, Người viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu
điểm của nó là sự tu dưỡng cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là
lòng nhân ái cao cả…” 28, tr. 25-26.
Tín đồ tôn giáo cũng là một bộ phận trong nhân dân. Trong lịch sử, tín
đồ tôn giáo đã tích cực tham gia nhiều cuộc cách mạng vĩ đại góp phần to lớn
làm thay đổi lịch sử và thúc đẩy xã hội loài người phát triển. Lịch sử cho thấy
trong các cuộc cách mạng xã hội, ai giành được sự ủng hộ của đông đảo quần
chúng (thậm chí trong một số trường hợp chỉ là quần chúng tôn giáo), người
đó sẽ giành chiến thắng. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, đồng bào có
đạo luôn sát cánh cùng cả dân tộc ta làm nên những trang sử hào hùng của
dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam dù theo hay không theo tôn giáo nào cũng
không bao giờ quên mình là “con cháu Rồng - Tiên” và sẵn sàng xả thân vì
lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong cách mạng dân chủ nhân dân và kháng chiến
chống đế quốc xâm lược, đồng bào có đạo đã chung lưng, đấu cật, không
quản hy sinh, gian khổ đoàn kết một lòng, cùng cả dân tộc đấu tranh giành
độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Họ tích cực tham gia chiến đấu, hy sinh
trong chiến tranh giải phóng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi vì họ cũng là

16


người Việt Nam và thấu hiểu chân lý “nước mất thì nhà tan” của ông cha.
Đánh giá cao những đóng góp của cộng đồng các tôn giáo trong lịch sử
và vai trò, vị trí của tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ mới, Văn kiện Hội
nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa IX khẳng định: “Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân
tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta” 33, tr.48. Trong
khi đó, đồng bào theo đạo và các nhà tu hành chân chính cũng luôn nhận thức
rằng, tôn giáo chỉ tồn tại và phát triển được khi dân tộc độc lập, quốc gia được

thống nhất, đất nước ổn định và phát triển phồn vinh.
1.2. Các lý thuyết
1.2.1. Lý thuyết chức năng
Lý thuyết chức năng là một trong những trường phái lí thuyết có ảnh
hưởng lớn trong xã hội học. Người có vai trò lớn đối với việc phát triển
trường phái lí thuyết này chính là Emile Durkhiem. Ông sử dụng cách phân
tích chức năng trong nghiên cứu về phân công lao động, tự tử và tín ngưỡng,
tôn giáo.
Trong các công trình nghiên cứu của Durkhiem trọng tâm là các vấn đề
xã hội như sự phân công lao động hay hiện tượng tự tử nhưng cũng có một
phần không nhỏ ông đặt những vấn đề xã hội mà ông quan tâm trong mối
quan hệ mật thiết với tôn giáo. Trong tác phẩm “Sự phân công lao động trong
xã hội” tôn giáo được coi là một yếu tố cố kết các cá nhân trong sự chia rẽ bởi
sự phân công lao động, bằng cách tạo ra nhận thức chung của tất cả những
thành viên trong xã hội về một vài hiện tượng, hành vi tôn giáo, tạo nên sự cố
kết trực tiếp giữa các thành viên trong xã hội. Khi xã hội có những bước tiến
vượt bậc về mọi mặt, sự cố kết bền chặt, mạnh mẽ giữa các cá nhân trở nên
lỏng lẻo, họ được tự do và tự chủ hơn nhưng cũng vẫn phải phụ thuộc vào
nhau thông qua các thiết chế xã hội cơ bản, trong đó có tôn giáo. Vậy tôn giáo

17


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi


dù có tồn tại ở xã hội với những kiểu đoàn kết nào thì vẫn là yếu tố gắn kết
các thành viên.
Tương tự trong cuốn Tự tử, Durkheim cũng bàn đến tôn giáo như là
chất keo kết nối các thành viên trong xã hội. Nghiên cứu về hiện tượng tử tự
trong xã hội đương thời với những số liệu cụ thể đã chỉ ra vai trò của tôn giáo
đối với vấn đề xã hội này. Theo ông, tôn giáo là một trong những yếu tố cơ
bản làm giảm thiểu các vụ tự tử vị kỉ, nhưng cũng khuyến khích hình thức tự
tử vị tha. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt về số lượng người
tự tử trong những tôn giáo khác nhau. Sự phong phú về hệ thống giáo lý, giáo
điều, giáo luật, về thế giới quan, về các nghi lễ, nghi thức tôn giáo… là những
biến độc lập chi phối tỉ lệ tự tử khác biệt này. Qua đây, tôn giáo được đề cập
đến như một yếu tố trực tiếp tác động tới hiện tượng tự tử.
Đặc biệt nhất trong những nghiên cứu về tôn giáo là bộ ba cuốn sách
trong Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo, xuất bản năm 1912.
Khác với việc sử dụng hàng loạt số liệu khi nghiên cứu về tự tử, tác phẩm lớn
cuối cùng của Durkheim tập trung nghiên cứu duy nhất trường hợp của những
bộ lạc thổ dân châu Úc, nơi tôn giáo được coi là chiếm giữ những “hình thức
sơ đẳng” và tồn tại một cách “nguyên thuỷ” nhất. Trong bộ sách này, Emile
Durkheim đã bàn đến hai vấn đề lớn khi nghiên cứu tôn giáo. Một là, sự xuất
hiện của tôn giáo như một sản phẩm của đời sống hiện thực xã hội. Hai là,
nghiên cứu bàn đến những thành phần cơ bản của một tôn giáo nguyên thuỷ.
Qua việc làm rõ hai vấn đề trên, Emile Durkheim cũng chỉ ra được ảnh hưởng
của tôn giáo tới các cá nhân trong xã hội. Ông đưa ra định nghĩa về tôn giáo
theo quan điểm riêng của mình: Tôn giáo là một hệ thống thống nhất của
niềm tin tôn giáo và những nghi thức tôn giáo có liên quan tới những yếu tố
thiêng liêng hay những điều không nên làm và cấm kị. Những niềm tin và nghi
thức tôn giáo được thống nhất lại và tựu chung trong một tổ chức duy nhất là
Nhà thờ. Tất cả những người tham gia vào và gắn bó với tổ chức ấy được coi


18


là những thành viên chính thức của tổ chức. Niềm tin tôn giáo hay những
nghi thức tôn giáo đều là sản phẩm của xã hội bởi vì nó tồn tại như một nguồn
cung cấp sự đoàn kết và dấu hiệu xác nhận các thành viên trong một xã hội.
Đặc biệt với các xã hội tồn tại đoàn kết cơ học, các cá nhân gắn kết khăng
khít với nhau thì tôn giáo càng cần để mỗi cá nhân tự gắn mình vào một tập
thể và một tập thể thừa nhận các cá nhân thành viên. Cụ thể hơn, tôn giáo
cung cấp cơ hội để thể hiện chủ quyền, nhấn mạnh yếu tố đạo đức và chuẩn
mực xã hội, điều khiển, duy trì sự tồn tại của xã hội như một phần không thể
thiếu của hệ thống các thành phần cấu thành xã hội, liên kết, trao đổi thông
tin, thúc đẩy những tương tác xã hội. Những nhu cầu tương tác, trao đổi thông
tin, xác nhận chuẩn mực, nhấn mạnh vai trò đạo đức xã hội… được đáp ứng
một phần thông qua tôn giáo. Nói cách khác, tôn giáo ra đời nhằm phục vụ
chức năng đảm bảo các nhu cầu trên mà các thành phần khác của hệ thống xã
hội không thể đáp ứng. Đó chính là nguồn gốc xã hội của tôn giáo theo quan
điểm của Emile Durkheim.
Quan điểm chức năng luận của ông đã được một số nhà xã hội học tiêu
biểu vận dụng vào nghiên cứu vai trò của tôn giáo trong đời sống cá nhân và
xã hội như Radcliffe Brown, Kingsley Davis, Milton Yinger, Thomas O Dea.
Các nhà chức năng luận đã đề cập tới chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo
đối với cá nhân và chức năng tích hợp đối với xã hội.
1.2.2. Lý thuyết Xã hội hóa
Xã hội hóa là quá trình con người tiếp nhận và lĩnh hội hệ thống các tri
thức, giá trị chuẩn mực, nhằm chuẩn bị cho mình những điều kiền tốt nhất để
trở thành thành viên của xã hội. Là quá trình con người học đóng vai trò” của
mình và là quá trình con người tiếp nhận nền văn hóa.
Xã hội hóa cá nhân diễn ra liên tục, không ngừng nghỉ trong suốt cuộc
đời con người và nó là một quá trình tất yếu. Muốn trở thành con người xã

hội, con người bắt buộc phải tham gia vào quá trình xã hội hóa cá nhân. Các

19


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

cá nhân được xã hội hóa thông qua chính hoàn cảnh, điều kiện, môi trường
mà mình đang sống, đó là việc lựa chọn tự nhiên các giá trị để xã hội hóa.
Không ai có quyền bắt ép người khác phải xã hội hóa theo ý mình. Nhưng
ngược lại, cá nhân muốn trở thành thành viên của nhóm xã hội nào đó thì bắt
buộc cá nhân đó phải thích ứng bản thân theo những giá trị, chuẩn mực của
nhóm xã hội đó. Các cụ ta có câu nói nhập gia tùy tục” để miêu tả về quá
trình này.
Giáo dục trẻ em là quá trình xã hội hóa cá nhân. Gia đình, nhà trường,
xã hội là những thiết chế quan trọng tham gia vào quá trình này. Trẻ em được
người lớn truyền đạt cho những giá trị, chuẩn mực, tri thức tự nhiên xã hội
trong quá trình phát triển hoàn thiện nhân cách của bản thân mình. Trẻ em có
thể học hỏi một cách chính thức (học tập) hay không chính thức (tự quan sát)
những giá trị chuẩn mực này, nhưng đây là quá trình tất yếu và bắt buộc khi
chúng muốn trở thành thành viên của xã hội, hay các nhóm xã hội nào đó.
Đối với trẻ em được sinh ra trong các gia đình theo đạo Thiên Chúa,
môi trường xã hội hóa đầu tiên không chỉ là gia đình, mà còn là Nhà thờ. Đứa
trẻ ngay từ khi con trong bụng mẹ, đã được mẹ đưa đến nhà thờ để xin Cha xứ

làm phép thai” cầu mong cho chúng được bình an, khỏe mạnh. Sau khi được
sinh ra, chúng được cha mẹ đưa đến Nhà thờ để tham gia vào bí tích đầu tiên
và vô cùng quan trọng đó là Bí tích rửa tội. Tham gia bí tích này, đứa trẻ
chính thức được công nhận là một con chiên” va gia nhập vào đạo Thiên
Chúa một cách chính thức. Từ đây, đứa trẻ được xã hội hóa thêm trong một
môi trường nữa so với những đứa trẻ khác, đó là môi trường xã hội hóa của
tôn giáo, của Nhà thờ. Cũng như những con chiên” khác, đứa trẻ phải học và
tuân thủ theo những nguyên tắc mà tôn giáo này quy định. Tất nhiên, ban đầu,
việc tuân thủ này được thực hiện dưới sự giám sát của người thân trong gia
đình và cha mẹ. Chúng phải sống theo những quy tắc đạo đức, tuân thủ các lễ

20


nghi mà tôn giáo này quy định: như đi lễ nhà thờ, chịu các phép bí tích và
tham gia vào các lớp giáo lý khi đủ tuổi... Quá trình này không giống nhau ở
mọi đứa trẻ, vì thực tế mức độ theo đạo” ở các gia đình khác nhau là khác
nhau, cho nên, có những đưa trẻ được tham gia vào quá trình xã hội hóa tôn
giáo ngay từ đầu và khá sâu sắc, nhưng có những đứa trẻ quá trình này diễn ra
muộn hơn và ít ảnh hưởng hơn, thậm chí là không có ảnh hưởng.
Thực hiện đề tài này, tác giả muốn phân tích tác động của các giá trị
đạo đức tôn giáo lên trẻ em, và cũng nhận diện vai trò của cha mẹ, của các tác
nhân tôn giáo trong việc tiếp nhận và lĩnh hội các giá trị đạo đức của đạo
Thiên Chúa giáo đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của đứa trẻ.
1.2.3. Lý thuyết Hành động xã hội
Khái niệm của Max Weber về hành động xã hội được xem là khái niệm
hoàn chỉnh nhất về hành động xã hội: “hành động xã hội là một hành vi mà chủ
thể gắn cho nó ý nghĩa chủ quan nhất định”. Khởi điểm hành động xã hội là từ
nhu cầu của con người. Nhu cầu trở thành động cơ và trung tâm hành động là
chủ thể của hành động. Hoàn cảnh xã hội chi phối đến hành động của chủ thể.

Chủ thể đối chiếu nhu cầu của mình và môi trường xã hội để lựa chọn con
đường, cách thức, phương tiện phù hợp để đạt được mục đích của hành động.
Theo cách chia của Max Weber thì có 4 loại hành động xã hội: hành
động xã hội theo cảm xúc, hành động xã hội mang tính truyền thồng, hành
động xã hội theo mục đích, hành động xã hội theo giá trị. Theo ông, 4 kiểu
hành động này không tách rời nhau một cách minh bạch, chúng thường hòa
lẫn vào nhau, để đạt được mục đích có khi người ta phải hành động theo giá
trị, theo truyền thống, và hành động xúc cảm là loại hành động dựa trên xúc
động của cá nhân mà không cần phải suy nghĩ hay tình toán. Thực tế rất hiếm
khi hành động của con người thuần túy thuộc về một trong 4 loại đã nêu.
Trong quá trình hành động, tương tác với nhau, con người luôn suy nghĩ lựa
chọn phương án hành động, qua tìm hiểu phương thức hành động và cách

21


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

biểu đạt ta có thể nhận ra ý nghĩ của họ. Vận dụng quan điểm này giúp cho
người nghiên cứu lí giải được các dạng hành động diễn ra trong quá trình
quan sát, phỏng vấn đối tượng nghiên cứu, cũng như hiểu hơn về bản chất của
các dạng hành động đang được tiến hành trong quá trình giáo dục nhân cách
cho đứa trẻ.
Đối với những trẻ em theo đạo Thiên Chúa giáo, các hành vi tôn giáo

của chúng đều là những hành động có tính hướng đích, hướng giá trị và tuân
theo truyền thống. Trẻ em đến nhà thờ, thực hành các nghi thức tôn giáo hay
theo học các lớp giáo lí đều là những hành động mà theo Max Weber đó là
những hành động ”được chủ thể gắn cho một ý nghĩa chủ quan nhất định” mà
trong trường hợp này đó là ý nghĩa tôn giáo. Đối với các linh mục, việc tổ
chức các lớp học dành cho trẻ em là những hành động hợp logic, phù hợp với
chuẩn mực tôn giáo, mục đích tôn giáo cũng như nhân bản rõ ràng. Đối với
các bậc phụ huynh, giáo dục giá trị đạo đức cho trẻ là hành động hợp chuẩn
mực, hợp mục đích, và truyền thống gia đình.
Nhìn chung, các nhà lí thuyết hành động xã hội cho rằng trong hành
động xã hội không chỉ có những yếu tố mà chúng ta quan sát được, mà còn có
những yếu tố không quan sát được nhưng lại được ý thức rõ ràng như yếu tố
thúc đẩy định hướng của động cơ. Cấu trúc hành động xã hội có thể được mô
hình hóa như sau:
Hoàn cảnh

Nhu cầu

Động cơ

Chủ thể

Công cụ
phương tiện

Mục đích

5, tr. 137
Với việc sử dụng lí thuyết hành động xã hội, nhà nghiên cứu sẽ trả lời
được những thắc mắc như: tại sao một đứa trẻ lại có thể thực hành một cách

thuần thực và sốt sắng các nghi thức tôn giáo đến vậy? tại sao các bậc cha mẹ

22


lại bỏ nhiều thời gian và công sức đến vậy để hướng dẫn các nghi thức tôn
giáo cho con em mình đến vậy? Và tại sao chúng phải theo học các lớp giáo lí
trong nhà thờ, mất nhiều thời gian và sức lực đến thế?...Với cách tiếp cận này,
nhà nghiên cứu sẽ trả lời được tất cả những câu hỏi mà mình đặt ra.
1.3. Các khái niệm
1.3.1. Tôn giáo
Khái niệm tôn giáo là một vấn đề được giới nghiên cứu về tôn giáo bàn
cãi rất nhiều. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về
tôn giáo:
Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác:
“Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần” 20, tr569.
Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen:
“Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực
lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày…”20, tr.437.
Emile Durkheim, nhà xã hội học người Pháp đã có một định nghĩa xã
hội học nổi tiếng về tôn giáo, nguyên văn như sau: “Tôn giáo là một hệ thống
có tính chất gắn bó của những niềm tin và những thực hành liên quan đến
những điều thiêng liêng, nghĩa là được tách biệt, cấm đoán, những niềm tin và
thực hành gắn bó tất cả những ai gia nhập vào một cộng đồng tinh thần, được
gọi là Giáo hội” 8, tr.60.
Ông thấy rằng tôn giáo nảy sinh dưới tác động của các yếu tố xã hội,
điều kiện xã hội. Chức năng xã hội cơ bản của tôn giáo là tạo ra sự đoàn kết
xã hội giữa các cá nhân, củng cố niềm tin và tăng cường sự gắn bó, quyết tâm
của các cá nhân trong xã hội.

Theo Từ điển Xã hội học do tác giả Thanh Lê biên soạn được nhà xuất
bản khoa học xã hội nhân văn xuất bản năm 2003, tôn giáo là một hệ tư tưởng

23


×