Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con ở các gia đình đô thị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.9 KB, 54 trang )


LỜI NÓI ĐẦU
Công cuộc đổi mới toàn diện và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
ta theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đang đặt ra yêu cầu ngày càng
cao đối với vấn đề nhận thức xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội và đặc biệt
là đối với nhân tố con người.
Cùng với sự phát triển của xã hội, đất nước ta đã đặt con người vào vị
trí trung tâm và là yếu tố hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế, tri
thức. Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục tri thức và hướng nghiệp cho
con cái là yếu tố rất cần thiết đối với lớp trẻ khi bước vào xã hội. Đó cũng là
nội dung được trình bày trong luận văn "Vai trò của cha mẹ trong việc định
hướng bậc học và nghề nghiệp cho con ở các gia đình đô thị hiện nay" qua
khảo sát tại phường Tràng Tiền - thành phố Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo trong khoa Xã hội học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt, thày giáo Phạm Văn
Quyết đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
này.
Mặc dù bản thân đã hết sức cố gắng song đề tài khó tránh khỏi những
hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong được sự chỉ bảo của các thày cô cùng với
những ý kiến đóng góp của các bạn.
Hà Nội, ngày 20 -5 - 2001
Sinh viên : Nguyễn Thị Phương Dung
1

MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu .........................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................4
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài...............................................6
2.1. Ý nghÜa khoa häc.......................................................................6
2.2. ý nghÜa thùc tiÔn........................................................................6
3. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................7


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, mẫu khảo sát......................................7
4.1. Đối tượng nghiên cứu...............................................................7
4.2. Phạm vi nghiên cứu..................................................................7
4.3. Mẫu khảo sát............................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu:......................................................................9
5.1. Phương pháp luận.....................................................................9
5.2. Phương pháp cụ thể................................................................11
6. Giả thuyết - khung lý thuyết................................................................11
6.1. Giả thuyết...............................................................................11
6.2. Khung lý thuyết......................................................................12
Phần II: Nội dung chính...........................................................................14
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.....................................14
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu................................................14
1.2. Hệ thống khái niệm cơ sở.......................................................16
1.2.1. Khái niệm vai trò.......................................................16
1.2.2. Khái niệm gia đình....................................................16
1.2.3. Khái niệm định hướng...............................................17
1.2.4. Khái niệm giá trị.......................................................17
1.2.5. Khái niệm định hướng giá trị....................................17
1.2.6. Khái niệm nghề nghiệp.............................................17
1.2.7. Khái niệm bậc học.....................................................18
Chương 2: Kết quả nghiên cứu, những kết luận và khuyến nghị............19
2.1. Kết quả nghiên cứu................................................................19
2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu...................................19
2.1.2. Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học cho
con ở các gia đình đô thị hiện nay......................................21
2.1.3. Vai trò của cha mẹ trong việc hướng nghiệp cho con
............................................................................................34
2.2. Những kết luận và khuyến nghị.............................................44
2.2.1. Kết luận.....................................................................44

2

2.2.2. Khuyến nghị..............................................................46
Tài liệu tham khảo...................................................................................48
Phụ lục ....................................................................................................49
3

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Mỗi người chúng ta đều trải qua lứa tuổi ngồi trên ghế nhà trường. Tùy
điều kiện, hoàn cảnh của từng người mà trong giai đoạn này kết quả học tập
của mỗi người khác nhau. Khi giai đoạn đi học kết thúc, mọi người đều phải
tính đến chuyện làm việc để sống tự lập. Những vấn đề: Chọn nghề gì? Liệu
có đủ điều kiện để theo đuổi nghề đó không? Nghề đó có phù hợp với ta
không?... đều là những vấn đề không dễ trả lời.
Bước vào thế kỷ 21, nghề nghiệp trong xã hội có những chuyển biến
nhiều so với giai đoạn trước đây. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đang tạo điều kiện để nhân loại tiến từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh
tế tri thức. Đó là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở sản xuất, phân phối và
sử dụng tri thức, thông tin, trong đó máy tính và các công nghệ truyền thông
viễn thông là những yếu tố chiến lược. Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII đã xác định nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là phát huy
nội lực, cần kiệm để xây dựng đất nước... Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện
nay, để đạt được mục tiêu trên, chúng ta cần một lực lượng lao động có đủ
trình độ năng lực và làm chủ được công nghệ kỹ thuật của đất nước, đủ điều
kiện đảm bảo hoàn thành tốt công việc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nếu chúng ta không chiếm hữu được tri thức, không sáng tạo và sử dụng
được thông tin trong các ngành sản xuất thì không thể thành công trong sự
cạnh tranh quyết liệt của thị trường. Chính vì vậy việc nâng cao trình độ học
vấn, trình độ văn hóa cho nhân dân, đặc biệt là việc định hướng bậc học và

định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ hôm nay, chủ nhân tương lai của đất
nước, cần được quan tâm hơn bao giờ hết.
Cùng với sự biến đổi của nền kinh tế thị trường là sự thay đổi về định
hướng giá trị của con người Việt Nam nói chung và của lứa tuổi thanh niên
4

nói riêng. Đó là sự thay đổi về cách đánh giá, sự lựa chọn các chuẩn mực xã
hội trong đó có vấn đề việc làm và chọn nghề. Những quan điểm tiêu cực của
đời sống xã hội nảy sinh đã ảnh hưởng rất lớn đến việc định hướng ngành,
nghề cho con cái trong các gia đình. Đặc biệt là một tình trạng không nhỏ
những thanh thiếu niên chưa định hướng rõ mình học cái gì, học ngành gì cho
phù hợp với khả năng của bản thân. Việc chọn nghề của học sinh phổ thông
trung học còn nhiều lệch lạc ở chỗ: nặng về chuộng bằng cấp hình thức để trở
thành cử nhân, kỹ sư, bác sĩ,... theo ý thích chủ quan và cảm tính, có khi theo
trào lưu trước mắt, đua nhau thi vào những trường "đắt giá". Việc chọn nghề
như vậy là thiếu thực tế, không quan tâm đến ngành nghề đó có phù hợp với khả
năng hay trình độ của bản thân hay không.
Trên thực tế cho thấy, lao động việc làm đang trở thành vấn đề nan
giải. Mặt khác quy mô phát triển giáo dục đào tạo hợp lý ở một số ngành như
khoa học cơ bản ngày càng có ít người theo học, trong khi đó một số các
ngành khoa học ứng dụng lại thu hút được khá lớn thanh thiếu niên như tin
học, ngoại ngữ... Hiện tượng này gây nên sự không đồng đều về đội ngũ tri
thức của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển, đi lên của đất
nước. Đất nước muốn phát triển phải có định hướng cho thế hệ trẻ khi lựa
chọn ngành học, cấp học. Họ phải chọn những ngành nghề, bậc học sao cho
phù hợp với khả năng và trình độ của bản thân để đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Đứng trước vấn đề đó gia đình, nhà trường, xã hội cần phải quan tâm hơn
trong việc giáo dục và hướng nghiệp cho con cái, trong đó vai trò của cha mẹ
là nhân tố quan trọng hàng đầu. Cha mẹ không những chỉ nuôi dưỡng, giáo
dục đạo đức, rèn luyện nhân cách cho con mà còn định hướng cho con làm

những công việc phù hợp với khả năng của họ. Muốn được như vậy thì người
làm cha, làm mẹ phải có nhận thức đúng đắn đồng thời phải tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho việc học tập của con để con mình bước vào xã hội một cách
vững vàng.
5

Chính vì vậy, qua khảo sát tại phường Tràng Tiền - thành phố Hà Nội,
tôi chọn đề tài "Vai trò của cha mẹ trong việc hướng nghiệp cho con ở các gia
đình đô thị hiện nay" để nghiên cứu trong luận văn của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài :
2.1. Ý nghĩa khoa học :
Giáo dục nói chung và giáo dục gia đình nói riêng được nhiều ngành
nghề khoa học quan tâm nghiên cứu như: Tâm lý học, Giáo dục học, Đạo đức
học. Bên cạnh những ngành khoa học đó thì Xã hội học cũng khẳng định
được vị trí, vai trò của mình với tư cách là một ngành khoa học độc lập trong
hệ thống khoa học xã hội. Theo cách tiếp cận Xã hội học, đề tài nghiên cứu,
xem xét, nhìn nhận vấn đề một cách khoa học để có thể lý giải và chứng minh
một số quan điểm và khía cạnh dưới góc độ xã hội học, phân biệt với cách
nhìn của một số ngành khoa học xã hội khác.
Bằng phương pháp nghiên cứu xã hội học, đề tài nghiên cứu đã góp
phần làm phong phú thêm kho tàng nhận thức lý luận xã hội học, nâng cao
nhận thức về vai trò chức năng của lý thuyết xã hội học cho bản thân và
những người quan tâm. Đồng thời đề tài còn vận dụng một số lý thuyết phạm
trù cơ bản của xã hội học vào nghiên cứu làm sáng tỏ một số khía cạnh về
chức năng giáo dục của gia đình. Cụ thể là vận dụng các lý thuyết xã hội học
thực nghiệm để nghiên cứu các đặc trưng của cha mẹ tác động đến việc
hướng nghiệp cho con cái trong điều kiện hiện nay.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn :
Vai trò của cha mẹ trong việc hướng nghiệp cho con cái là một vấn đề
nghiên cứu có ý nghĩa xã hội rất lớn. Nó nhằm nâng cao nhận thức của mọi

người, thấy được tầm quan trọng của nghề nghiệp trong cuộc sống.
6

Đề tài cũng chỉ ra được những khó khăn, hạn chế của các bậc cha mẹ
trong việc định hướng nghề nghiệp cho con cũng như xu hướng biến đổi của
việc lựa chọn nghề nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Qua nghiên cứu vai trò của cha mẹ trong việc hướng nghiệp cho con,
đề tài góp phần chỉ ra những nhân tố chủ quan, khách quan, giúp cho các nhà
quản lý, những cơ quan chính quyền sở tại và các cấp, các ngành nên có
những chính sách và giải pháp phù hợp nhằm nâng cao nhận thức của cha mẹ
để các bậc cha mẹ thực hiện tốt vai trò của mình. Nghiên cứu này còn giúp
các gia đình, các bậc cha mẹ có những định hướng đúng đắn để đi đến quyết
định lựa chọn nghề nghiệp cho con một cách hợp lý.
3. Mục đích nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu các vấn đề sau:
- Tìm hiểu những mong muốn, dự định của các bậc cha mẹ trong việc
định hướng bậc học và lựa chọn nghề nghiệp cho con cái.
- Tìm hiểu những yếu tố liên quan đến các đặc trưng của các bậc cha
mẹ, gia đình trong việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu rút ra những kết luận và đưa ra giải
pháp nhằm nâng cao nhận thức cho các bậc phụ huynh cũng như bản thân các
bạn trẻ trong việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với khả năng của mình và
phù hợp với sự phát triển của xã hội.
4. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu và mẫu khảo sát :
4.1. Đối tượng nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu tìm hiểu vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học
và lựa chọn nghề nghiệp cho con ở các gia đình đô thị trong điều kiện hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu 120 hộ gia đình có con đang học phổ thông trung học
ở phường Tràng Tiền - thành phố Hà Nội.

7

4.3. Mẫu khảo sát :
Mẫu khảo sát tập trung tiến hành tại phường Tràng Tiền ở thành phố
Hà Nội. Mẫu được chọn ngẫu nhiên với cơ cấu mẫu như sau:
• Cơ cấu giới tính:
Nam: 53,6%
Nữ: 46,4%
• Cơ cấu tuổi:
Các bậc cha mẹ được phỏng vấn có độ tuổi từ 39 đến 68 tuổi.
• Cơ cấu trình độ học vấn:
Phổ thông cơ sở: 20,9%
Phổ thông trung học: 16,4%
Trung học chuyên nghiệp: 10,4%
Cao đẳng - Đại học và trên Đại học: 52,3%
• Cơ cấu nghề nghiệp:
Công nhân: 12,4%
Giáo viên: 13,4%
Buôn bán dịch vụ: 16,4%
Kỹ sư: 20,9%
Bác sĩ: 8,5%
Bộ đội, công an: 6,0%
Không nghề: 7,5%
Khác: 14,9%
• Cơ cấu mức sống:
Số gia đình có mức sống khá giả: 22,4%
Số gia đình có mức sống trung bình: 67,2%
Số gia đình có mức sống khó khăn: 10,4%
8


5. Phương pháp nghiên cứu :
5.1. Phương pháp luận :
Vấn đề nghiên cứu của đề tài được giải thích và chứng minh dựa trên
cơ sở của một số quan điểm lý thuyết sau:
• Quan điểm lịch sử:
Đề tài nghiên cứu vai trò của cha mẹ trong việc định hướng nghề
nghiệp cho con trong điều kiện lịch sử cụ thể cả về thời gian và không gian,
gắn liền với nền văn hóa và điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Nghiên cứu vai trò của cha mẹ trong việc hướng nghiệp cho con cái
được đặt trong thực tại xã hội đô thị trong quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa. Đồng thời xem xét đến sự ảnh hưởng của các chính sách giáo dục.
• Quan điểm hệ thống:
Định hướng nghề nghiệp của cha mẹ đối với con cái là một trong
những hoạt động cơ bản của cha mẹ trong việc thực hiện chức năng của thiết
chế gia đình. Vì vậy mà nó có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau với các
lĩnh vực hoạt động khác như: kinh tế, tái sản xuất con người, chăm lo đời
sống tinh thần... Từ đó để thấy được hoạt động này bị ảnh hưởng và tác động
như thế nào trong tổng thể chức năng của gia đình.
• Lý thuyết vai trò:
Vai trò xã hội của cá nhân được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội
tương ứng. Nó chính là mặt động của vị thế xã hội vì luôn biến đổi trong xã hội.
Vai trò xã hội là mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan
căn cứ vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị thế nhất định để thực hiện quyền
và nghĩa vụ tương ứng với các vị thế đó.
Như vậy vai trò là những đòi hỏi của xã hội đặt ra với các vị thế xã hội.
Những đòi hỏi này được xác định căn cứ vào các chuẩn mực xã hội.
9

Để cá nhân có thể thực hiện tốt các vai trò thì một mặt các đòi hỏi,
chuẩn mực do xã hội đặt ra phải rõ ràng. Mặt khác cá nhân phải học hỏi về

các vai trò trong quá trình xã hội hóa. [3]
Trong phạm vi gia đình, gia đình là một trong những thiết chế cơ bản
của xã hội. Ngoài việc đảm nhận chức năng tái sản xuất con người, gia đình
còn tái sản xuất cả đời sống tình cảm, văn hóa, tức là xã hội hóa - quá trình
biến đứa trẻ từ một sinh vật người thành con người xã hội. Đặc điểm của quá
trình xã hội hóa là các cá nhân không phải lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội
ngay một lúc mà dần dần. Gia đình là môi trường vi mô có vai trò quan trọng
nhất trong giai đoạn xã hội hóa ban đầu. Nhưng chức năng xã hội hóa của gia
đình không chỉ dừng lại ở giai đoạn xã hội hóa ban đầu mà nó diễn ra trong
suốt cả cuộc đời con người với tư cách là một quá trình liên tục: từ giai đoạn
tuổi ấu thơ đến lứa tuổi thiếu niên, trưởng thành và đến giai đoạn tuổi già,
giai đoạn cuối cùng của chu trình sống. Gia đình có vai trò quan trọng trong
việc tổ chức và hướng dẫn các hoạt động của lớp trẻ. Ở lứa tuổi ấu thơ, gia
đình giúp trẻ đào luyện các thói quen. Ở lứa tuổi thiếu niên khi các em bước
đầu hình thành những giá trị, những chuẩn mực, thiết lập quan hệ với những
người xung quanh, gia đình giúp cho các em những kinh nghiệm xã hội trong
quan hệ ứng xử. Ở lứa tuổi trưởng thành, khi cá nhân phát triển bản sắc cái
tôi, hình thành những kinh nghiệm xã hội ổn định, chuẩn bị bước vào những
tổ chức xã hội hay cộng đồng mới. Ở giai đoạn này, nhân cách về cơ bản đã
được định hình. Lúc này gia đình giúp các cá nhân định hướng các vấn đề
như: lựa chọn nghề nghiệp (định hướng nghề nghiệp), lựa chọn lối sống (định
hướng giá trị)...
Quá trình xã hội hóa dễ dàng nhận thấy ở những xã hội đang diễn ra sự
biến đổi mạnh mẽ. Xã hội hóa là một chức năng xã hội quan trọng của gia
đình. Nó có vai trò lớn trong việc hình thành nhân cách của thế hệ tương lại.
Xã hội hóa gia đình góp phần tạo ra sự bình ổn của sự phát triển xã hội. [12]
10

5.2. Phương pháp cụ thể:
Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:

5.2.1. Phương pháp phỏng vấn theo bảng hỏi :
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 120 hộ gia đình có trẻ em ở độ tuổi
đang học PTTH thuộc phường Tràng Tiền thành phố Hà Nội.
Kết quả điều tra bảng hỏi được xử lý trên máy vi tính theo chương
trình SPSS nhằm xác lập tương quan giữa các dữ liệu được tìm hiểu.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu :
Bên cạnh phương pháp phỏng vấn theo bảng hỏi, đề tài nghiên cứu còn
sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối với các bậc phụ huynh dưới hình
thức trò chuyện, xoay quanh vấn đề định hướng bậc học và lựa chọn ngành
nghề cho con cái. Kết quả của phỏng vấn được làm phân tích định tính trong bài
viết.
5.2.3. Phương pháp phân tích tài liệu :
Phương pháp phân tích tài liệu được áp dụng để phân tích các tài liệu
có liên quan đến đề tài nghiên cứu, chủ yếu là các tài liệu có liên quan đến vai
trò của cha mẹ và chức năng giáo dục của gia đình. Các tài liệu thu thập được
sắp xếp theo nội dung nghiên cứu.
5.2.4. Phương pháp quan sát :
Trong quá trình phỏng vấn, phương pháp này được áp dụng để quan sát
thái độ của người được phỏng vấn, nhằm đánh giá mức độ tin cậy của thông
tin mà người đó trả lời.
6. Giả thuyết - khung lý thuyết :
6.1. Giả thuyết :
- Định hướng bậc học và lựa chọn nghề nghiệp cho con cái hiện nay là
một trong những mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các bậc cha mẹ ở các
gia đình đô thị.
11

- Hầu hết các bậc cha mẹ đều định hướng cho con học đến đại học và
muốn con mình vào những ngành nghề trong khu vực kinh tế nhà nước như
sư phạm, kỹ sư hay quản trị kinh doanh.

- Các đặc trưng của cha mẹ như trình độ học vấn, nghề nghiệp cũng
như điều kiện kinh tế của gia đình có ảnh hưởng nhất định trong việc định
hướng bậc học và nghề nghiệp cho con cái.
- Trong định hướng bậc học và nghề nghiệp không có sự khác biệt giữa
con trai và con gái.
6.2. Khung lý thuyết :
"Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho
con ở các gia đình đô thị hiện nay"
Khung lý thuyết trên được tạo dựng trên cơ sở mô hình lý thuyết mà cụ
thể là lý thuyết vai trò nhằm lý giải vấn đề nghiên cứu và mối liên hệ giữa các
biến số (mối liên hệ giữa nguyên nhân - kết quả) và nó tuân theo quy tắc logic
nhất định. Vấn đề nghiên cứu ở đây là vai trò của các bậc cha mẹ trong việc
định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con. Xét trong điều kiện nhất định là
bối cảnh kinh tế - xã hội của đô thị (thành phố Hà Nội) đang trong quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, các đặc trưng của gia đình và của cha mẹ
12
Điều kiện
kinh tế - xã hội
Các đặc trưng của gia
đình và của cha mẹ
Định hướng bậc học và
nghề nghiệp cho con

được coi là biến số độc lập hay được coi là nguyên nhân để dẫn tới kết quả là
việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con - biến số phụ thuộc. Khung
lý thuyết trên được hình thành trên cơ sở kết hợp các biến số theo nguyên tắc
lý thuyết nhất định nhằm đo lường được mối liên kết giữa các biến số, hay nói
cách khác thông qua việc liên kết các biến số chúng ta xác định được sự thay
đổi của biến số độc lập sẽ có liên quan ở mức độ nào đến sự thay đổi của biến
số phụ thuộc. Kết quả của việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con

thay đổi dựa vào sự thay đổi của nguyên nhân dựa trên các đặc trưng của gia
đình và của cha mẹ - thông qua các chỉ báo sau:
- Trình độ học vấn của cha, mẹ: bậc học cao nhất mà cha mẹ đạt được.
- Nghề nghiệp của cha, mẹ: công việc chính của cha mẹ tạo ra thu nhập
cho gia đình.
- Định hướng giá trị của cha, mẹ: quan niệm giá trị học vấn và quan
niệm giá trị nghề nghiệp của cha mẹ.
- Mức sống: điều kiện kinh tế của gia đình.
- Mối quan hệ trong gia đình: Mối quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình, giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái...
Trong hệ thống các chỉ báo nêu trên, các đặc trưng của cha mẹ và các
đặc trưng của gia đình có tác động qua lại ảnh hưởng trực tiếp đến nhau.
13

PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề giáo dục và giáo dục trong gia đình đã và đang trở thành mối
quan tâm chung của mọi quốc gia trên toàn thế giới. Thực trạng học tập và
nghề nghiệp của lớp trẻ là một trong những vấn đề bức xúc của toàn xã hội.
Đã có nhiều cuộc họp, hội nghị ở cấp quốc tế bàn luận về vấn đề này.
Trong phiên họp thứ nhất Ủy ban quốc tế vì giáo dục thế kỷ 21 đã bàn
về vai trò của giáo dục, làm sao nâng cao tính hài hòa trong quá trình ngày
càng tăng tính toàn cầu hóa của xã hội loài người. Toàn bộ quá trình giáo dục
phải giúp cho mọi người học cách chung sống với nhau cả về tinh thần lẫn vật
chất. Phiên họp nhấn mạnh "Con người tốt nhất để sống còn đó là học tập,
học sống chung với người khác, học nghe điều người khác nói". Học tập là
đặc trưng của cuộc sống. [9]
Tại đại hội lần thứ 27 của UNESCO, ông đại diện của Tổng giám đốc
đã trình bày những vấn đề lớn của xã hội, trong đó ông chú ý đến tình hình

cải cách hệ thống giáo dục nhằm vào tương lai với trọng tâm là giáo dục cho
mọi người, sau đó là giáo dục nghề, giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học
giáo dục. Ông đặc biệt nhấn mạnh vào vai trò giáo dục thường xuyên, phải
biết tập trung vào giáo dục cho mọi người, tạo mặt bằng dân trí để tăng cường
hiệu quả giáo dục ở thế kỷ 21, nâng cao hiệu quả học tập cho lớp trẻ, thức
tỉnh tiềm năng sáng tạo to lớn của mỗi người, cho phép chúng ta phát triển
tiềm năng sẵn có của bản thân, đóng góp tốt hơn cho xã hội mà chúng ta đang
sống.
Hiện nay vấn đề định hướng bậc học và nghề nghiệp không chỉ là vấn
đề riêng của mỗi gia đình mà nó thực sự là vấn đề của cả cộng đồng và mỗi
14

quốc gia. Vì vậy cha mẹ cần phải có những cách nhìn đúng đắn và thấu hiểu
về vấn đề này để giúp thế hệ trẻ có thể hòa nhập chung được với thế giới.
Ở nước ta vấn đề gia đình và giáo dục gia đình ngày càng thu hút được
sự quan tâm chú ý của nhiều ngành nhiều cấp như Viện xã hội học, Trung
tâm nghiên cứu khoa học xã hội... Vì vậy mà đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học khác nhau về lĩnh vực này:
* Đề tài KX07-09 mang tên "Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình"
1994 của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ - Nhà xuất bản Khoa
học xã hội có những nội dung chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về xã hội hóa con người, về chức
năng xã hội hóa của gia đình trong lịch sử và hiện đại.
- Phân tích vai trò của giáo dục gia đình trong sự hình thành và phát
triển nhân cách con người Việt Nam.
- Trách nhiệm và những điều kiện, biện pháp chính sách cần thiết nhằm
giúp gia đình làm tròn chức năng của nó.
* Tác phẩm: "Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa" của tác giả
Lê Ngọc Văn đề cập đến vai trò của gia đình trong việc thực hiện chức năng
xã hội hóa giáo dục cho các thành viên.

Các nghiên cứu trên được tiến hành với quy mô rộng lớn cả về phạm vi
nghiên cứu cũng như nội dung nghiên cứu. Đó là vai trò của giáo dục gia đình
nói chung trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam.
Còn nghiên cứu này chỉ tập trung hướng tới một khía cạnh trong giáo dục gia
đình: Vai trò của cha mẹ trong giáo dục tri thức và hướng nghiệp cho con.
Nhìn chung muốn cho đất nước ngày càng phồn vinh, gia đình với tư
cách là nền tảng của xã hội cũng không ngừng phát triển. Vì vậy cần phải có
những nghiên cứu về lĩnh vực này, nhất là vai trò của cha mẹ trong việc định
hướng bậc học và nghề nghiệp cho con cái.
15

1.2. Hệ thống khái niệm cơ sở :
1.2.1 Khái niệm vai trò :
Vai trò là mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan căn cứ
vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị thế nhất định để thực hiện quyền và
nghĩa vụ tương ứng đối với các vị thế đó. [3]
Khái niệm vai trò được hiểu gắn liền với một loạt các khái niệm khác:
quy chế, chức năng, nghĩa vụ, quyền... Có thể coi vai trò như tập hợp những
ứng xử của mỗi cá nhân mà người khác chờ đợi. Người ta phân biệt vai trò
được đóng với vai trò được định đóng. Vai trò được đóng biểu hiện thành một
ứng xử, một hoạt động với bên ngoài (VD: cha mẹ chăm sóc con cái, cảnh sát
bắt cướp...). Còn vai trò định đóng chủ yếu nhấn mạnh tới khía cạnh bên
trong của mọi ứng xử, mọi hoạt động (VD: tán thành quan điểm của một
người khác). Nếu vai trò được đóng là đối tượng của Xã hội học thì vai trò
định đóng là đối tượng của Tâm lý học xã hội. Vai trò không phải là một cái
gì có sẵn, nó là kết quả của một quá trình tập luyện của cá nhân, có ý thức
hoặc không có ý thức. Nó gắn liền với quá trình xã hội hóa của mỗi cá nhân.
[1]
1.2.2. Khái niệm gia đình :
"Gia đình là nhóm người gắn bó với nhau bằng mối quan hệ hôn nhân,

huyết thống hay là việc nhận con nuôi vừa nhằm đáp ứng những nhu cầu
riêng tư của họ vừa nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội về về tái sản xuất dân
cư theo cả nghĩa thể xác và tinh thần". [8]
"Gia đình là tế bào của xã hội" [13]. Cách nói này nêu lên được tầm
quan trọng của gia đình đối với xã hội.
Trong gia đình vai trò của cha mẹ đều chiếm một vị trí rất quan trọng.
Cả cha và mẹ đều có vai trò, trách nhiệm trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con. Thiếu một trong hai người thì đều có ảnh hưởng không tốt đến
sự phát triển của trẻ em.
16

1.2.3. Khái niệm định hướng :
Định hướng là việc hoạch định trước một phương pháp, mục tiêu để
thực hiện nếu không có gì thay đổi. Sự định hướng này đã có sự cân nhắc kỹ
lưỡng trước khi ra quyết định. Mục đích cuối cùng của sự định hướng có đạt
được hay không còn phụ thuộc vào điều kiện khách quan. [14]
1.2.4. Khái niệm giá trị :
Một trong những định nghĩa được chấp nhận rộng rãi trong khoa học xã
hội là coi giá trị như những quan niệm về cái đáng mong muốn ảnh hưởng tới
hành vi lựa chọn. Trong cách nhìn rộng rãi hơn thì bất kỳ cái gì tốt, xấu đều
là giá trị hay giá trị là điều quan tâm của chủ thể.
Vậy giá trị là cái mà ta cho là đáng có, mà ta ưa thích, ta cho là quan
trọng để hướng dẫn cho hành động của ta. Giá trị là cái có thực và tồn tại
trong hiện thực. Giá trị phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện kinh tế - xã hội của
từng xã hội, vì vậy phải xem xét giá trị trong những điều kiện kinh tế - xã hội
cụ thể. Mỗi xã hội, mỗi nền văn hóa có hệ giá trị khác nhau. Hệ giá trị của
một xã hội là phương hướng phấn đấu cho toàn xã hội. Mỗi cá nhân tùy thuộc
vào nhận thức, v.v... đều có hệ giá trị riêng của mình.
Theo nhà xã hội học Mỹ J.H. Fitcher: "Tất cả cái gì có ích lợi, đáng
ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc xã hội đều có một giá trị".

Có giá trị vật chất và có giá trị tinh thần. Ý nghĩa giá trị thay đổi có tính lịch
sử. [4]
1.2.5. Khái niệm định hướng giá trị :
Định hướng giá trị là sự thừa nhận, lựa chọn của cá nhân hay cộng
đồng về một giá trị hay hệ thống giá trị nào đấy. Định hướng giá trị là cơ sở
bên trong của hành vi, quyết định lối sống của cá nhân. [4]
1.2.6. Khái niệm nghề nghiệp :
- "Nghề: Công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội".
"Nghề nghiệp" là nghề nói chung. [14]
17

- "Nghề: Công việc hàng ngày làm để sinh nhai"
"Nghề nghiệp: là nghề làm để mưu sống". [8]
1.2.7. Khái niệm bậc học :
Trong mỗi quốc gia bao giờ cũng có một hệ thống giáo dục nhất định.
Ở Việt Nam, hệ thống giáo dục được chia theo cấp bậc khác nhau:
+ Bậc tiểu học: Từ lớp 1 đến lớp 5
+ Bậc trung học cơ sở: Từ lớp 6 đến lớp 9
+ Bậc phổ thông trung học: Từ lớp 10 đến lớp 12
+ Bậc trung học chuyên nghiệp
+ Bậc cao đẳng - đại học
+ Bậc trên đại học
18

CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU- NHỮNG KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
2.1. Kết quả nghiên cứu :
2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu :
• Điều kiện địa lý, dân số:
Là một phường nằm trên địa bàn trung tâm của thành phố, phường
Tràng Tiền có diện tích 0,386 km

2
. Trên địa bàn phường có gần 200 cơ quan
đơn vị của Trung ương, Thành phố và nhiều nhà hàng, khách sạn, đại sứ quán
và văn phòng đại diện của các nước. Có hầu hết các loại hình kinh doanh,
dịch vụ do đó lưu lượng khách qua lại địa bàn đông.
Cơ cấu diện tích đất đai ít biến động qua các năm
 Diện tích đất cơ quan chiếm 50,53%
 Diện tích đất giao thông chiếm 34,59%
 Diện tích đất ở chiếm 14,19%
 Diện tích đất của các di tích văn hóa lịch sử chiếm 0,46%
 Diện tích đất phục vụ an ninh quốc phòng chiếm 0,23%
Về dân số: Địa bàn dân cư chia làm 7 khu phố với 60 tổ dân phố. Số
nhân khẩu thực tế của phường là 6517 nhân khẩu (theo số liệu điều tra dân số
ngày 1/4/1999) với 1727 hộ. Qua 10 năm (so với số liệu điều tra năm 1989)
dân số hầu như không đổi (chỉ tăng 137 người)
• Về cơ cấu lao động:
Số người trong độ tuổi lao động là 3933 người chiếm 60,34%. Chủ yếu
là cán bộ công nhân viên Nhà nước ngoài ra là lao động thương mại dịch vụ
chiếm tỷ lệ khoảng 30%.
• Về cơ cấu hành chính:
Phường có hội đồng nhân dân phường, có ủy ban nhân dân phường.
Bên cạnh đó còn có Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể thành viên
19

như: Hội Phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Người
cao tuổi, Hội chữ thập đỏ, Ban Thanh tra nhân dân, Chi hội luật gia.
• Về văn hóa:
Phường đã thực hiện thành công cuộc vận động "xây dựng nếp sống
văn minh, gia đình văn hóa". Tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 96% năm 2000. Các
tổ dân phố đã triển khai và thực hiện qui ước về việc cưới, tang, mừng thọ, lễ

hội, theo nếp sống văn minh.
Trên địa bàn phường có 2 viện Bảo tàng: Viện bảo tàng Lịch sử và viện
Bảo tàng cách mạng đã được tiến hành tôn tạo.
• Về giáo dục- đào tạo:
Đến hết năm 1999 toàn phường đã đạt phổ cập giáo dục cấp trung học
cơ sở. Số cháu trong độ tuổi mẫu giáo đến lớp đạt 68,4%. Trẻ 6 tuổi vào lớp 1
hàng năm đạt tỷ lệ gần 100%.
Trên địa bàn phường có trường PTTH Trần Phú với tỷ lệ tốt nghiệp
hàng năm đạt từ 98-99%. Trường tiểu học, THCS Trương Vương với truyền
thống học tốt dạy tốt hàng năm thu hút hàng nghìn học sinh theo học.
Phường có khoảng 3000 trẻ em trong độ tuổi 1- 18. Dưới sự chỉ đạo
của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, hàng năm các em được tham gia vào câu lạc
bộ văn hóa, thể dục thể thao của phường với các hình thức vui chơi giải trí đa
dạng, lành mạnh: ca múa nhạc, thể dục thể thao, đi tham quan picnic...
Về trình độ dân trí: Là phường trung tâm, có trình độ dân trí cao. Số
người có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học và được đào tạo nghề chiếm
tỷ lệ khá cao, bên cạnh đó số lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khoảng 20%.
• Các vấn đề xã hội:
Địa bàn phường có nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ... nên mật độ
người qua lại đông, từ đó phát sinh nhiều vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự.
Hệ thống cơ sở hạ tầng đã cũ và xuống cấp làm ảnh hưởng tới đời sống và
sinh hoạt của nhân dân. Do phường không có điều kiện giải quyết việc làm tại
20

chỗ nên nhiều người có nhu cầu lao động nhưng không xin được việc đã lấn
chiếm vỉa hè, lòng đường để bán hàng. Việc duy trì và thực hiện nghị định
36CP gặp nhiều khó khăn.
2.1.2. Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học cho con trong
các gia đình đô thị hiện nay :
Mỗi chúng ta khi sinh ra ai cũng có một mái ấm gia đình, có một người

cha, một người mẹ, những người nuôi dưỡng chăm sóc ta bữa ăn giấc ngủ.
Khi ta lớn lên đến tuổi cắp sách tới trường thì vấn đề học tập của con cái là
một trong những mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Bất cứ bậc làm
cha, làm mẹ nào cũng muốn tương lai con em mình tốt đẹp... Ngoài việc rèn
luyện, tu dưỡng về đạo đức, nhân cách thì học tập là yếu tố không thể thiếu
được trong quá trình hoàn thiện của mỗi cá nhân. Chỉ có học tập tốt mới có
được một vị trí, một chỗ đứng trong xã hội vững vàng. Từ đó mới có thể
thăng tiến được trong xã hội và có những công việc phù hợp với khả năng của
mình, phát huy được năng lực và góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Và để học tập tốt thì sự quan tâm giúp đỡ của cha mẹ là một
điều hết sức quan trọng.
Thời đại ngày nay là thời đại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy
xã hội đang đòi hỏi có những nhà khoa học, nhà kỹ thuật, những chuyên gia
có tài năng, những chính trị gia linh hoạt, những nhà kinh doanh, nhà quản lý
giỏi và đội ngũ lao động có tay nghề cao. Một xã hội văn minh, hiện đại thì
tương ứng với nó con người phải có trình độ học vấn tiếp thu từ gia đình, nhà
trường và xã hội. Để thực hiện được mục tiêu cụ thể của xã hội xã hội chủ
nghĩa là: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" thì chúng ta
cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của tri thức khoa học. Khi khoa học đã
trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu thì trí tuệ là nguồn sức mạnh chiếm lĩnh
vực những vị trí quyết định trong quá trình sản xuất, quá trình kinh doanh và
quản lý xã hội. Phải có trình độ tri thức thì mới có thể áp dụng được khoa học
21

và công nghệ hiện đại vào trong sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của xã hội. Chính vì vậy mà học vấn có vai trò quan trọng và đó là con đường
ngắn nhất để dẫn đến sự thành công.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tế xã hội ở trên mà việc định hướng
bậc học cho con của các bậc cho mẹ cũng có sự khác nhau tùy thuộc vào
nhận thức, quan điểm của từng người cũng như điều kiện sống của mỗi gia

đình. Điều này được thể hiện ở các vấn đề sau:
Qua nghiên cứu tại địa bàn Hà Nội cho thấy người dân Hà Nội đang
quay trở lại với việc đề cao giá trị học vấn thay vì đề cao quan niệm "học cao
không bằng đi buôn". Sự thay đổi nhận thức này xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi
thực tế của một xã hội phát triển là cần phải có một đội ngũ lao động có kiến
thức, có trình độ và tay nghề cao. Và người dân ý thức được rằng khả năng
kiến tạo công ăn việc làm của con em họ phụ thuộc phần nhiều vào việc đầu
tư, chăm sóc và giáo dục học hành cho con cái. Tương lai của con cái phụ
thuộc rất nhiều vào sự quyết định của cha mẹ. Kết quả học tập hay việc lựa
chọn ngành học của họ có tốt và phù hợp hay không là còn do những ảnh
hưởng nhất định từ phía cha mẹ. Từ những nhận thức khác nhau về học vấn
mà các bậc phụ huynh có những quan niệm khác nhau.
Bảng 1 : Quan niệm về học vấn của cha mẹ (%)
Quan niệm của cha mẹ Tần số (người) Tần suất (%)
Rất quan trọng 42 35
Quan trọng 45 37,5
Bình thường 27 22,5
Không quan trọng 6 5
Tổng 120 100
Qua bảng số liệu trên cho thấy tỷ lệ số người trả lời vấn đề học tập của
con cái là rất quan trọng, quan trọng chiếm rất cao. Điều đó chứng tỏ các bậc
phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập. Chỉ có con
22

đường học hành mới giúp con cái họ có một nghề nghiệp ổn định, một chỗ
đứng vững vàng trong xã hội. Quan niệm ở đây còn được hiểu là đơn vị đo
của nhận thức, là sự chuẩn bị những hành vi thực tiễn. Vì vậy mà quan niệm
của các bậc phụ huynh về vấn thể hiện qua chính những dự định mong muốn
cho con cái của mình học đến bậc nào.
Hầu hết, cha mẹ ở thành phố sẵn sàng đầu tư cho con học hết khả năng

của mình, mong muốn con học giỏi, thi đỗ vào các trường chất lượng cao, có
uy tín... nên đã cố gắng đầu tư về vật chất một cách tốt nhất để con có điều
kiện học hành, có được tri thức hiểu biết. Khi được hỏi: Ông (bà) đã đầu tư
những phương tiện học tập nào cho con? Ông N. phường Tràng Tiền đã trả
lời: "...Gia đình tôi đã tạo điều kiện tốt nhất ở mức có thể cho việc học tập
của nó. Chúng tôi đầu tư cho việc học tập của con ngay từ những ngày đầu
mới vào cấp III, tìm lớp tìm thày giỏi để gửi con vào học, thậm chí mời thày
về nhà dạy riêng. Gia đình có máy vi tính và thường xuyên mua sách nâng
cao, sách tham khảo chỉ mong cho con có kết quả học tập tốt..." [Phỏng vấn
sâu số 1]. Bên cạnh đó cũng có những gia đình khó khăn, việc đầu tư cho con
cái học tập chiếm một phần rất lớn trong tổng chi tiêu của gia đình. "... Chi
phí cho học tập của con cái chiếm gần một nửa so với tổng chi tiêu trong gia
đình. Tuy vậy tôi cũng cố gắng chắt bóp, nhịn ăn, nhịn mặc một chút để nó
học hành đến nơi đến chốn" [Phỏng vấn sâu số 2]. Đó là sự hy sinh lớn lao
đáng được trân trọng của các bậc cha mẹ khi đã tạo mọi điều kiện cho con em
mình học tập.
Song dường như vẫn tồn tại một nghịch lý thể hiện ở thái độ đầu tư của
cha mẹ cho việc học tập của con cái. Có một số ít những gia đình khá giả thì
trường học không thực sự trở thành nơi thu hút sự đầu tư của cha mẹ. Với vị
trí thuận lợi là có nhà mặt đường để mở cửa hàng buôn bán, những gia đình
này thay vì khuyến khích cho con cái học lên cao họ lại có những tính toán
thực dụng hơn, ngầm "ủng hộ" con cái bỏ học để đi làm kiếm tiền. "... Thằng
23

út nhà tôi năm nay hết cấp III mà chẳng thấy nó học hành gì, suốt ngày ở
ngoài đường thôi. Xét cho cùng học hành cũng chỉ là để sau này kiếm tiền
nuôi thân chứ làm gì. Nhà tôi 3 đời sống bằng nghề buôn bán kinh doanh này
rồi, được cái nhà ở mặt đường nên làm ăn cũng thuận lợi. Tôi tính để nó tốt
nghiệp xong rồi phụ giúp gia đình trông coi cửa hàng. Có khi ở nhà tu chí làm
ăn thì lại ngoan chứ đến trường, bạn bè lôi kéo đâm ra hư hỏng..." [Phỏng vấn

sâu số 5]. Trong khi đó không ít những gia đình khó khăn lại cố gắng cho con
ăn học. Tâm lý và nguyện vọng chung của họ là muốn con mình có tương lai
tốt đẹp bằng con đường học hành.
Cùng với việc đầu tư về vật chất, một yếu tố nữa không kém phần quan
trọng là thời gian mà các bậc phụ huynh dành để quan tâm đến việc học hành
của con. Mức độ quan tâm của các bậc cha mẹ ở phường Tràng Tiền với việc
học tập của con cái được thể hiện qua bảng 2.
Bảng 2 : Mức độ quan tâm của cha mẹ đối với việc học tập của con (%)
Mức độ quan tâm Tần số (người) Tần suất (%)
Thường xuyên 65 54,2
Thỉnh thoảng 43 35,8
Không bao giờ 12 10
Tổng 120 100
Theo số liệu ở bảng trên ta nhận thấy trong giai đoạn kinh tế thị trường
ngày nay tuy các gia đình đầu tư nhiều thời gian vào việc lo làm giàu, lo đáp
ứng nhu cầu vật chất nhưng số đông các bậc cha mẹ vẫn dành thời gian để
quan tâm đến việc học hành của con. Mặc dù đối với học sinh phổ thông
trung học thì sự quan tâm của cha mẹ đến vấn đề học tập của con cái chỉ ở
mức độ nhắc nhở, đôn đốc con học hành chứ không kèm cặp, chỉ bảo cụ thể
như đối với học sinh cấp dưới. Sự quan tâm ấy ở mức độ thường xuyên chiếm
tỷ lệ cao nhất (54,2%), mức độ thỉnh thoảng chiếm tỷ lệ thấp hơn (35,8%), và
24

không bao giờ quan tâm tới việc học của con chiếm tỷ lệ rất ít (10%). Sự
quan tâm của các bậc cha mẹ ở mức độ "thỉnh thoảng" cũng khá cao vì ở bậc
PTTH họ coi con cái mình đã trưởng thành, muốn để con được tự chủ, tự giác
trong học tập. Tuy chưa phải 100% các bậc cha mẹ đều luôn quan tâm đến
việc học hành của con song với mức độ quan tâm thờng xuyên như trên đã
cho chúng ta thấy ở một chừng mực nào đó truyền thống coi trọng học vấn
của người dân Hà Nội vẫn còn tồn tại mặc dù bên cạnh đó vẫn có những tư

tưởng sai lệch về vấn đề này. Con cái là niềm tự hào của cha mẹ, việc đầu tư
cho con về mặt vật chất ở mỗi gia đình là khác nhau tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế nhưng sự quan tâm mà bất kỳ bậc làm cha làm mẹ nào cũng có thể đó
là việc dành thời gian để quan tâm tới việc học tập của con.
Bên cạnh đó 35,8% chỉ thỉnh thoảng mới chú ý tới việc học hành của
con và số rất ít không bao giờ quan tâm đến việc học hành của con cái. Liệu
có phải sự quan tâm của các bậc phụ huynh này chỉ ở nghĩa vụ bắt buộc, phải
chăng họ không lo lắng cho tương lai của con em họ? Khi tìm hiểu vấn đề này
được biết: "Con trai tôi học đến cấp III rồi nên giờ giấc học tập của nó để nó
tự giác là chính... Không phải tôi không quan tâm đến việc giáo dục con cái
nhưng công việc bán hàng bận rộn từ sáng sớm đến tối, nhà lại chỉ có hai mẹ
con nên không thể bảo ban, đôn đốc việc học cho nó được..." [Phỏng vấn sâu
số 3]. Qua ý kiến trên chúng ta thấy các bậc cha mẹ không phải là không quan
tâm tới việc học của con nhưng do hoàn cảnh gia đình nên việc quan tâm còn
bị hạn chế. Theo kết quả điều tra thì đối với những gia đình có cha mẹ làm
cán bộ viên chức nhà nước, mức độ quan tâm tới việc học tập của con thường
xuyên hơn so với những gia đình làm nghề buôn bán - dịch vụ. Bởi lẽ tính
chất công việc buôn bán đòi hỏi có nhiều thời gian chứ không chỉ đi làm 8
tiếng như cán bộ, viên chức nhà nước nên thời gian dành cho con cái bị hạn
chế là điều tất yếu. Đặc biệt đối với những gia đình thiếu khuyết do cha mẹ
chia tay hay do mất mát một trong hai người thì việc quan tâm chăm sóc
25

×