Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quản lý thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.17 KB, 93 trang )

Header Page 1 of 161.
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là trụ cột
trong hệ thống ASXH được thực hiện ở nước ta ngay từ những ngày đầu
thành lập nước. Ngày 01/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số
54/SL quy định điều kiện cho công chức, viên chức Nhà nước hưởng chế độ
hưu trí. Từ đó đến nay, chính sách BHXH không ngừng được sửa đổi, bổ
sung phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước, góp phần đảm bảo
cuộc sống cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang nhân dân,
NLĐ. Tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc
kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ và trong xây dựng bảo vệ tổ
quốc, đưa đất nước vững bước đi lên trên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã
hội vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội, để chính
sách BHXH phù hợp với tình hình thực tiễn và hội nhập quốc tế; Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm cần phải giải
quyết tốt việc "Thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH, bảo đảm đời sống
người nghỉ hưu được ổn định, từng bước cải thiện". Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: "Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an
toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH đối với NLĐ
thuộc các thành phần kinh tế".
Tháng 01/2007 Luật BHXH có hiệu lực thi hành, các đối tượng tham
gia đóng, hưởng BHXH đã được thực hiện đến tất cả lao động làm việc
trong các thành phần kinh tế và mở rộng loại hình BHXH tự nguyện, tạo nên
sự bình đẳng về BHXH đối với mọi NLĐ. Từ năm 2009 - 2013, số lao động
tham gia BHXH tăng hàng năm bình quân khoảng 7%, số thu BHXH tăng

Footer Page 1 of 161.




Header Page 2 of 161.
2

bình quân khoảng 33% và hình thành quỹ BHXH độc lập với NSNN. Đây là
bước chuyển đổi căn bản về sự nghiệp BHXH từ chế độ bao cấp chủ yếu dựa
vào NSNN sang cơ chế quỹ BHXH chủ yếu dựa trên nguồn thu do NLĐ, chủ
sử dụng lao động đóng góp để chi trả các chế độ BHXH, góp phần ổn định
chính trị, xã hội thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách BHXH thời gian qua còn
bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất là trong công tác thu BHXH đã và đang
đặt ra những vấn đề cần quan tâm giải quyết, đó là:
- Việc phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc còn nhiều hạn
chế; tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH, chưa tham gia hoặc tham gia
không đầy đủ cho số lao động làm việc tại đơn vị còn xẩy ra phổ biến ở các
địa phương. Số lao động tham gia BHXHchiếm tỷ lệ thấp so với lao động
trong diện tham gia BHXH bắt buộc. Số lao động chưa tham gia BHXH tập
trung chủ yếu ở khối loại hình DN ngoài quốc doanh (công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân…), thậm chí có những DN lạm dụng quỹ
BHXH, chiếm dụng tiền đóng BHXH của NLĐ để sử dụng làm vốn SXKD...
Do đó, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH
đối với NLĐ và kết quả thu BHXH.
- Vấn đề quản lý lao động làm việc trong các thành phần kinh tế là cơ
sở để phát triển đối tượng tham gia BHXH của các cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền còn hạn chế.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về chính sách BHXH của
cơ quan BHXH và các đơn vị chưa được thường xuyên; công tác kiểm tra, xử
lý vi phạm pháp luật BHXH đối với các chủ sử dụng lao động cố tình không
đóng, đóng không đúng, không kịp thời, đầy đủ BHXH cho NLĐ còn chưa

thực sự quyết liệt; giải quyết nợ đọng BHXH là một trong những vấn đề gây
bức xúc hiện nay.

Footer Page 2 of 161.


Header Page 3 of 161.
3

- Thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tác phong, phong cách phục vụ
NLĐ của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thu BHXH và ứng dụng công
nghệ thông tin vào công tác thu, tạo thuận lợi tối đa cho tổ chức, cá nhân tham
gia BHXH.
Trong tình hình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nhiều
DN mới được thành lập và cũng có không ít DN không đủ khả năng cạnh
tranh trên thị trường, hoặc làm ăn thua lỗ kéo dài phải giải thể, phá sản. Dẫn
đến những biến động tăng, giảm, di chuyển lao động rất phức tạp và xảy ra
thường xuyên, liên tục khó khăn cho công tác quản lý người tham gia cũng
như thu BHXH. Do vậy hoạt động thu BHXH là rất khó khăn. Thực trạng đặt
ra đó đòi hỏi cần phải có những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu BHXH
làm cơ sở để giải quyết chế độ chính sách cho người tham gia, đảm bảo tăng
trưởng quỹ BHXH và thực hiện công bằng xã hội.
Do đó, tôi lựa chọn đề tài: “Quản lý thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam”
làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua BHXH Việt Nam đã có một số công trình
nghiên cứu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, đề tài dưới góc độ khoa học cấp bộ,
luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đi sâu nghiên cứu những vấn đề chung, cũng
như từng lĩnh vực cụ thể về BHXH. Có thể nói tới các công trình như:
- Đề tài: “Thực trạng quản lý thu Bảo hiểm xã hội hiện nay và các

biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thu”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ
do Tiến sĩ Nguyễn Văn Châu làm chủ nhiệm đề tài bảo vệ năm 1996.Trên cơ
sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thu BHXH của một số nước trên thế giới
và tổng kết hoạt động thực tiễn của quản lý thu BHXH ở Việt Nam trước năm
1995 và đến năm 1996, tác giả làm rõ thực trạng hoạt động BHXH, đặc biệt là
công tác thu BHXH trong thời gian qua, nhằm phân tích khả năng thu BHXH
để bù đắp các chế độ BHXH được hưởng nhằm thay thế dần các nguồn chi

Footer Page 3 of 161.


Header Page 4 of 161.
4

lấy từ Ngân sách Nhà nước, đồng thời đề xuất kiến nghị một số vấn đề cụ thể
nhằm cải tiến công tác thu BHXH ở Việt Nam
- Đề tài khoa học: “Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu
BHXH” đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Tiến sĩ Dương Xuân Triệu, Chủ
nhiệm, bảo vệ năm 1999 do BHXH Việt Nam chủ trì. Đề tài đã đánh giá việc tổ
chức thực hiện quy trình thu và đề xuất các giải pháp đổi mới, hoàn thiện quy trình
thu đem lại hiệu quả trong thực hiện
- Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2000: “Hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực DN ngoài Quốc doanh ở Việt
Nam”. Luận văn đã phân tích, tình hình thực hiện thu BHXH đối với các đơn
vị, doanh nghiệp ngoài nhà nước, đánh giá những thành công và tồn tại hạn
chế, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH nói
chung và khu vực DN ngoài quốc doanh nói riêng.
- Luận án Tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh (năm 2004) với đề tài “Hoàn
thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”: Luận án đã tập trung phân tích tình hình
tài chính quỹ BHXH qua các thời kỳ và đưa ra các giải pháp liên quan đến quản

lý và cân đối quỹ BHXH.
Nhìn chung các công trình, bài viết trên, dưới những góc độ tiếp cận
khác nhau đã đề cập đến vấn đề quản lý thu BHXH nói chung, trong đó quản
lý thu BHXH bắt buộc. Một số kết quả nghiên cứu về quản lý thuBHXH bắt
buộc ở từng địa phương cụ thể. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu cụ thể về quản
lý thu BHXH bắt buộc và đề xuất các giải pháp nâng cao hoạt động thu
BHXH bắt buộc tại BHXH Việt Nam dưới góc độ quản lý kinh tế. Do đó, đề
tài có tính cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý
thu BHXH, luận văn phân tích thực trạng công tác quản lý thu BHXH bắt

Footer Page 4 of 161.


Header Page 5 of 161.
5

buộc từ năm 2009 đến năm 2013, qua đó đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm hoàn thiện quản lý thu BHXH bắt buộc, đảm bảo thực hiện các quy
định của Nhà nước về BHXH có hiệu quả và phát triển sự nghiệp BHXH
một cách bền vững.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý thu BHXH
bắt buộc.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH
Việt Nam, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những hạn chế và những vấn đề
đang đặt ra hiện nay trong công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý thuBHXH

bắt buộc tại BHXH Việt Nam.
- Kiến nghị với Nhà nước bổ sung sửa đổi chính sách liên quan đến
công tác thuBHXH bắt buộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quản lý thu BHXH bắt
buộc tại BHXH Việt Nam trên 3 nội dung đối tượng tham gia BHXH, tiền
lương làm căn cứ tính đóng BHXH và nguồn thu BHXH. Luận văn không
nghiên cứu thu BHXH tự nguyện, bảo hiểm y tế…
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về công tác quản lý thu
BHXH bắt buộc tại Việt Nam từ năm 2009 – 2013. Luận văn chỉ nghiên cứu
quản lý thuBHXH bắt buộc trong phạm vi đối tượng dân sự, không nghiên
cứu đối tượng công an, quân đội, cơ yếu Chính phủ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng được đề ra trong các kỳ
Đại hội, các số liệu tổng hợp báo cáo về thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam.

Footer Page 5 of 161.


Header Page 6 of 161.
6

Tác giả sử dụng phương pháp hệ thống và khái quát hóa, có minh hoạ,
đối chiếu, so sánh, kế thừa một số công trình đã công bố có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu để đánh giá và làm sáng tỏ vấn đề cần quan tâm.
6. Những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận văn
Đề tài của luận văn nghiên cứu về một trong những nhiệm vụ thường
xuyên của ngành, đã và đang có những vấn đề đặt ra cần giải quyết, tháo gỡ
để góp phần phát triển bền vững sự nghiệp, đáp ứng được yêu cầu hiện tại cũng

như thực hiện mục tiêu "BHXH cho mọi NLĐ". Những giải pháp được đề xuất
và những kiến nghị với các cấp có thẩm quyền có thể tham khảo, vận dụng vào
thực tế công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn tập trung phân tích chi tiết, tổng hợp và đánh giá thực
trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở Việt Nam giai đoạn 2009 2013, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp thiết thực hiệu quả trong tổ
chức thực hiện, đồng thời đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn đối với
công tác quản lý thu BHXH bắt buộc, đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình
hình mới ở Việt Nam.
Đề tài có thể tham khảo, vận dụng vào thực tế công tác quản lý thu
BHXH bắt buộc ở Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.

Footer Page 6 of 161.


Header Page 7 of 161.
7

Chương1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC

1.1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc

* Khái niệm BHXH bắt buộc, các loại hình và chế độ BHXH bắt buộc.
- Khái niệm BHXH:

Hệ thống BHXH đầu tiên ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ XIX
dưới thời Thủ tướng Bismark (1883-1889) với cơ chế ba bên (Nhà nước - giới
chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho NLĐ trong một số trường
hợp họ gặp rủi ro. Chế độ BHXH này bao gồm: Chế độ bảo hiểm ốm đau
(1883); bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp (1884) và bảo hiểm tuổi già, tàn tật
(1889). Trước tác dụng tích cực của hệ thống BHXH này nhiều nước bắt đầu
áp dụng hệ thống BHXH. Trong những năm 30 của thế kỷ XX, một số nước
còn mở rộng thêm những chế độ khác ngoài BHXH và xuất hiện khái niệm
mới: An sinh, an toàn xã hội (Social Security). Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) đã có Công ước số 102 năm 1952 về ASXH. Hiện nay, trên thế giới nói
chung người ta coi BHXH là một bộ phận cấu thành của ASXH.
Ở nước ta, BHXH xuất hiện vào những năm 30 của thế kỷ XX, một số
chế độ được áp dụng khi đó là chế độ ốm đau, chế độ tai nạn, chế độ hưu trí
và cũng chỉ áp dụng cho một số đối tượng làm việc, phục vụ trong bộ máy
hành chính, quân đội của Pháp. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, tại văn bản pháp luật cao nhất đã có những quy định về BHXH, thể hiện
sự quan tâm và nhận thức của Nhà nước về vấn đề này. Tuy nhiên, do tình
hình chính trị - xã hội phức tạp khi đó cũng như những khó khăn về quỹ, về
đối tượng tham gia và hưởng BHXH… mà pháp luật BHXH chưa được áp
dụng theo nghĩa đầy đủ về mặt nội dung pháp lý cũng như xã hội của nó.

Footer Page 7 of 161.


Header Page 8 of 161.
8

Pháp luật BHXH được chính thức áp dụng rộng rãi kể từ khi Chính
phủ ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 kèm theo Điều lệ tạm
thời về BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước. Văn bản pháp luật này

điều chỉnh tất cả các vấn đề về BHXH ở nước ta trong suốt thời gian dài, từ
khi được ban hành cho đến những năm 80 của thế kỷ XX. Sau đó, với sự thừa
nhận và phát triển của nền kinh tế thị trường, pháp luật nói chung và pháp luật
BHXH nói riêng đã có sự đổi mới về chất. Điều 56 Hiến pháp năm 1992
(được sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận: “Nhà nước quy định… chế độ
BHXH đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương;
khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với NLĐ”. Trên cơ sở
đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 43/CP ngày 22/6/1993 quy định tạm
thời chế độ BHXH. Sau một thời gian thực hiện, trên cơ sở đúc rút kinh
nghiệm và từ yêu cầu của thực tế đời sống, pháp luật BHXH được xây dựng
thành một chương độc lập (chương XII) trong Bộ luật Lao động ngày
23/6/1994 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc đổi mới, cải cách chế độ BHXH.
Để cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Lao động, Chính phủ ban hành Nghị
định số 12/CP ngày 26/01/1995 kèm theo Điều lệ BHXH; Nghị định số 45/CP
ngày 15/7/1995 về việc ban hành Điều lệ BHXH đối với sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân và
Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam. Với
sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động (tháng 4/2002) trong đó có các nội dung
về BHXH, Nghị định của Chính phủ số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26/01/1995 được ban hành. Tiếp đó, trên cơ sở các cam
kết của Chính phủ Việt Nam trong việc gia nhập WTO về chính sách ASXH
cùng với sự chín muồi về nhận thức, về điều kiện kinh tế - xã hội đất nước,
nhu cầu của đời sống xã hội… ngày 29/6/2009 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội
khóa XI nước ta đã thông qua Luật BHXH và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007

Footer Page 8 of 161.


Header Page 9 of 161.

9

(riêng đối với BHXH tự nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2008; BHTN có
hiệu lực từ ngày 01/01/2009). Như vậy, việc xây dựng và phát triển pháp luật
BHXH ở nước ta luôn phản ánh và song hành với các nhu cầu của đời sống
trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Tuy nhiên, tùy theo góc độ tiếp cận khác nhau mà có những quan
niệm khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt, BHXH là sự: “Bảo đảm những
quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm
đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động…”[8,tr.36]. Theo TS. Đỗ Văn Sinh:
“BHXH là biện pháp Nhà nước sử dụng để đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm, khi họ
gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng
lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động, chết; gắn liền với quá trình
tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham
gia BHXH đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm
ổn định đời sống cho họ và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã
hội” [20, tr.14].
Kể từ khi xuất hiện đến nay, BHXH luôn phát huy tác dụng trong
những lúc NLĐ gặp khó khăn hiểm nghèo do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, tuổi già… trên cơ sở những cam kết đóng góp của NLĐ và người
SDLĐ cho một bên thứ ba (cơ quan bảo hiểm) trước khi xảy ra những biến cố
đó. Tuy nhiên, BHXH không trực tiếp chữa bệnh cho người tham gia BHXH
khi họ ốm đau, tai nạn, sắp xếp việc làm cho người mất việc làm… mà chỉ
giúp họ giữ thăng bằng phần thu nhập bị giảm hay bị mất hoặc giúp họ trang
trải phần chi tiêu bị tăng cao đột xuất do gặp các rủi ro nói trên.
Vì vậy,BHXH là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập
nhằm đảm bảo cuộc sống cho NLĐ khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
Sở dĩ khái niệm BHXH được tiếp cận với những nội dung đa dạng
như trên bởi trước khi có Luật BHXH thì không có văn bản pháp lý nào quy


Footer Page 9 of 161.


Header Page 10 of 161.
10

định một cách cụ thể và chính thức về vấn đề này, hơn nữa sự đa dạng đó còn
được giải thích bởi góc độ tiếp cận và nhu cầu nghiên cứu khác nhau. Hiện
nay, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật BHXH thì BHXH được định
nghĩa như sau: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ BHXH”.[15, tr.2].
* Khái niệm BHXH bắt buộc
BHXH bắt buộc là loại hình BHXH mà NLĐ và NSDLĐ phải tham gia.
Mặc dù là loại hình bắt buộc nhưng xét về bản chất nội hàm hai ý nghĩa:
Một là, BHXH mang tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc.
Tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn trong các chế độ BHXH quy
định bản chất củaBHXH, đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên
của ḿnh thông qua một loạt các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những
khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết;
đồng thời đảm bảo các chăm sóc và trợ cấp cho các gia đình đông con. Đối
với các rủi ro như trên, nhiều khi từng cá nhân không đủ khả năng tài chính để
khắc phục, do vậy Nhà nước ban hành các quy định để huy động mọi người
trong xã hội đóng góp một khoản nhất định cùng với Nhà nước hình thành
quỹ BHXH để chi trả cho một số người gặp rủi ro cần khắc phục hay do điều
kiện sinh học như tuổi tác, môi trường sống, điều kiện làm việc mà NLĐ phải
nghỉ làm việc, khi đó cần có một khoản kinh phí để đảm bảo cuộc sống cho

chính bản thân và gia đình họ.
Mục tiêu của BHXH là tạo ra màng lưới an toàn gồm nhiều tầng,
nhiều lớp bảo vệ cho tất cả các thành viên của cộng đồng trong những trường
hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi
tiêu của gia đình do những biến cố hoặc những "rủi ro xã hội". Vì vậy, để tạo

Footer Page 10 of 161.


Header Page 11 of 161.
11

ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, BHXH phải dựa trên nguyên tắc
san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực hiện bằng nhiều
hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau.Có thể thấy rõ bản chất
của BHXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các thành viên của xã hội trước mọi
biến cố xã hội bất lợi. BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân văn cao đẹp: mọi người
trong xã hội với tư cách là một công dân, họ phải được đảm bảo mọi mặt để
phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội,
chủng tộc, tôn giáo...đều bình đẳng về BHXH.
Hai là, BHXH là một công cụ để quản lý xã hội, là sự bảo đảm của Nhà
nước để ổn định đời sống cho người tham gia BHXH và an toàn xã hội, thúc đẩy
sản xuất phát triển. Đồng thời đây là quá trình phân phối lại thu nhập xã hội.
BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng, song hành cùng
với chính sách kinh tế, nhằm bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho mọi
NLĐ, chống các tệ nạn xã hội, góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Với tư cách là công cụ để quản lý xã hội, Nhà nước quy định quyền và
trách nhiệm giữa các bên tham gia BHXH, đặc biệt mối quan hệ giữa NLĐ và
NSDLĐ; yêu cầu NSDLĐ phải thực hiện những cam kết, đảm bảo điều kiện
làm việc, nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần cho NLĐ, trong đó có nhu

cầu cơ bản về tiền lương, tiền công, chăm sóc sức khoẻ khi bị ốm đau, tai
nạn... Đây là những ràng buộc mang tính nguyên tắc và thông qua đó Nhà
nước thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. BHXH dựa trên sự đóng góp của
các bên tham gia, gồm NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước trong một số trường hợp,
thực chất quỹ BHXH là quỹ của NLĐ tiết kiệm được, bất luận trong hoàn
cảnh nào Nhà nước phải đứng sau hỗ trợ, duy trì, bảo toàn để thực hiện các
chế độ trợ cấp cho NLĐ, nếu không thì xã hội sẽ mất ổn định, kinh tế sẽ trì
trệ. Ngược lại, nếu quỹ BHXH được hình thành và phát triển lớn mạnh sẽ có
khoản nhàn rỗi để đầu tư trở lại giúp cho sản xuất phát triển.

Footer Page 11 of 161.


Header Page 12 of 161.
12

BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập xã hội. Đây là quá trình
phân phối lại theo hướng có lợi cho người tham gia BHXH khi gặp phải rủi ro
trong lao động sản xuất và đời sống xã hội, vì chính việc tổ chức thu, chi
BHXH là quá trình thực hiện phân phối lại thu nhập: Thu BHXH dựa trên cơ
sở mức tiền lương, tiền công do Nhà nước quy định và mỗi người tham gia có
một mức đóng BHXH khác nhau tương ứng với mức tiền lương, tiền công đó;
hằng năm Nhà nước còn trích một khoản nhất định từ Ngân sách để hỗ trợ
quỹ BHXH. Chi BHXH là việc trả tiền cho người có nhu cầu phát sinh về
BHXH dựa trên mức đóng và thời gian đóng BHXH trong chế độ dài hạn,
nhưng trong chế độ ngắn hạn thì không dựa trên nguyên tắc này mà có sự chia
sẻ giữa người khoẻ cho người ốm, người trẻ cho người già.
* Các loại hình BHXH
Hiện nay, có hai loại hình BHXH cơ bản:
- BHXH bắt buộc

- BHXH tự nguyện
* Các chế độ bảo hiểm xã hội
Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy
định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện
BHXH đối với NLĐ. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được
pháp luật hoá về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng
trường hợp BHXH cụ thể.
Hiện nay, tồn tại 9 chế độ BHXH, song tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, mà số lượng các chế độ được thực
hiện ở mỗi nước khác nhau. Ở nước ta, Điều 4 Luật BHXH quy định rõ các
chế độ BHXH, gồm:
- BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây:
+ Ốm đau;
+ Thai sản;

Footer Page 12 of 161.


Header Page 13 of 161.
13

+ Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
+ Hưu trí;
+ Tử tuất.
- BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây:
+ Hưu trí;
+ Tử tuất.
- BHTN bao gồm các chế độ sau đây:
+ Trợ cấp thất nghiệp;
+ Hỗ trợ học nghề;

+ Hỗ trợ tìm việc làm.
Nội dung của các chế độ nêu trên được quy định thống nhất trong Luật
BHXH. Mỗi một chế độ được xây dựng đều căn cứ vào những cơ sở như:
điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường lao động, điều kiện sinh học…
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thu bảo hiểm xã hội bắt buộc

* Khái niệm thu BHXH bắt buộc:
Khi nói đến thu BHXH là nói đến các mối quan hệ khăng khít, bao
gồm quan hệ giữa Nhà nước, NSDLĐ, NLĐ và cơ quan BHXH. Trong mối
quan hệ này thì NLĐ, NSDLĐ là đối tượng quản lý; Nhà nước giao cho cơ
quan BHXH chủ thể quản lý; Nhà nước là chủ thể duy nhất điều tiết và quản
lý BHXH vì các bên tham gia có lợi ích khác nhau thậm chí trái ngược nhau
(NLĐ muốn đóng ít nhưng lại muốn được hưởng thụ quyền lợi nhiều,
NSDLĐ muốn đóng BHXH càng ít càng tốt để giảm chi phí sản xuất nâng
cao lợi nhuận). Nhà nước với hai tư cách: một là, thông qua cơ quan lập pháp
(Quốc hội) đề ra Luật BHXH, thông qua Chính phủ đề ra các quy định về
BHXH; hai là, thông qua các cơ quan nhà nước để thực hiện nộp BHXH cho
NLĐ hưởng lương từ NSNN và thành lập cơ quan chuyên trách (BHXH Việt
Nam) thực hiện chính sách BHXH. Để thực hiện thu BHXH đảm bảo theo
đúng các quy định của Nhà nước, cơ quan BHXH phải xây dựng biện pháp,

Footer Page 13 of 161.


Header Page 14 of 161.
14

kế hoạch, tổ chức các thao tác nghiệp vụ, phối hợp với các đơn vị liên quan và
hình thành hệ thống chuyên thu từ Trung ương đến cấp huyện, thực hiện theo
một quy trình chặt chẽ, khép kín. Như vậy, trong hoạt động thu BHXH, mối

quan hệ ba bên là NLĐ, NSDLĐ và cơ quan BHXH được xác lập quyền và
trách nhiệm của mỗi bên do pháp luật về BHXH quy định, các quy định này là
những căn cứ pháp lý mà mỗi bên phải tuân thủ, thực hiện nghiêm túc. Mặt khác
để thu đúng, đủ, kịp thời, không để thất thoát tiền thu, đòi hỏi cơ quan BHXH phải
có phương pháp và biện pháp hữu hiệu, kể các các biện pháp hỗ trợ. Thu BHXH
là một khái niệm phức hợp, bao gồm các định hướng, chủ trương, phương pháp và
biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, chỉ đạo, khuyến khích đẩy
mạnh công tác thu BHXH.
Như vậy, thu BHXH bắt buộc là sự tác động của Nhà nước thông qua các
quy định mang tính pháp lý bắt buộc các bên tham gia BHXH phải tuân thủ thực
hiện; trong đó cơ quan BHXH sử dụng các biện pháp nghiệp vụ và các phương
pháp đặc thù tác động trực tiếp vào đối tượng đóng BHXH để đạt mục tiêu đề ra.
* Các đối tượng thu bảo hiểm xã hội
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi
do NLĐ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân
như ốm đau, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu
nhập của NLĐ bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm của những NLĐ tham gia BHXH. Còn đối tượng tham gia
BHXH là NLĐ và người SDLĐ. Tuy vậy, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những
NLĐ nào đó.
Ở nước ta, Điều 2, Luật BHXH quy định đối tượng áp dụng như sau:
NLĐ tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm:
- Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;

Footer Page 14 of 161.


Header Page 15 of 161.
15


- Cán bộ, công chức, viên chức;
- Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người
làm cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;
- Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an
nhân dân phục vụ có thời hạn;
- Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH
bắt buộc.
Người SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: Cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác,
tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho NLĐ.
* Chủ thể thu BHXH
Theo Nghị định số 19-CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành
lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH hiện nay ở Trung
ương và địa phương; Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt
Nam; Nghị định số 94/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam,
BHXH Việt nam có nhiệm vụ tổ chức thu BHXH theo quy định của Chính phủ.
BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung,
thống nhất từ Trung ương đến địa phương, gồm có:
+ Ở Trung ương là BHXH Việt Nam.
+ Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là BHXH tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là BHXH tỉnh) trực thuộc BHXH Việt Nam.

Footer Page 15 of 161.



Header Page 16 of 161.
16

+ Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là BHXH huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là BHXH huyện) trực thuộc
BHXH tỉnh.
* Đặc điểm thu BHXH bắt buộc
- Số đối tượng phải thu rất lớn và gia tăng theo thời gian nên thu BHXH
rất khó khăn và phức tạp.
Theo quy định của Luật BHXH, số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
rất lớn. Do đó, quản lý thu BHXH phải đảm bảo để tất cả các đối tượng thuộc
diện phải tham gia BHXH đều phải tham gia BHXH nhằm bảo đảm quyền lợi
cho NLĐ.
- Thu BHXH mang tính chất định kỳ, lặp đi lặp lại, do đó khối lượng
công việc rất lớn, đòi hỏi nguồn nhân lực và cơ sở vật chất phục vụ cho thu cũng
phải tương ứng.
Theo quy định, hàng tháng, khi có phát sinh tăng giảm lao động hoặc
tiền lương, chủ SDLĐ lập danh sách gửi cơ quan BHXH để được tăng, giảm kịp
thời. Số đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng đòi hỏi nguồn nhân lực, cơ
sở vật chất phục vụ quản lý phải phù hợp. Chỉ có như vậy thì quản lý thu BHXH
mới đảm bảo kịp thời và chính xác.
- Đối tượng thu là tiền nên dễ xảy ra sai phạm, vi phạm đạo đức và lạm
dụng quỹ BHXH.
Theo quy định, chậm nhất đến ngày cuối cùng của tháng, đơn vị trích
tiền đóng BHXH bắt buộc trên quỹ tiền lương, tiền công tháng của những NLĐ
tham gia BHXH bắt buộc, đồng thời trích từ tiền lương, tiền công tháng đóng
BHXH bắt buộc của từng NLĐ theo mức quy định, chuyển cùng một lúc vào tài
khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc nhà nước.

Trong thực tế hiện nay, số đơn vị thực hiện theo đúng quy định này không nhiều,
một số đơn vị còn nộp chậm BHXH, do vậy đòi hỏi trong thu BHXH phải sát
sao, kịp thời.

Footer Page 16 of 161.


Header Page 17 of 161.
17

* Vai trò của thu BHXH bắt buộc
Thứ nhất, vai trò của thu BHXH trong việc tạo lập quỹ BHXH và thực
hiện chính sách BHXH.
Thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH
nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt tập trung, thống nhất. Qua đó,
đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH nói
chung và giữa những người tham gia BHXH nói riêng.
Thu BHXH ở hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến chi và quá trình thực hiện
chính sách BHXH trong tương lai. BHXH cũng như các loại hình bảo hiểm khác
đều dựa trên cơ sở nguyên tắc có đóng có hưởng BHXH đã đặt ra yêu cầu đối
với thu nộp BHXH. Nếu không thu được BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn
để chi trả các chế độ BHXH cho NLĐ. Do đó, thu BHXH đóng một vai trò
quyết định, then chốt trong quá trình đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ.
Thứ hai, vai trò của thu BHXH trong mối quan hệ giữa các bên
trong BHXH.
Để thực hiện chính sách BHXH thuận lợi thì thu BHXH có vai trò như
một điều kiện cần và đủ. Bởi thu BHXH là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản
nhất trong quá trình tạo lập quỹ BHXH. Đồng thời thu BHXH cũng là một khâu
bắt buộc đối với NLĐ và người SDLĐ tham gia BHXH.
Thứ ba, vai trò của thu BHXH trong việc đảm bảo sự công bằng

trong BHXH.
BHXH không nhằm mục đích kinh doanh, không vì lợi nhuận, nhưng
phân phối trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân
phối lại thu nhập. BHXH dựa trên nguyên tắc NLĐ bình đẳng trong nghĩa vụ
đóng góp và hưởng quyền lợi BHXH thông qua hoạt động của mình. BHXH
tham gia vào phân phối và phân phối lại thu nhập xã hội giữa những NLĐ thế hệ
trước với thế hệ sau, giữa những ngành nghề sản xuất, giữa những người thu
nhập cao và người có thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh, may mắn có

Footer Page 17 of 161.


Header Page 18 of 161.
18

việc làm ổn định và những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong
lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt
khoảng cách giữa người giàu và người nghèo đồng thời góp phần thực hiện công
bằng xã hội.
Thu BHXH là khâu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để BHXH thực hiện
được vai trò vừa nêu. Bởi lẽ, thu BHXH đảm bảo nguồn lực để thực thi chính
sách BHXH. Bên cạnh đó, ngoài việc đảm bảo cho quỹ BHXH tập trung về một
mối, thu BHXH còn đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người
tham gia BHXH ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương hoặc trên phạm vi toàn quốc.
Bởi thu BHXH cũng được tổ chức tập trung, thống nhất, có sự ràng buộc chặt chẽ
từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính, đảm bảo độ chính xác
trong ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan đơn vị cũng như của từng
NLĐ. Hơn nữa, hoạt động thu BHXH là hoạt động có tính kế thừa, số thu BHXH
một phần dựa trên số lượng người và số tiền lương, tiền công tham BHXH để tạo
lập lên quỹ BHXH - nguồn lực để thực hiện chính sách BHXH.

1.2. QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC

1.2.1. Khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc

* Khái niệm quản lý thu BHXH
Xuất phát từ khái niệm của quản lý: "Quản lý là sự tác động có tổ
chức có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt
mục tiêu đã đề ra". Như vậy, quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng
đích, có xác định mục tiêu, thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể quản lý
(quản lý, điều khiển) và đối tượng quản lý (chịu sự quản lý), đây là quan hệ
giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, không đồng cấp và có tính bắt buộc. Nó diễn
ra trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người với nhiều cấp độ, nhiều mối
liên hệ với nhau. Đối với hoạt động BHXH thì quản lý được bao gồm cả
quản lý các đối tượng tham gia và thụ hưởng, quản lý thu, quản lý chi trả và
quản lý nguồn quỹ từ đầu tư tăng trưởng.

Footer Page 18 of 161.


Header Page 19 of 161.
19

Để quản lý thu BHXH đảm bảo theo đúng các quy định của Nhà nước,
cơ quan BHXH phải xây dựng biện pháp, kế hoạch, tổ chức các thao tác
nghiệp vụ, phối hợp với các cơ quan hữu trách và hình thành hệ thống chuyên
thu từ Trung ương đến cấp huyện, thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, khép
kín. Như vậy, trong quản lý thu BHXH, mối quan hệ ba bên là NLĐ, NSDLĐ
và cơ quan BHXH được xác lập quyền và trách nhiệm của mỗi bên do pháp
luật về BHXH quy định.Các quy định này là những căn cứ pháp lư mà mỗi
bên phải tuân thủ, thực hiện nghiêm túc. Mặt khác để thu đúng, đủ, kịp thời,

không để thất thoát tiền thu, đòi hỏi cơ quan BHXH phải có phương pháp và
biện pháp hữu hiệu, kể cả các biện pháp hỗ trợ. Như vậy, Quản lý thu BHXH
là một quá trình chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý, trong hoạt
động dự báo, xây dựng chỉ tiêu kế hoạch, tổ chức thực hiện, điều chỉnh và
kiểm tra để đạt được mục tiêu quản lý bằng các nguyên tắc và phương pháp
nhất định.
Quản lý thu BHXH được khái quát: Quản lý thu BHXH là sự tác động
của Nhà nước thông qua các quy định mang tính pháp lư bắt buộc các bên
tham gia BHXH phải tuân thủ thực hiện; trong đó cơ quan BHXH sử dụng
các biện pháp nghiệp vụ và các phương pháp đặc thù tác động trực tiếp vào
đối tượng đóng BHXH để đạt mục tiêu đề ra.
* Nguyên tắc thu BHXH bắt buộc
Thứ nhất, thu đúng, đủ, kịp thời: Thu đúng, là đúng đối tượng, đúng
mức, đúng tiền lương, tiền công và đúng thời gian quy định: mọi NLĐ khi có
HĐLĐ hoặc giao kết lao động theo quy định, được trả công bằng tiền đều là đối
tượng đóng BHXH bắt buộc. Việc xác định đúng đối tượng, đúng tiền lương,
tiền công làm căn cứ đóng BHXH của NLĐ là cơ sở quan trọng để đảm bảo thu
đúng; việc thu đúng còn phụ thuộc vào tính chất hoạt động của đơn vị sử dụng
lao động để xác định đúng đối tượng, mức thu, phương thức thu.

Footer Page 19 of 161.


Header Page 20 of 161.
20

Thu đủ, là thu đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và số
tiền phải đóng BHXH của NLĐ, NSDLĐ.
Thu kịp thời, là thu kịp về thời gian khi có phát sinh quan hệ lao động,
tiền công, tiền lương mà những quan hệ đó thuộc đối tượng, phạm vi tham gia

BHXH. Chế độ BHXH thường xuyên thay đổi để phù hợp với phát triển kinh
tế- xã hội từng thời kỳ, ở mỗi thời điểm thay đổi đó cần phải tổ chức thực
hiện thu BHXH của NSDLĐ và NLĐ đảm bảo kịp thời, không để tồn đọng
tiền thu, không bỏ sót lao động tham gia BHXH.
Thứ hai, tập trung, thống nhất, công bằng, công khai: Cơ chế thu
BHXH được quy định thống nhất, nguồn thu BHXH tập trung quản lý, điều
tiết ở Trung ương là BHXH Việt Nam. Việc tham gia BHXH của NLĐ,
NSDLĐ đảm bảo công khai, thực hiện công bằng ở các thành phần kinh tế.
Các đơn vị tham gia BHXH đều phải công khai minh bạch số lao động phải
đóng BHXH và số tiền đóng theo đúng quy định, có sự kiểm tra, thanh tra,
kiểm soát của Nhà nước và giám sát của các cơ quan chức năng và các tổ
chức chính trị-xã hội. Tính công bằng được thể hiện trong việc thu nộp
BHXH, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tức là đều có tỷ
lệ phần trăm thu BHXH như nhau.
Thứ ba, hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần: Quỹ ốm đau và
thai sản, quỹ TNLĐ-BNN, quỹ hưu trí và tử tuất (của BHXH bắt buộc), quỹ
BHXH tự nguyện, quỹ BHTN được hạch toán độc lập theo các quỹ thành
phần. Chỉ có như vậy mới đảm bảo sự an toàn và cân đối lâu dài của quỹ
BHXH. Mặt khác, nguyên tắc này cũng nhằm tạo cơ sở điều chỉnh tỷ lệ đóng
đối với từng quỹ, đảm bảo phù hợp với từng giai đoạn.
Thứ tư, an toàn, hiệu quả: Thực hiện quản lý chặt chẽ tiền thu BHXH
theo chế độ quản lý tài chính của Nhà nước và sử dụng nguồn thu đúng mục
đích. Nguồn thu BHXH do được tồn tích cộng đồng, nên thường có khối lượng
tiền nhàn rỗi tương đối lớn chưa sử dụng cần được đầu tư tăng trưởng, vừa nâng

Footer Page 20 of 161.


Header Page 21 of 161.
21


cao hiệu quả sử dụng, vừa an toàn tiền thu BHXH về mặt giá trị do các yếu tố
trượt giá. Vì vậy, thông qua cơ chế quản lý nghiêm ngặt về thu BHXH để tránh
lạm dụng, thất thoát; đồng thời nghiên cứu các lĩnh vực đầu tư để đảm bảo thu
hồi được vốn và có lãi, tức là hiệu quả sử dụng nguồn thu.
1.2.2. Nội dung quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc

Quản lý thu BHXH bao gồm các yếu tố chủ yếu như quản lý đối
tượng tham gia, tiền lương làm căn cứ đóng và nguồn tiền thu...các yếu tố trên
có liên kết chặt chẽ trong suốt quá trình tổ chức thực hiện.
* Quản lý đối tượng tham gia BHXH
Việc xác định đúng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là nội dung
quan trọng trong quản lý thu BHXH. Luật BHXH đã quy định các đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc, việc xác định cụ thể đối tượng thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc trong quá trình triển khai thực hiện phải có những quy định
pháp lý về thủ tục, đối tượng bao gồm NLĐ và NSDLĐ.
- Căn cứ xác định để quản lý đối tượng là NLĐ tham gia BHXH bắt
buộc bao gồm hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, quyết định bổ nhiệm
vào ngạch công chức, bảng chấm công, bảng thanh toán lương hàng tháng
hoặc theo hình thức khoán công việc...
- Căn cứ xác định để quản lý đối tượng là NSDLĐ tham gia BHXH
bắt buộc bao gồm quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
giấy chứng nhận đầu tư...cho cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp...của cơ quan có thẩm quyền ban hành theo quy
định của pháp luật.
* Quản lý quỹ tiền lương làm căn cứ tính đóng tiền BHXH bắt buộc
Bên cạnh yếu tố lao động, việc xác định số phải thu BHXH là phải căn
cứ vào tiền lương và tỷ lệ đóng. Trên cơ sở tính toán cho từng cá nhân NLĐ
tham gia để tổng hợp thành tổng quỹ tiền lương của đơn vị. Hệ thống tiền
lương để làm căn cứ đóng BHXH gồm 2 loại:


Footer Page 21 of 161.


Header Page 22 of 161.
22

- Tiền lương do Nhà nước quy định: NLĐ thuộc đối tượng thực hiện
chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương tháng làm căn cứ đóng
BHXH bắt buộc là tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản
phụ cấp: chức vụ, thâm niên vượt khung, thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương
này tính trên cơ sở mức tiền lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
Tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc bao gồm cả hệ số chênh lệch
bảo lưu theo quy định của pháp luật về tiền lương, tiền công.
- Tiền lương, tiền công do đơn vị quyết định:
NLĐ thực hiện chế độ tiền lương do đơn vị quyết định thì tiền lương,
tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc là mức tiền lương, tiền công ghi trên
hợp đồng lao động.
NLĐ có tiền lương, tiền công tháng ghi trên hợp đồng lao động bằng
ngoại tệ thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc được tính
bằng đồng Việt Nam trên cơ sở tiền lương, tiền công bằng ngoại tệ được
chuyển đổi bằng đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời
điểm ngày 02 tháng 01 cho 6 tháng đầu năm và ngày 01 tháng 7 cho 6
tháng cuối năm. Đối với ngoại tệ mà Ngân hàng Nhà nước không công bố
tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng thì áp dụng tỷ giá chéo của Đồng
Việt Nam so với ngoại tệ đó áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu do Ngân
hàng Nhà nước công bố tại thời điểm ngày 02 tháng 01 cho 6 tháng đầu
năm và ngày 01 tháng 7 cho 6 tháng cuối năm. Trường hợp trùng vào ngày
nghỉ mà Ngân hàng Nhà nước chưa có công bố thì được lấy tỷ giá của ngày

tiếp theo liền kề.
NLĐ là quản lý DN thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt
buộc là mức tiền lương do Điều lệ của công ty quy định.
Mức tiền lương, tiền công đóng BHXH bắt buộc không thấp hơn mức
lương tối thiểu chung hoặc mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng: NLĐ

Footer Page 22 of 161.


Header Page 23 of 161.
23

đã qua học nghề (kể cả lao động do DN dạy nghề) thì tiền lương, tiền công
đóng BHXH bắt buộc phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu
vùng, nếu làm công việc nặng nhọc độc lại thì cộng thêm 5%.
Mức tiền lương, tiền công đóng BHXH bắt buộc quy định tại Điều này
mà cao hơn 20 tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng
đóng BHXH bắt buộc bằng 20 tháng lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
Trên cơ sở mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc hàng
tháng, đơn vị DN nhân với số người tham gia để quản lý quỹ tiền lương chung.
* Quản lý tiền thu BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập với NSNN, được quản lý thống
nhất theo chế độ tài chính của nhà nước, quỹ BHXH là hạt nhân của hoạt
động BHXH. Do đó cần phải quản lý chặt chẽ những nguồn thu của BHXH,
bên cạnh đó cũng phải tăng cường quản lý đối với số tiền BHXH thu được để
hình thành quỹ.
Quỹ BHXH được hình thành từ một số nguồn chủ yếu như: đóng góp
của NLĐ và NSDLĐ; tăng trưởng từ hoạt động đầu tư quỹ và các nguồn thu
hợp pháp khác. Trong các nguồn trên thì thu từ sự đóng góp của NLĐ và
NSDLĐ chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu.

Với yêu cầu quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất, vì vậy tất
cả các nguồn thu đều phải tiến hành chuyển về quỹ BHXH. Để tổ chức thực
hiện có hiệu quả, hệ thống BHXH từ trung ương đến địa phương mở tài khoản
chuyên thu ở kho bạc nhà nước và ngân hàng. Về hình thức thu gồm chuyển
khoản hoặc tiền mặt; BHXH các tỉnh, thành phố và quận, huyện, thị xã định
kỳ chuyển tiền về cơ quan cấp trên và tập trung thống nhất ở cơ quan cao nhất
của ngành là BHXH Việt Nam. Về nguyên tắc trong quá trình thu và lưu
chuyển tiền thì BHXH địa phương không được sử dụng tiền thu vào bất cứ
mục đích gì khác, việc quy định như vậy nhằm tránh những thất thoát tiền và
đảm bảo quy định trong quản lý.

Footer Page 23 of 161.


Header Page 24 of 161.
24

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc

* Chính sách tiền lương
Giữa chính sách tiền lương và chính sách BHXH nói chung, thu
BHXH nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chính sách tiền lương làm
cơ sở cho việc thực hiện chính sách BHXH. Khi Nhà nước điều chỉnh lương
tối thiểu chung, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng mức đóng BHXH và
đương nhiên số thu BHXH cũng tăng lên. Từ năm 1990 đến năm 2010, với 10
lần tăng lương tối thiểu chung từ 120.000 đồng lên 1.150.000 đồng thì số thu
BHXH hằng năm tăng theo tiền lương tối thiểu.
* Tuổi nghỉ hưu
Tuổi nghỉ hưu là nhân tố tác động trực tiếp và chủ yếu đến quỹ BHXH
về mặt lý luận do chính sách tinh giảm biên chế và do có số đông lao động nghỉ

hưu trước tuổi, được giảm tuổi có thời gian làm việc trong môi trường nặng
nhọc, độc hại hoặc người không đủ sức khỏe để tiếp tục tham gia lao động.
Theo quy định hiện hành tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60, nữ là 55.
Ngoài ra, có quy định riêng với một số trường hợp về hưu ở tuổi 50 hoặc 55
đối với nam và 45 hoặc 50 đối với nữ. Những lao động làm việc trong các
nghề đặc biệt nặng nhọc, độc hại thì nghỉ hưu không phụ thuộc vào tuổi đời
mà chỉ phụ thuộc vào thời gian đóng BHXH.
Việc tăng hoặc giảm tuổi nghỉ hưu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cung
cầu lao động xã hội. Đối với quỹ BHXH nói chung và số thu BHXH nói riêng
sẽ bị ảnh hưởng xấu nếu giảm tuổi nghỉ hưu. Bởi vì, khi giảm 5 tuổi nghỉ hưu
sẽ tương ứng giảm thời gian đóng BHXH 5 năm. Theo tính toán mỗi năm một
người về nghỉ hưu trước tuổi Nhà nước phải bù 10,8 tháng lương.
* Chính sách lao động và việc làm
NLĐ là đối tượng tham gia BHXH, họ là những người trong độ tuổi
lao động, là những người trực tiếp tạo ra của cải xã hội. Như vậy nếu một

Footer Page 24 of 161.


Header Page 25 of 161.
25

quốc gia có dân số “già” tức là số người trong độ tuổi lao động thấp so với
tổng số dân sẽ dẫn đến việc mất cân đối quỹ BHXH, bởi vì số người tham gia
đóng góp ngày càng ít, trong khi số người hưởng các chế độ BHXH, đặc biệt
là chế độ hưu trí ngày càng tăng. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay với
số người trong độ tuổi lao động ước tính xấp xỉ 49,81 triệu người (chiếm
khoảng 56,7% tổng số dân).
Chính sách lao động, việc làm có ảnh hưởng lớn đến khu vực kinh tế
ngoài nhà nước và ảnh hưởng trực tiếp đến việc tham gia đóng BHXH của

NLĐ và NSDLĐ, vì:
- Khi Nhà nước chú trọng đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động
trên các phương diện về chuyên môn, kỹ năng hành nghề, kỹ năng ứng xử,
giao tiếp, tác phong làm việc hiện đại, chuyên nghiệp, ý thức chấp hành kỷ
luật lao động và pháp luật...điều đó sẽ giúp cho thị trường lao động có nguồn
lao động chất lượng cao, các DN sẽ đỡ được một phần chi phí trong công tác
đào tạo. Lực lượng lao động này sẽ có cơ hội tìm được việc làm ổn định và thu
nhập cao (chất lượng lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với thu nhập) tác động trực
tiếp làm tăng số lao động tham gia BHXH và do đó làm tăng mức đóng BHXH.
- Việc ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn trong
toàn xã hội để giải quyết việc làm sẽ làm chuyển dịch cơ cấu lao động, số
người làm công ăn lương sẽ tăng lên cũng là lý do làm tăng tỷ trọng lao động
xã hội tham gia BHXH.
- Việc phát triển thị trường lao động, hình thành hệ thống thông tin thị
trường việc làm là yếu tố quan trọng giúp cho NLĐ dễ dàng tìm việc phù hợp
với chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề của mình; đồng thời có quyền lựa chọn
những đơn vị thực hiện đầy đủ quyền lợi của NLĐ và thu nhập cao; chủ sử
dụng lao động cũng thuận tiện hơn trong việc tuyển dụng lao động, tiết kiệm
thời gian và chi phí.

Footer Page 25 of 161.


×