Tải bản đầy đủ (.doc) (180 trang)

Bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên qua việc giảng dạy môn lôgíc học trong các trường đại học sư phạm hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.17 KB, 180 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Năng lực tư duy lôgíc biểu hiện sức mạnh trí tuệ của con người, là
công cụ sắc bén để nhận thức và cải tạo hiện thực. Trong thời đại ngày nay,
dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự
phát triển của kinh tế tri thức, vai trò của năng lực tư duy lôgíc lại càng được
tăng lên.
Chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới
nhằm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Để thực hiện được mục tiêu này cần huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực của đất nước, trong đó vai trò đặc biệt quan trọng thuộc về
nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, nguồn nhân
lực ấy không sắn có mà phải được chuẩn bị, đào tạo từ ghế nhà trường các
cấp, phải được bồi dưỡng và rèn luyện trong thực tiễn hết sức sôi động của
thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực cho đất nước là nhiệm vụ của toàn xã hội, nhưng trước hết là nhiệm vụ
của ngành giáo dục và đào tạo, của đội ngũ nhà giáo. Chính vì thế mà Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta khẳng định: “Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tẳng và động lực
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

1


Nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, rèn luyện để trở thành những
người giáo viên - lực lượng nòng cốt, chủ yếu của sự nghiệp “trồng người”,
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, sinh viên


sư phạm cần được trang bị về mọi mặt, đặc biệt là năng lực tư duy lôgíc. Đây
là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sinh viên sư phạm chiếm lĩnh tri thức khoa
học, rèn luyện phương pháp dạy học và nghiệp vụ chuyên môn của mình để
rồi sau này truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo dục họ trở thành những
chủ nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên, sinh viên sư phạm hiện nay bộc
lộ sự yếu kém về năng lực tư duy lôgíc, do đó, việc tiếp nhận và rèn luyện
chuyên môn nghiệp vụ sư phạm đạt kết quả chưa cao. Trong nhà trường phổ
thông, đội ngũ giáo viên gữ một vị trí, vai trò hết sức quan trọng, trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ đào tạo những con người có những phẩm chất cơ bản của
con người hiện đại cả về mặt đạo đức lẫn về mặt tài năng và trí tuệ. Họ mang
trong mình một trọng trách lớn lao, không chỉ là người truyền thụ tri thức
khoa học, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống mà còn là người giáo dục
phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, rèn luyện trí thông minh cho
học sinh. Tuy nhiên, chất lượng của đội ngũ này chưa cao, nhất là đang còn
yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ sư phạm cũng như năng lực tư duy lôgíc.
Do đó, bên cạnh nhiệm vụ đào tạo con người có phẩm chất chính trị, đạo đức,
tâm huyết với nghề, có kiến thức và nghiệp vụ sư phạm, các cơ sở đào tạo cần
chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện cho sinh viên năng lực tư duy lôgíc. Bồi
dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm là mục tiêu,
nhiệm vụ cơ bản của các trường, các khoa sư phạm, của ngành Giáo dục và
Đào tạo, cũng như của toàn xã hội.
Sự hình thành và phát triển năng lực tư duy lôgíc của sinh viên phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như yếu tố di truyền, yếu tố truyền thống,

2


quá trình học tập và rèn luyện, môi trường xã hội... trong đó, giảng dạy lôgíc
học có vị trí, vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, giảng dạy lôgíc trong các
trường đại học, cao đẳng sư phạm hiện nay còn có những hạn chế nhất định,

chưa phát huy được vai trò của mình vào việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực
tư duy lôgíc cho sinh viên.
Vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là, chúng ta cần nghiên cứu một cách
sâu sắc vấn đề bản chất năng lực tư duy lôgíc, vai trò của giảng dạy lôgíc học
trong việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm,
làm rõ những vấn đề đặt ra và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò
của giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc
cho những sinh viên này. Đây là vấn đề quan trọng, hết sức cần thiết đang đặt
ra trong quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo nói chung, đổi mới giảng dạy
lôgíc học nói riêng ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Để góp phần
nhận thức và giải quyết vấn đề này, nhóm tác giả chọn vấn đề: “Bồi dưỡng,
rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên qua việc giảng dạy môn lôgíc
học trong các trường đại học sư phạm hiện nay ” làm đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề tư duy lôgíc, năng lực tư duy lôgíc luôn là đối tượng thu hút sự
quan tâm của các nhà khoa học, được các tác giả trong và ngoài nước đề cập
đến dưới nhiều góc độ khác nhau.
Chúng ta từng biết đến các tác giả nổi tiếng của Liên xô trước đây với
những công trình nghiên cứu tầm cỡ, có giá trị khoa học. Chẳng hạn,
I.X.Narxki, Gorxki: “Phép biện chứng của nhận thức khoa học”, Mátxcơva,
1978; M.M.Rôdentan: “Nguyên lý lôgic biện chứng”, Trường Đảng cao cấp
3


Nguyễn Ái Quốc, 1979; I.D.Anđriep: “Lôgíc biện chứng”, Mátxcơva, 1985;
A.P.Séptulin: “Phương pháp nhận thức biện chứng”, Nxb Sách giáo khoa Mác
- Lênin, Hà Nội, 1978; E.V.Ilencôv: “Lôgíc học biện chứng”, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.v.v... Các công trình nghiên cứu này đề cập đến
những vấn đề cốt lõi của lôgíc học duy vật biện chứng, như vấn đề phép biện
chứng, vấn đề nhận thức luận, vấn đề lôgíc học.v.v... Đây là cơ sở lý luận và

phương pháp luận cơ bản để nghiên cứu vấn đề năng lực tư duy lôgíc.
Vấn đề tư duy được đề cập đến trong những công trình nghiên cứu của
các tác giả nước ta: “Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ” của các tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998. Các tác giả đã nghiên cứu vấn đề tư duy, bản chất và
đặc điểm chủ yếu của tư duy khoa học, cũng như một số nét đặc trưng của tư
duy khoa học trong giai đoạn mới của cách mạng khoa học - công nghệ; “Vấn
đề tư duy trong triết học của Hêghen” của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn,
Đỗ Minh Hợp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Công trình này đã phân
tích một cách cụ thể, có phê phán quan điểm của Hê ghen về tư duy, qua đó
chỉ ra những giá trị khoa học, những “hạt nhân hợp lý” trong quan điểm của
ông về vấn đề này; “Thông tin và vấn đề tiếp nhận, xử lý thông tin của tư duy
người Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Duy Hoa, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002. Tác giả luận án đã phân tích
quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin diễn ra trong tư duy, khái quát những
đặc điểm cơ bản của quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin trong tư duy người
Việt nam, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực tiếp nhận và xử lý
thông tin trong điểu kiện cuộc cách mạng thông tin hiện nay.v.v....
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới đất nước, chúng ta tìm thấy nhiều
bài viết, nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề tư duy, năng lực tư
4


duy của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học, tiêu biểu như
cuốn “Đổi mới tư duy và phong cách tư duy” của Nguyễn Văn Linh, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1987; “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy”
của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, số 10/1987; “Quán triệt tư duy
lôgíc duy vật và nội dung quan trọng của đổi mới tư duy” của Dương Phú
Hiệp, Tạp chí Triết học, số 2/1987; “Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy
lý luận” của Học viện Nguyễn Ái Quốc, 1988, v.v... Các công trình này đã
bàn tới vấn đề bản chất tư duy, năng lực tư duy, cũng như tính tất yếu và định

hướng chủ yếu trong đổi mới tư duy ở nước ta.
Khắc phục các căn bệnh thường thấy ở đội ngũ cán bộ nước ta như
bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong quá
trình đổi mới tư duy, nâng cao năng lực, trình độ tư duy. Hướng nghiên cứu
này chúng ta tìm thấy ở các luận án tiến sĩ lôgíc học, các bài viết trên các tạp
chí, tiêu biểu như luận án “Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ
nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội” của Trần Văn Phòng, Học
Viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994; Lê Hữu Nghĩa: “Một số
căn bệnh trong phương pháp tư duy của các bộ ta”, Tạp chí Triết học, số
2/1988, phân tích nguồn gốc và biểu hiện của các căn bệnh này ở nước ta, từ
đó đưa ra các giải pháp khắc phục.
Liên quan đến vấn đề nâng cao năng lực, trình độ tư duy cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý, cán bộ giảng dạy lý luận chính trị... có nhiều công trình
nghiên cứu. Chẳng hạn, Hồ Bá Thâm: “Nâng cao năn lực tư duy của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994; Nguyễn Đình Trãi: “Nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng viên lý luận Mác - Lênin ở các
trường Chính trị tỉnh”, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
5


Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001; Nguyễn Thị Bích Thủy: “Vai trò của tư duy
lôgíc đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện
nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2001; Trần Thành: “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các công trình
nghiên cứu đã phân tích vai trò của tư duy đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý,
cán bộ giảng dạy, đánh giá thực trạng và lý giải nguyên nhân của tình trạng
yếu kém về tư duy trong đội ngũ cán bộ, từ đó đề xuát những giải pháp nâng
cao năng lực, trình độ tư duy cho đội ngũ này.

Vấn đề rèn luyện, phát triển tư duy cho học sinh, sinh viên được một số
tác giả đề cập đến trong các bài báo, các luận văn thạc sĩ. Ví dụ, Vũ Văn
Viên: “Rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy khoa học cho sinh viên, học
sinh”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 2/1992; Trần Viết
Quang: “Những yêu cầu về rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên
hiện nay”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 3/1996 và “Phát
triển năng lực tư duy lý luận cho sinh viên thông qua giảng dạy Triết học Mác
– Lê nin ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996; Nguyễn Thanh Hưng: “Góp phần rèn
luyện và phát triển tư duy biện chứng cho học sinh thông qua dạy học hình
học ở trường trung học phổ thông”, Luận văn thạc sĩ Khoa học Giáo dục,
Trường Đại học Vinh, 2003; Hoàng Thúc Lân: “Giảng dạy Triết học Mác Lênin với việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường
đại học”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội. 2004, v.v...
Trong các công trình nên trên, một số tác giả phân tích sự cần thiết,
yêu cầu rèn luyện tư duy cho học sinh và sinh viên, một số khác lại tập trung
6


làm rõ vai trò của lôgíc học và các khoa học cụ thể trong việc rèn luyện tư
duy cho người học.
Vấn đề nghiên cứu và giảng dạy lôgíc học nói riêng và và lôgíc học nói
chung được nhiều tác giả đề cập đến. Chẳng hạn, Nguyễn Tiến Thủ: “Quan hệ
biện chứng giữa chủ thể và khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ
thể trong học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ lôgíc
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001; Lê Xuân Nam,
Lê Thanh Sinh, Nguyễn Thanh, Lương Minh Cừ, Hoàng Trung (Đồng chủ
biên): “Một số ý kiến trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học
Mác - Lênin ở đại học và cao đẳng”, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 2002; Lương Gia
Ban: “Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung chương

trình quốc gia, Hà Nội, 2002;
Thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo và cùng với các
trường đại học, cao đẳng tổ chức nhiều hội thảo khoa học về đổi mới, nâng
cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung và lôgíc học nói riêng. Các báo cáo và các bài viết tham gia hội
thảo được tập hợp lại trong các kỷ yếu, tiêu biểu như: Kỷ yếu hội thảo khoa
học quốc gia “Đổi mới phương pháp dạy, học Triết học Mác - Lênin trong các
trường đại học và cao đẳng”, (tổ chức tại Trường Đại học Hàng hải Việt Nam,
tháng 12/2002); Kỷ yếu hội thảo khoa học “Đổi mới phương pháp giảng dạy
các môn khoa học Mác - Lênin trong các trường đại học Sư phạm phía Bắc”,
(tổ chức tại Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, tháng 9/2005); Kỷ yếu
hội thảo khoa học “Giảm tải, nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng”,
(tổ chức tại Hà Nội, tháng 3/2007), Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giảng dạy các
môn lý luận chính trị ở các trường đại học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
7


quốc tế” (tổ chức tại Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính
trị - Đại học quốc gia Hà Nội, tháng 9/2007), kỷ yếu hội thảo khoa học
"nghiên cứu và giảng dạy lôgíc trong các trường đại học"( tổ chức tại trường
đại học Sư phạm Hà Nội,tháng 4/2012), v.v... Các báo cáo và bài viết này đều
khẳng định sự cần thiết, đồng thời đề xuất những giải pháp đổi mới, nâng cao
chất lượng giảng dạy các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và lôgíc học nói riêng trong các trường đại học, cao đẳng.
Như vậy, các công trình nêu trên chủ yếu nghiên cứu những vấn đề về
tư duy, năng lực tư duy; đổi mới tư duy, nâng cao năng lực, trình độ tư duy
cho sinh viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ giảng dạy lý luận chính trị.
Một số tác giả bàn riêng về vai trò của năng lực tư duy đối với sinh viên,
phương thức rèn luyện năng lực tư duy cho sinh viên. Một số tác giả tập trung

phân tích các giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác
- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học và cao đẳng... Tuy
nhiên, vấn đề bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư
phạm thông qua giảng dạy lôgíc học chỉ mới được đề cập từng mặt, cho đến
nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống.
Vì thế, đề tài luận án mà tác giả lựa chọn không trùng lặp với các công trình
khoa học đã công bố. Các công trình nghiên cứu trên với nhiều góc độ và
cách tiếp cận khác nhau đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả đề tài tham
khảo, trên cơ sở đó tìm ra một hướng đi phù hợp, nhằm giải quyết những vấn
đề mà đề tài đề ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích: Đề tài làm rõ vai trò của giảng dạy lôgíc học trong bồi
dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm, thực trạng và

8


những vấn đề đặt ra trong giảng dạy lôgíc học ở các trường đại học, cao đẳng
sư phạm hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy vai trò giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư
duy lôgíc cho sinh viên sư phạm.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là:
Thứ nhất, làm rõ bản chất của năng lực tư duy lôgíc, sự cần thiết bồi
dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm.
Thứ hai, phân tích vai trò của giảng dạy lôgíc học trong việc bồi
dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm.
Thứ ba, phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc phát
huy vai trò giảng dạy lôgíc học nhằm bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy
lôgíc cho sinh viên sư phạm.
Thứ tư, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò giảng

dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh
viên sư phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài nghiên cứu sự ảnh hưởng, tác động của giảng dạy lôgíc học đối
với sự phát triển năng lực tư duy lôgíc của sinh viên sư phạm
- Đề tài không đi sâu vào lôgíc học nói chung mà tập trung vào lôgíc
học đại cương và lôgíc biện chứng - những kiến thức chủ yếu mà sinh viên sư
phạm được học trong những năm gần đây.
- Đề tài tập trung khảo sát thực tế ở một số trường đại học, cao đẳng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
9


Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
lôgíc học Mác - Lênin, đặc biệt là những nguyên lý của lý luận nhận thức và
lôgíc biện chứng mácxít. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đề tài sử dụng
các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, điều tra xã hội và
thống kê...
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Góp phần chỉ ra vai trò của năng lực tư duy lôgíc đối với sinh viên sư
phạm trong học tập, rèn luyện để trở thành người giáo viên.
- Làm rõ vai trò của giảng dạy lôgíc học đối với việc bồi dưỡng, rèn
luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm.
- Chỉ rõ thực chất tình hình giảng dạy lôgíc học với việc bồi dưỡng, rèn
luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm ở các trường đại học và
cao đẳng hiện nay.
- Góp phần đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của
giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho
sinh viên sư phạm.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Những luận điểm và kết luận trong đề tài có ý nghĩa thiết thực đối với
việc nghiên cứu vấn đề tư duy lôgíc và năng lực tư duy lôgíc; góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy lôgíc học ở các trường đại học và cao đẳng cũng
như phát huy vai trò của giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện
năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho
cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lôgíc học, lôgíc học.

10


8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài bao gồm 3 chương, 8 tiết.

11


Chương 1
NĂNG LỰC TƯ DUY LÔGÍC VÀ VAI TRÒ CỦA GIẢNG DẠY
LÔGÍC HỌC TRONG VIỆC BỒI DƯỠNG, RÈN LUYỆN NĂNG LỰC
TƯ DUY TU DUY CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM

1.1. Năng lực tư duy lôgíc và sự cần thiết bồi dưỡng, rèn luyện
năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm.
1.1.1. Tư duy lôgíc và năng lực tư duy lôgíc
1.1.1.1. Tư duy lôgíc
Tư duy nói riêng, nhận thức nói chung là một trong những hoạt động
sống cơ bản nhất của loài người. Vấn đề tư duy chiếm vị trí quan trọng trong
lịch sử tư tưởng lôgíc học, cũng như trong lôgíc học.
Theo Từ điển tiếng Việt, tư duy là: “Giai đoạn cao của quá trình nhận

thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những
hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý” [109; tr.1070].
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư duy là giai đoạn
cao, trình độ cao của quá trình nhận thức thế giới của con người, là sự phản
ánh gián tiếp, khái quát, tích cực và sáng tạo thế giới bằng các khái niệm,
phán đoán, suy luận..., và nhờ đó có thể phản ánh được những mặt, những
mối liên hệ, bản chất, có tính quy luật của khách thể nhận thức.
Tư duy con người bắt nguồn từ thuộc tính phán ánh của vật chất và là
kết quả của quá trình phát triển rất lâu dài của giới tự nhiên. Tư duy là thuộc
tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc
12


tính của một dạng vật chất sống có tính tổ chức cao, hệ thống cực kỳ phức
tạp, đó là bộ não con người. Bộ não con người hiện đại là sản phẩm của quá
tình tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật - xã hội sau khi vượn biến thành người.
Quá trình tư duy của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh
của bộ não con người. Tuy nhiên, nếu tách rời thế giới bên ngoài, tách rời môi
trường xã hội thì con người không thể tư duy được. Tư duy của con người
mang bản chất xã hội, có quan hệ chặt chẽ với lao động và ngôn ngữ. Bản
chất xã hội của tư duy thể hiện ở chỗ, tư duy nảy sinh từ tình huống có vấn đề
được đặt ra do yêu cầu của lao động, của cuộc sống xã hội và phản ánh những
quan hệ xã hội. Lao động, thực tiễn xã hội là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp
nhất quyết định sự hình thành và phát triển của tư duy con người. Sự xuất
hiện, biến đổi, phát triển của tư duy diễn ra trong quá trình thực tiễn lịch sử xã hội. Nhờ tác động vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên, cải tạo xã hội,
con người đồng thời, cải tạo chính bản thân mình. “Trí tuệ con người đã phát
triển song song với việc người ta học cải biến tự nhiên” [85, tr.720].
Theo C.Mác, ngôn ngữ là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là hiện thực
trực tiếp của tư tưởng, vì nó không chỉ biểu đạt tư duy, tư tưởng ra bên ngoài
mà còn là công cụ của chính quá trình tư duy diễn ra trong bộ óc con người.

Các thao tác tư duy, các hình thức tư duy chỉ có thể được thực hiện, được vận
dụng khi chúng được biểu đạt thông qua cái “vỏ vật chất” là những từ ngữ
hây cấu trúc ngữ pháp cụ thể, tương ứng.
Tư duy của con người mang bản chất sáng tạo. Đó chính là năng lực
đem lại những tri thức mới về các mối liên hệ chung, bản chất, những tính
quy luật của hiện thực vốn rất đa dạng, phong phú và biến đổi không ngừng.
Nhờ “tính sáng tạo” mà tư duy “bóc, tác” được sự vật, nắm bắt được các
thuộc tính, các mối liên hệ bên trong của đối tượng. Với sức mạnh sáng tạo
13


của tư duy, con người có thể dự báo tương lai, đưa những giả thuyết, những lý
thuyết khoa học...
Thế giới vô cùng, vô tận và biến đổi không ngừng, vả lại thực tiễn luôn
luôn mới - điều đó đòi hỏi tư duy phải luôn năng động sáng tạo, phát hiện ra
những cái mới, đưa ra những “lời giải” đáp ứng nhu cầu của nhận thức và
thực tiễn. Do vậy, tư duy là một quá trình vô tận, vận động và phát triển
không ngừng.
Con đường tiến tới chân lý khách quan của nhận thức loài người rất lâu
dài, khó khăn và phức tạp. Trong hàng triệu năm của thời kỳ nguyên thủy, tư
duy loài người chỉ dừng lại ở trình độ thấp nhất, sơ khai nhất của nó, biểu
hiện qua các hình thức: tư duy hỗn hợp - nguyên thủy, tư duy hoang đường huyền thoại, tư duy đạo đức và thẩm mỹ nguyên thủy... Đến thời cổ đại, tư
duy của loài người đạt tới một trình độ mới, cao hơn về chất so với tư duy của
người nguyên thủy; hình thành một phương thức mới của tư duy để nhận thức
thế giới - tư duy lôgíc.
Tư duy lôgíc không tác rời với tư duy khoa học, nó là công cụ để tìm ra
những tri thức khoa học, giúp cho con người nhận thức đúng đắn bản chất của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Chính vì vậy, tư duy lôgíc
luôn gắn liền với tư duy lôgíc. Tư duy lôgíc đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên
tắc phương pháp tư duy khoa học.

Trước hết, tư duy lôgíc đòi hỏi tuân thủ các nguyên tắc bắt buộc, như
nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử - cụ thể của
logic biện chứng, tính chính xác, khách quan, chặt chẽ và hệ thống của logic
hình thức. Nó yêu cầu xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ tác
động qua lại lẫn nhau giữa chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát
14


sinh và sự tiêu vong của chúng. Nếu những người theo quan điểm siêu hình
tìm nguồn gốc sự vận động, phát triển của sự vật ở bên ngoài chúng, thì
những người theo quan điểm biện chứng mác xít thừa nhận tính khách quan
và phổ biến của mâu thuẫn, coi mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động, phát
triển của bản thân sự vật. Chủ thể của tư duy lôgíc phải là người nắm vững và
vận dụng được mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về chất và kiên quyết
thực hiện bước nhảy khi điều kiện về lượng đã được chuẩn bị đầy đủ; nhìn
nhận xu hướng phát triển của sự vật một cách mềm dẻo, sinh động, hiểu phủ
định biện chứng là quá trình khách quan, tự thân, kế thừa cái tích cực đã đạt
được từ cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của cái mới cao
hơn, tiến bộ hơn…
Theo V.I.Lênin, nếu coi sự phát triển chỉ như là sự giảm đi và tăng lên
đơn thuần về lượng, như là lặp lại thì “sự tự vận động, động lực của nó,
nguồn gốc của nó… là nằm trong bóng tối, là “chết cứng, là nghèo nàn, là khô
khan”. Chỉ có quan niệm sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt
đối lập mới cho ta chìa khóa của “sự vận động” của tất cả thảy mọi cái đang
tồn tại; “chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của sự gián đoạn của tính tiệm
tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập” của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy
sinh cái mới” [73, tr.379].
Tư duy lôgíc đòi hỏi phải đi sâu vào bản chất, lấy bản chất soi sáng cho
hiện tượng, mặt khác, phải tìm ra bản chất của sự vật ở trong chính sự vật
thông qua nghiên cứu nhiều hiện tượng khác nhau và từ nhiều góc độ khác

nhau. V.I.Lênin viết: “Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện
tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất
cấp hai… cứ như thế mãi” [73, tr.268].

15


Tư duy lôgíc đòi hỏi phải xem xét các sự vật trong tính thống nhất giữa
lịch sử và lôgíc; nắm vững và vận dụng một cách chủ động, sáng tạo phương
pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgíc là hai phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhưng lại thống nhất biện
chứng với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. Tùy theo đối tượng nghiên cứu và
yêu cầu cụ thể khác nhau mà người ta có thể sử dụng phương pháp lịch sử hay
phương pháp lôgíc là chủ yếu, song dù trong trường hợp nào cũng đều phải
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và lôgíc.
Tư duy lôgíc đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ
thể. C.Mác coi đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp nhận thức khoa
học quan trọng. C.Mác chỉ rõ: “Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể chỉ
là cái phương pháp nhờ đó mà tư duy quán triệt được cái cụ thể và tái tạo ra
nó với tư cách là một cái cụ thể trong tư duy” [84, tr.877 - 878].
Các nguyên tắc của lôgíc biện chứng gắn liền với nhau, không tách rời
nhau. Chủ thể của tư duy lôgíc phải là người nắm vững và biết vận dụng tổng
hợp các nguyên tắc, không tuyệt đối hóa hoặc xem nhẹ bất cứ nguyên tắc nào;
đồng thời tùy từng trường hợp cụ thể mà chú trọng, đặt nguyên tắc nào đó lên
hàng đầu.
Tư duy lôgíc là tư duy chính xác, tuân thủ các quy luật và hình thức
lôgíc trên cơ sở tiền đề tư duy chân thực, giúp con người không phạm phải sai
lầm trong lập luận, biết phát hiện ra mâu thuẫn. Phẩm chất đó của tư duy
lôgíc có giá trị to lớn trong hoạt động khoa học và thực tiễn, trong toàn bộ quá
trình sống của con người. Tất nhiên, tư duy lôgíc của con người không phải là

bẩm sinh mà là do rèn luyện mà hình thành. Sự rèn luyện đó qua thực tiễn
hoạt động của con người và trong giao tiếp của họ, thông qua việc học tập,

16


nghiên cứu có hệ thống các lý luận của khoa học lôgíc. Trong điều kiện cuộc
cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng trong lĩnh vực
thông tin phát triển như vũ bão và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
đang diễn ra trên thế giới, tư duy lôgíc càng cần thiết hơn bao giờ hết nhằm
nhận thức đúng đắn thực tế khác quan, giúp con người tìm ra con đường gần
nhất tới chân lý và sự phát triển góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.1.2. Năng lực tư duy lôgíc
Tư duy gắn liền với từng chủ thể nhất định, vì thế khi nói về tư duy
người ta thường quan tâm đến năng lực và trình độ tư duy của các chủ thể.
Khái niệm năng lực và năng lực tư duy được đề cập tới trong một số
công trình nghiên cứu ở nước ta. Theo Từ điển tiếng Việt do GS Hoàng Phê
chủ binee, năng lực là: “1. Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sắn có
để thực hiện một hoạt động nào đó”; 2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho
con người khả năng hoàn thành một loạt hoạt động nào đó với chất lượng
cao” [109, tr.660 - 661].
Tác giả Cung Kim Tiến cho rằng, theo nghĩa rộng thì năng lực “là
những đặc tính tâm lý của cá thể điều tiết hành vi của cá thể và là điều kiện
cho hoạt động sống của cá thể”. “Hiểu theo nghĩa đặc biệt thì năng lực là toàn
bộ những đặc tính tâm lý của con người khiến cho nó thích hợp với một hình
thức hoạt động nghề nghiệp nhất định được hình thành trong lịch sử” [137,
tr.753].
Những cách hiểu trên đây đều có sự thống nhất ở chỗ coi năng lực là
toàn bộ những khả năng vốn có, những phẩm chất, đặc tính tâm - sinh lý của

con người đảm bảo cho việc thực hiện một hoạt động nhất định.
17


Năng lực của con người có những tiền đề tự nhiên, những mầm mống
sẵn có nhờ di truyền, song những mầm mống đó được phát triển ra sao lại tùy
thuộc vào môi trường xã hội, điều kiện sống của con người. Năng lực được
biểu hiện trên nhiều dạng khác nhau như: năng lực nghiên cứu khoa học, năng
lực hoạt động nghệ thuật, năng lực cảm giác, năng lực tư duy…
Ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề năng
lực được các nhà nghiên cứu đề cập đến từ nhiều khía cạnh khác nhau. GS.
Nguyễn Ngọc Long coi “năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ
đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bản thân con người, bảo đảm cho hành
động sáng tạo của mình” [79, tr.48]. Theo tác giả, năng lực tư duy chính là
khả năng, sức mạnh của con người trong nhận thức và thực tiễn, do đó, việc
rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy, trước hết là năng lực tư duy lý luận có
tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình đổi mới tư duy.
Trong luận án tiến sĩ triết học của mình, tác giả Hồ Bá Thâm cho rằng:
“Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng,
trừu tượng hóa, khái quát hóa và xử lý tri thức trong quá trình phản ánh, tái
tạo, phát triển và vận dụng chúng vào những tình huống thực tiễn nhất định”
[127, tr.18]. Ở đây, tác giả chỉ ra những biểu hiện cụ thể của năng lực tư duy
trong quá trình phản ánh hiện thực, như ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng… cũng
như khả năng vận dụng tri thức vào việc giải quyết những vấn đề của thực
tiễn.
Kế thừa những ý kiến trên, chúng tôi cho rằng năng lực tư duy của chủ
thể vừa phụ thuộc vào yếu tố di truyền, vừa là sản phẩm của lịch sử - xã hội;
phụ thuộc vào môi trường xã hội, gắn liền với trình độ phát triển của xã hội,

18



với hệ thống giáo dục nhất định. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa mặt tự
nhiên và mặt xã hội tạo nên sức mạnh trí tuệ ở con người.
Năng lực tư duy là khả năng nhận thức và vận dụng thành thạo các
phương pháp tư duy. Theo lý luận nhận thức mác xít, nhận thức là một quá
trình biện chứng, trong đó con người tiến hành hàng loạt các thao tác tư duy
như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa… theo một lôgíc nhất
định. Những thao tác này có nội dung khác nhau nhưng quan hệ hữu cơ với
nhau, thống nhất biện chứng với nhau. Các thao tác tư duy được tiến hành ra
sao, theo trật tự nào lại do đối tượng, mục đích nghiên cứu quy định. Cách
thức tư duy từng bước được ghi nhận như những dấu ấn trong bộ nhớ con
người và dần dần hình thành như những phương pháp tư duy. Và những
phương pháp tư duy này được truyền thụ, phát triển từ thế hệ này sang thế hệ
khác trong quá trình lịch sử.
Việc áp dụng một cách có ý thức những phương pháp đã được luận
chứng một cách khoa học là điều kiện quan trọng để tìm kiếm tri thức mới.
Nhà triết học người Anh Ph.Bê cơn đã coi phương pháp như “ngọn
đuốc soi đường cho người đi trong đêm tối”. Nhà triết học người Pháp R.Đê
các tơ cũng rất chú trọng vai trò của phương pháp và chính ông là người đã
nêu lên các nguyên tắc phương pháp luận nhận thức khoa học. Viện sĩ Lan
Đao nhận xét rằng, “phương pháp quan trọng hơn phát minh bởi lẽ, với những
phương pháp đúng đắn, sáng tạo, con người có thể phát minh ra nhiều hơn,
khám phá ra nhiều điều mới mẻ kỳ diệu hơn so với những phát minh hiện có,
nâng cao trình độ hiểu biết và tăng cường sức mạnh trí tuệ của con người” [6,
tr.101]

19



Các nhà kinh điển Mác - Lênin nhấn mạnh rằng vấn đề quan trọng
không chỉ là chân lý mà là con đường đi tới chân lý. Thực tế cho thấy, khi đã
xác định được mục tiêu thì phương pháp trở thành nhân tố góp phần quyết
định thành công hay thất bại trong việc thực hiện mục tiêu. Nhưng phương
pháp tư duy dù khoa học đến đâu chăng nữa cũng không thể tự quyết định
được kết quả của nhận thức. Phương pháp ấy phải được vận dụng thành thạo
thì mới trở thành sức mạnh của tư duy. Vì thế, điều quan trọng không chỉ là ở
chỗ nắm được phương pháp khoa học, mà còn đòi hỏi con người phải biết vận
dụng phương pháp ấy một cách thành thạo, có hiệu quả. Thực tế cho thấy,
giữa những người có hiểu biết về phương pháp tương đối ngang nhau vẫn có
được những kết quả nghiên cứu không giống nhau do khả năng vận dụng
phương pháp của từng người là khác nhau.
Năng lực tư duy thể hiện ở khả năng lựa chọn, sắp xếp các phương
pháp tư duy theo một trật tự nhất định nhằm đạt tới kết quả tốt nhất. Đó chính
là việc xác định mục đích, các bước tiến hành, các khâu chủ yếu trong quá
trình tư duy để từ đó xác định rõ cần vận dụng những phương pháp nào,
phương pháp nào là chủ yếu cũng như cách thức phối hợp những phương
pháp đó ra sao. Càng có năng lực tư duy phát triển, chủ thể càng có thể hình
dung được rõ ràng kết quả công việc của mình với những cách thức, biện
pháp hoạt động cần thiết.
Năng lực tư duy biểu hiện ở sự tích lũy và vận dụng hiệu quả vốn tri
thức. Cơ sở để xây dựng phương pháp là tri thức về những quy luật của thực
tại khách quan. Từ hệ thống những tri thức về những quy luật của thế giới
khách quan, con người rút ra những nguyên tắc để điều chỉnh hoạt động nhận
thức và thực tiễn nhằm đạt tới mục đích nhất. Đồng thời, quá trình nhận thức
khoa học là quá trình con người tiến hành những thao tác tư duy trên cơ sở
20


những tri thức sẵn có để tiếp tục hình thành những khái niệm, phạm trù,

những lý thuyết mới làm cơ sở cho việc xây dựng phương pháp. Vốn tri thức
được xem như một nguồn vào để chủ thể thông qua hoạt động tư duy rút ra tri
thức mới. Chính vì vậy, vốn tri thức càng phong phú, hiện đại thì tri thức mới
được hình thành càng phán ánh sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về đối tượng và sự
vận dụng nó vào cuộc sống càng hiệu quả hơn.
Tư duy là một quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin một cách đặc biệt
và khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin ở từng chủ thể là khác nhau. Khả
năng tiếp nhận thông tin là tổng hợp của cả hai khả năng: “tiếp” và “nhận”
thông tin. Năng lực xử lý thông tin chính là khả năng tách, chọn, tổng hợp,
khái quát hóa, trừu tượng hóa… các thông tin, hình thành nên tri thức mới về
sự vật. Trên thực tế, có những người tiếp nhận thông tin tốt, nhưng năng lực
xử lý thông tin hạn chế nên lượng thông tin đó chỉ được lưu giữ lại trong trí
nhớ mà không được xử lý để làm tăng thêm sự hiểu biết, làm giàu thêm tri
thức cho họ. Ngược lại, có những người tuy tiếp nhận thông tin kém hơn, tốt
hơn thì họ cũng có thể làm cho sự biết của mình tăng lên, vốn tri thức của
mình giàu hơn.
Như vậy, năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất tâm, sinh lý, trí
tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức và cải tạo thế giới, đảm bảo cho hoạt động của
con người phù hợp với quy luật, đạt hiệu quả. Nó biểu hiện ở khả năng nắm
bắt và vận dụng một cách chủ động, nhuần nhuyễn, sáng tạo những tri thức,
phương pháp, khả năng tiếp nhận và xử lý những thông tin, hình thành tri
thức mới về sự vật, từ đó lựa chọn phương án, ra quyết định đúng đắn cho
hành động.

21


Năng lực tư duy và trình độ tư duy quan hệ chặt chẽ với nhau, không
tách rời nhau: năng lực tư duy nào cũng thể hiện một trình độ tư duy nhất
định. Trình độ tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư duy.

Chẳng hạn, chủ thể tư duy kinh nghiệm chủ yếu dựa trên kinh nghiệm cả về
nội dung lẫn phương pháp. Những chất liệu được chủ thể sử dụng chủ yếu là
những tri thức kinh nghiệm và phương pháp tư duy mang nặng tính kinh
nghiệm, dựa trên nếp nghĩ quen thuộc, những lối mòn được hình thành một
cách tự phát. Ngược lại, người có trình độ tư duy lý luận biết dựa trên tri thức
lý luận và vận dụng một cách chủ động, thành thạo các thao tác, phương pháp
nhận thức khoa học.
Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chúng ta rất chú trọng
nhiệm vụ rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy, đặc biệt là năng lực tư duy
lôgíc. Vì thế, phạm trù năng lực tư duy lôgíc được bàn đến trong các công
trình nghiên cứu ở nước ta. Chẳng hạn, trong luận án tiến sĩ lôgíc học, tác giả
Nguyễn Thị Bích Thủy đề cập tới khái niệm này ở góc độ hẹp mang tính đặc
thù: “năng lực tư duy lôgíc là khả năng đưa ra những kết luận đúng đắn, hợp
lý, kịp thời của chủ thể. Đó còn là khả năng lãnh đạo, tổ chức để biến quyết
định thành hiện thực” [136, tr.20]. Năng lực tư duy lôgíc mà tác giả đề cập ở
đây là năng lực tư duy lôgíc của cán bộ lãnh đạo kinh tế, Nó biểu hiện trong
quá trình nhận thức, ra quyết định, tổ chức thực hiện, xử lý các mối quan hệ
nảy sinh, kiểm tra, tổng kết rút kinh nghiệm….
Theo chúng tôi, để xác định phạm trù năng lực tư duy lôgíc, cần thấy
được thực chất của hoạt động tư duy con người. Cũng như mọi hoạt động
khác, hoạt động tư duy bị chi phối bởi phương pháp luận chung nhất định với
chức năng định hướng, gợi mở cho quá trình hoạt động. Khi nói tư duy lôgíc
hay phương pháp tư duy lôgíc, tư duy siêu hình hay phương pháp tư duy siêu
22


hình là nói đến các loại hình tư duy được định hướng bởi phương pháp luận
biện chứng hay phương pháp luận siêu hình. Tư duy lôgíc được định hướng
bởi phương pháp tư duy khoa học - phương pháp luận khoa học của nhận thức
và thực tiễn.

Phương pháp có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện sức mạnh trí tuệ
của con người trong sự sáng tạo và theo đuổi các hoạt động sáng tạo. Cái đặc
sắc, cái giá trị căn bản của năng lực sáng tạo là sáng tạo phương pháp. Nhà
triết học biện chứng lỗi lạc Hê ghen từng nói rằng “mọi tri thức của loài người
được kết tinh trong lịch sử tư tưởng triết học, quy đến cùng, đó là vấn đề
phương pháp” [131, tr.58]. Dĩ nhiên, phương pháp thật sự khoa học và cách
mạng, có khả năng mang lại hiệu quả thiết thực trong mọi lĩnh vực nhận thức
và thực tiễn là phương pháp biện chứng duy vật.
Lý luận là cơ sở của phương pháp, nó chứa đựng những quan điểm,
những nguyên lý phương pháp luận, nhưng bản thân lý luận tự nó chưa phải
là phương pháp. Từ hệ thống tri thức về những quy luật chung nhất của thế
giới, con người phải biết rút ra những nguyên tắc, yêu cầu để điều chỉnh hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt được mục đích nhất định.
Nghiên cứu lý luận mácxít, đòi hỏi phải vận dụng lý luận đó một cách nhuần
nhuyễn, thực sự biến lý luận đó thành hiểu biết của bản thân, thành phương
pháp, công cụ thiết yếu để giải quyết các vấn đề của nhận thức và thực tiễn.
Chính theo tinh thần ấy mà Hồ Chí Minh nhận mạnh rằng, học tập, nghiên
cứu chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là thuộc lòng từng câu từng chữ trong
các sách vở kinh điển mà cái chủ yếu, quan tọng nhất là nắm lấy tinh thần và
phương pháp của nó để ứng xử với con người và công việc.

23


Hồ Chí Minh rất chú trọng và am hiểu sâu sắc phương pháp biện
chứng. Người không những bàn tới phương pháp biện chứng một cách trực
tiếp trong tác phẩm, trong hình thức lý luận mà còn đề cập tới phương pháp
biện chứng một cách gián tiếp, từ tư tưởng mà dẫn tới phương pháp, từ thực
tiễn đấu tranh cách mạng, từ việc giải quyết các công tác thực tiễn, gây dựng
phong trào và lực lượng, giáo dục cán bộ, vận động quần chúng…mà nổi bật

lên ý nghĩa phương pháp. Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh kế thừa
những giá trị của phương pháp biện chứng trong Triết học Mác - Lênin, tinh
hoa trong tư tưởng biện chứng cổ truyền Việt Nam và phương Đông, đồng
thời phản ánh đúng đắn quy luật của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy,
phương pháp biện chứng của Người thực sự là phương pháp khoa học và cách
mạng.
Nhưng phương pháp biện chứng, dù khoa học đến đâu chăng nữa cũng
không thể tự quyết định được kết quả của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Phương pháp ấy phải được rèn luyện, vận dụng thành thạo, nhuần nhuyễn,
linh hoạt như một nghệ thuật thì mới trở thành sức mạnh của chủ thể. Thực tế
cho thấy, có những người hiểu biết về phương pháp biện chứng tương đối tốt
nhưng lại lúng túng khi giải quyết những vấn đề cụ thể, thậm chí giải quyết
những vấn đề đó một cách máy móc, phiến diện. Bên cạnh đó, có những
người hiểu biết về phương pháp biện chứng cũng tương đương như vậy
nhưng lại có được những kết quả tốt trong việc giải quyết những vấn đề cụ
thể, do năng lực vận dụng phương pháp biện chứng tốt hơn.
Hồ Chí Minh là một nhà biện chứng mà nét nổi bật ở Người là sự thực
hành phép biện chứng. Với Hồ Chí Minh, lý luận biện chứng được vận dụng
một cách nhuần nhuyễn, thực sự biến thành tri thức của bản thân, biến thành
phương pháp, thấm sâu vào trong suy nghĩ, trong hành động thực tiễn, trong
24


cách ứng xử của Người với con người và công việc. Trong cuốn “Tìm hiểu
phương pháp Hồ Chí Minh”, GS Hoàng Chí Bảo viết: “Chính là ở bên ngoài
tác phẩm, trong thực hành phương pháp bằng công việc thực tế chứ không chỉ
giới hạn trong sự luận bàn về phương pháp, Hồ Chí Minh đã tỏ rõ sự nhuần
nhuyễn, thành thục về phương pháp như thế nào. Người đã giải quyết vấn đề
phương pháp vừa như một khoa học, lại vừa như một nghệ thuật” [6, tr.120].
Có thể nói rằng, sự am hiểu phương pháp biện chứng, sự thành thạo

trong sử dụng cũng như năng lực sáng tạo phương pháp biện chứng là thước
đo về năng lực tư duy lôgíc của chủ thể.
Nhưng nếu phương pháp tư duy khoa học có tính định hướng, gợi mở
thì các thao tác, phương pháp của tư dy lôgíc lại có chức năng là “công cụ”
nhận thức. Do đó, muốn nhận thức sự vật một cách đúng đắn, chủ thể không
những phải vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo phương pháp tư duy khoa học
mà còn phải vận dụng thành thục các thao tác của tư duy lôgíc, tuân thủ
nghiêm ngặt các quy luật, quy tắc lôgíc. Nói cách khác, chủ thể vừa phải có
năng lực phương pháp tư duy khoa học, vừa phải có ăng lực tư duy lôgíc.
Như vậy, năng lực tư duy lôgíc là tổng hợp những phẩm chất tâm sinh
lý, trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở khả năng nắm vững và vận dụng một cách
chủ động, nhuần nhuyễn, sáng tạo phương pháp tư duy khoa học cũng như
các thao tác của tư duy lôgíc nhằm phát hiện và giải quyết một cách hiệu quả
những vấn đề nhận thức và thực tiễn đang đặt ra.
1.1.2. Sự cần thiết bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho
sinh viên sư phạm
1.1.2.1. Tính đặc thù của lao động sư phạm

25


×