Tải bản đầy đủ (.doc) (216 trang)

KHÓ KHĂN tâm lý của học SINH TIỂU học dân tộc THIỂU số ở tây NGUYÊN TRONG học tập môn TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.76 KB, 216 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ VUI

KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN TRONG
HỌC TẬP MÔN TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC CHUYÊN NGÀNH
Mã số: 62 31 04 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Nguyễn Xuân Thức
TS. Đào Lan Hương

HÀ NỘI - năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu và
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng ai khác công bố trong bất kỳ
công trình nào.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Vui


LỜI CẢM ƠN


Tôi xin cảm ơn sâu sắc cơ quan đào tạo chủ quản là khoa Tâm lý học - Học
viện Khoa học xã hội. Cảm ơn sự cộng tác của thầy giáo, cô giáo và các em học
sinh tại địa bàn nghiên cứu. Đặc biệt, em xin bày tỏ sự tri ân sâu sắc đến PGS.TS.
Nguyễn Xuân Thức, TS. Đào Lan Hương cùng quý thầy, quý cô đã hướng dẫn, động
viên, cổ vũ em trong suốt quá trình hoàn thành luận án!
Trong quá trình thực hiện luận án tôi còn nhận được sự giúp đỡ, tạo điều
kiện và sự động viên rất lớn từ các lãnh đạo, đồng chí, đồng nghiệp tại đơn vị đang
công tác.
Trân trọng cảm ơn!
Nghiên cứu sinh


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
D

: Độ chênh lệch

DTTS

: Dân tộc thiểu số

ĐC

: Đối chứng

ĐLC


: Độ lệch chuẩn

ĐTB

: Điểm trung bình

GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh

KKTL

: Khó khăn tâm lý

SL

: Số lượng

STN

: Sau thực nghiệm

TB

: Thứ bậc


TV

: Tiếng Việt

TN

: Thực nghiệm

TTN

: Trước thực nghiệm


DANH MỤC BẢNG BIỂU


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
SƠ ĐỒ:


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Đối với học sinh lớp 1, trường tiểu học đã mở ra một trang sử mới cho
cuộc đời của các em với nhiều tiềm năng phát triển và thách thức phải vượt qua.
Một trong những thách thức ở trường tiểu học có thể trở thành những khó khăn tâm
lý gây cản trở quá trình học tập và làm cho kết quả học tập kém hiệu quả. Trong đó
có thể kể đến những yêu cầu về thái độ, nhận thức, hành vi và những nội quy của
từng môn học ở trường tiểu học đặt ra cho trẻ, buộc trẻ phải từng bước cải tổ lại cấu
trúc tâm lý đã có để thích ứng ở trường học. Những học sinh thiếu hụt những yếu tố
tâm lý cần thiết, không đáp ứng yêu cầu của môn học, hoạt động nào đó ở trường

tiểu học thì trẻ gặp khó khăn tâm lý trong học tập.
Khó khăn mà học sinh lớp 1 gặp phải ở trường học rất đa dạng và phức tạp.
Những đứa trẻ đến từ các nền văn hóa với những tập quán, kinh nghiệm, vốn sống,
thói quen,... khác nhau sẽ có những khác biệt về biểu hiện và mức độ khó khăn trong
học tập. Ở Việt Nam, học sinh DTTS và học sinh Kinh cùng học một chương trình
nhưng những yếu tố chi phối, ảnh hưởng đến hoạt động học thì lại rất khác nhau. Một
trong những khác biệt rõ rệt nhất mà chúng ta thấy đó là vốn tiếng Việt của trẻ em khi
đến trường và ảnh hưởng của nhiều yếu tố đến việc học môn Tiếng Việt ở trường tiểu
học. Vì thế, những khó khăn mà những học sinh này trải nghiệm khi học môn Tiếng
Việt ở trường học sẽ không giống nhau. Tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ của
học sinh DTTS, mà là ngôn ngữ thứ 2 đến sau tiếng mẹ đẻ (tiếng dân tộc). Nguyễn
Quang Sáng (chủ biên) khẳng định: "Với học sinh dân tộc, tiếng Việt là ngôn ngữ thứ
hai, do đó trình độ tiếng Việt của các em còn hạn chế, làm trở ngại đến quá trình tiếp
thu tri thức, cũng như ảnh hưởng đến các hoạt động tự học, kĩ năng học tập chung và
kĩ năng hoạt động của các em" [72, tr. 64].
Khó khăn tâm lý trong học tập môn Tiếng Việt của học sinh lớp 1 DTTS là
phải tiếp nhận một hệ thống âm thanh ngôn ngữ không giống tiếng mẹ đẻ (khó
khăn về nghe, nói), một hệ thống từ vựng, ngữ pháp mới mẻ (khó khăn về hiểu),
một hệ thống chữ viết mới, ít được tiếp xúc (khó khăn về đọc, viết); khó khăn

1


trong việc hình thành thái độ tích cực trong học tập; khó khăn trong việc thực
hiện nội quy học tập của môn học.
1.2. Ở nước ngoài các ngành tâm lý học, sức khỏe tâm thần, giáo dục học và
các tổ chức,... đã có những quan tâm nghiên cứu về khó khăn học tập (Learning
Diffcuilties) hay rối loạn chuyên biệt học tập (Learning Disorders), khuyết tật học
tập (Learning Disabilities). Trong đó, có những nghiên cứu về hiện tượng vụng đọc,
viết, nghe, nói,... và sự thiệt thòi của học sinh khi học ngôn ngữ thứ hai ở trường

học. Tổ chức Unesco, 2012 khẳng định: "Các em học sinh nói tiếng mẹ đẻ của mình
không phải là ngôn ngữ sử dụng trong trường học là những em thiệt thòi trong hệ
thống giáo dục,... " [Dẫn theo 74, tr. 14]. Nhiều nghiên cứu cho rằng học sinh gặp
khó khăn học tập là vấn đề giảm chất lượng học tập và ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
sống của các em. Các em gặp khó khăn học tập thường được đánh đồng với chậm
phát triển trí tuệ hoặc trẻ em hư, trẻ em có rối loạn hành vi. Điều này làm cản trở sự
phát triển cũng như khả năng hòa nhập tốt trong môi trường học tập của các em.
Ở nước ta vấn đề về khó khăn học tập và khó khăn của học sinh DTTS trong
học tập môn Tiếng Việt đã được các nhà tâm lý học quan tâm nghiên cứu. Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã có những văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình và chỉ đạo
dạy học phù hợp với đối tượng học sinh ở các vùng DTTS. Tuy nhiên, vấn đề này
chưa được thực sự quan tâm cả người làm nghiên cứu và trong thực tế xã hội.
Những nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam còn rất hạn chế. Chúng ta vẫn chưa có
một công trình nào nghiên cứu sâu và có hệ thống về khó khăn tâm lý của học sinh
DTTS trong học tập môn Tiếng Việt. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Khó khăn tâm
lý của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trong học tập môn Tiếng
Việt” là rất cần thiết.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài phát hiện biểu hiện, mức độ và các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm
lý của học sinh lớp 1 DTTS trong học tập môn Tiếng Việt, từ đó đề xuất một số
biện pháp giúp các em vượt qua những khó khăn tâm lý, góp phần nâng cao kết quả
học tập của học sinh lớp 1 DTTS.

2


3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và mức độ khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 DTTS trong học tập
môn Tiếng Việt.

3.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
Tổng số khách thể khảo sát là: 547 người, gồm:
3.2.1. Học sinh lớp 1: 510 học sinh
- Khảo sát thử để phát hiện biểu hiện khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1
DTTS trong học tập môn Tiếng Việt : 40 học sinh.
- Khảo sát chính thức: 205 học sinh lớp 1 DTTS; 205 học sinh lớp 1 Kinh.
- Thực nghiệm sư phạm: 30 học sinh lớp 1 DTTS nhóm đối chứng; 30 học sinh
lớp 1 DTTS nhóm thực nghiệm.
3.2.2. Giáo viên, cán bộ quản lý trường tiểu học: 37 người
- Giáo viên dạy lớp 1: 25 người
- Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường tiểu học: 12 người
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Xây dựng cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 DTTS ở
Tây Nguyên trong học tập môn Tiếng Việt.
4.2. Làm rõ thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lý của
học sinh lớp 1 DTTS ở Tây Nguyên trong học tập môn Tiếng Việt.
4.3. Đề xuất và làm rõ tính khả thi của một số biện pháp giảm thiểu khó khăn
tâm lý của học sinh lớp 1 DTTS ở Tây Nguyên trong học tập môn Tiếng Việt.
5. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 DTTS trong
học tập môn Tiếng Việt tại 3 tỉnh Tây Nguyên: KonTum, GiaLai, ĐăkLăk.
5.2. Giới hạn về khách thể khảo sát
Đề tài tiến hành nghiên cứu trên các khách thể sau:

3


+ Học sinh lớp 1 DTTS là người bản địa ở Tây Nguyên: dân tộc Bahnar,

Xơđăng, Rarai, Dẻtriêng ở KonTum; dân tộc Êđê, Rarai, M’Nông ở ĐăkLăk; dân
tộc Bahnar, Rarai ở GiaLai).
+ Học sinh lớp 1 dân tộc Kinh cùng học tập với học sinh lớp 1 DTTS ở
KonTum, GiaLai, ĐăkLăk.
+ Giáo viên tiểu học là người trực tiếp giảng dạy học sinh lớp 1 DTTS ở
KonTum, GiaLai, ĐăkLăk.
+ Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường Tiểu học ở các tỉnh KonTum, GiaLai,
ĐăkLăk.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Học sinh lớp 1 DTTS ở Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn tâm lý trong học tập
môn Tiếng Việt (khó khăn về mặt nhận thức, khó khăn về mặt thái độ và khó khăn
về mặt hành vi). Nếu phát hiện kịp thời thực trạng những khó khăn tâm lý và yếu tố
ảnh hưởng, chi phối đến chúng, đồng thời áp dụng các biện pháp tác động sư phạm
theo hướng tích cực như: tích cực hóa học sinh trong dạy học môn Tiếng Việt, tạo
môi trường học tập và sử dụng tiếng Việt cho học sinh,... thì sẽ hạn chế được khó
khăn tâm lý của học sinh lớp 1 DTTS trong học tập môn Tiếng Việt, từng bước
nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học ở Tây Nguyên.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp luận
7.1.1. Nguyên tắc thống nhất tâm lý và hoạt động
Thông qua hoạt động, những đặc điểm tâm lý cá nhân hay của nhóm sẽ được
hình thành và thể hiện một cách rõ nhất. Vì thế, biểu hiện và mức độ khó khăn tâm
lý của học sinh lớp 1 DTTS trong học tập môn Tiếng Việt được chúng tôi tiến hành
nghiên cứu thông qua hoạt động học tập môn Tiếng Việt, hoạt động thực tiễn của
các em.
7.1.2. Nguyên tắc hệ thống
Con người là một chỉnh thể thống nhất, có tính phức tạp. Hành động của họ
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau - yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Vai trò của từng yếu tố trong những hoàn cảnh cụ thể là khác nhau. Vì vậy, trong


4


nghiên cứu này, biểu hiện và mức độ khó khăn tâm lý trong học tập môn Tiếng Việt
của học sinh lớp 1 DTTS được xem xét trong mối quan hệ nhiều mặt: mối tương
quan của những khó khăn tâm lý với yếu tố chủ quan (yếu tố sinh học, vốn sống,
vốn ngôn ngữ, đặc điểm tính cách) và yếu tố khách quan (phương pháp dạy học của
giáo viên, quan tâm ứng xử của cha mẹ với trẻ).
7.1.3. Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý và ngôn ngữ
Ngôn ngữ là sản phẩm của tư duy, đồng thời cũng là công cụ để chứa đựng và
chuyển tải kết quả của tư duy. Giữa ngôn ngữ và tâm lý có mối quan hệ thống nhất
và biện chứng. Khó khăn tâm lý trong học tập môn Tiếng Việt của học sinh lớp 1
DTTS được xem xét như đặc điểm tâm lý của người học môn Tiếng Việt.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Bao gồm các phương pháp: nghiên cứu văn bản và tài liệu
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
- Phương pháp phân tích một số trường hợp điển hình
- Phương pháp thực nghiệm tác động
7.2.3. Nhóm phương pháp xử lý thông tin
Dùng phương pháp thống kê toán học để định lượng kết quả nghiên cứu và
kiểm định độ tin cậy của các số liệu điều tra.
8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
8.1. Về mặt lý luận
- Luận án đã khái quát hóa được các xu hướng nghiên cứu về khó khăn tâm lý,
khó khăn tâm lý trong học tập, làm sáng tỏ các vấn đề: khó khăn tâm lý trong học

tập môn Tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, các yếu tố ảnh hưởng đến
khó khăn tâm lý.
8.2. Về mặt thực tiễn

5


- Kết quả nghiên cứu thực tiễn đã chỉ ra các biểu hiện khó khăn tâm lý trong
học tập môn Tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên qua 3
mặt: thái độ học tập môn Tiếng Việt; kỹ năng học tập môn tiếng Việt và hành vi
thực hiện nội quy học tập môn Tiếng Việt.
- Phát hiện những yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lý trong học tập môn
Tiếng Việt (điều kiện sinh học, vốn sống, vốn tiếng Việt, đặc điểm tính cách,

phương pháp dạy học, sự hiểu biết về trẻ của giáo viên, sự quan tâm của bố
mẹ trẻ đến việc học tập của trẻ) cũng như tính khả thi của các biện pháp giảm
thiểu khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 DTTS ở Tây Nguyên trong học tập môn
Tiếng Việt.
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục các công trình đã công bố,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 DTTS trong
học tập môn Tiếng Việt.
- Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu khó khăn tâm lý của học
sinh lớp 1 DTTS trong học tập môn Tiếng Việt.
- Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực tiễn về khó khăn tâm lý của học sinh lớp
1 DTTS ở Tây Nguyên trong học tập môn Tiếng Việt.

6



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH LỚP MỘT
DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG HỌC TẬP MÔN TIẾNG VIỆT
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU KHÓ KHĂN TÂM LÝ
CỦA HỌC SINH
Khó khăn tâm lý là vấn đề đã được các nhà tâm lý học trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu. Mỗi tác giả tùy theo cách tiếp cận của mình mà xem xét khó
khăn tâm lý khác nhau. Trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi trình bày tổng quan
những công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến luận án theo các hướng
nghiên cứu cơ bản sau:
* Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong giao tiếp và trong hoạt động của cá
nhân.
* Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập.
1.1.1. Nghiên cứu về khó khăn tâm lý ở nước ngoài
1.1.1.1. Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong giao tiếp và trong hoạt động
của cá nhân
Tác giả H.Hipsơ và M.Phorvec khi lý giải chức năng, phối hợp của giao tiếp đã
nêu ra 6 nhân tố gây khó khăn cho giao tiếp: Người phát tin không hiểu đúng về đối
tượng giao tiếp; Người phát tin che dấu lý do thông tin; Do sự khác nhau của hoàn
cảnh, lập trường, tư tưởng, văn hóa; Khi giao tiếp gián tiếp, người phát tin không biết
được thông tin mình phát ra được người nhận tiếp thu như thế nào, tác động ra sao;
Do khoảng cách quá lớn; Do cách kiến giải khác nhau về khái niệm sử dụng trao đổi
thông tin, tạo nên những “hàng rào khái niệm” ngăn cản giao tiếp [39].
I.M.Anđrecva khi phân tích chức năng thông tin về giao tiếp đã chỉ ra những
nguyên nhân làm nảy sinh các khó khăn tâm lý trong quá trình giao tiếp: sự khác
biệt về tôn giáo, ngôn ngữ, nghề nghiệp, thiếu đồng nhất trong nhận thức tình huống
giao tiếp giữa các thành viên tham gia giao tiếp, hoặc do đặc điểm tâm lý cá nhân
[1, tr. 102 - 103].


7


Như vậy, ở công trình nghiên cứu trên cả hai tác giả đều đề cập đến các
nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý trong giao tiếp.
E.B.SuKanova (1987), đã đề cập đến những khó khăn trong giao tiếp liên nhân
cách, đến các vấn đề tâm lý - xã hội. Đồng thời chỉ ra nguyên nhân gây ra khó khăn
trong giao tiếp công việc. Những vấn đề được tác giả đề cập như:
Bản chất tâm lý của những khó khăn trong giao tiếp liên nhân cách.
Vị trí của hiện tượng giao tiếp, khó khăn trong cấu trúc của các vấn đề tâm lý xã hội.
Những đặc điểm của việc nhận thức các nguyên nhân gây ra khó khăn trong
giao tiếp công việc.
Nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu tố khó khăn đến quá trình
công việc.
Ở công trình này, tác giả đã phát hiện được một số khó khăn tâm lý trong
giao tiếp và nguyên nhân nảy sinh chúng. Song cũng như tác giả trên, bà chưa
định nghĩa được khó khăn tâm lý trong giao tiếp, phân loại được chúng một cách
cụ thể [76, tr. 51].
Tóm lại, khó khăn tâm lý trong giao tiếp đã được một số tác giả quan tâm nghiên
cứu. Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đã phát hiện được một số khó khăn
tâm lý trong giao tiếp, nguyên nhân nảy sinh những khó khăn trong giao tiếp. Nhưng
chưa có tác giả nào trình bày khái niệm khó khăn tâm lý trong giao tiếp, chưa ai trong
số họ làm rõ được bản chất của khó khăn tâm lý trong giao tiếp và phân loại chúng
một cách cụ thể.
1.1.1.2. Nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
* Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong học tập của lứa tuổi học sinh
- Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong học tập của lứa học sinh tuổi thanh
thiếu niên
Trong cuốn "Những cơ sở tâm lý học sư phạm", tác giả Cruchetxki V.A đã chỉ
ra những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của thanh thiếu niên. Theo

V.A.Cruchetxki trong quá trình học tập của thanh thiếu niên đôi khi có mâu thuẫn:

8


sự mong muốn trau rồi tri thức mâu thuẫn với thái độ bàng quan và thậm chí thái độ
xấu đối với học tập ở trường, thái độ "phớt đời" đối với điểm số. Điều đó có thể là
do phản ứng "độc đáo" với những thất bại nào đó trong học tập và xung đột với giáo
viên. Những mâu thuẫn này gây ra một số khó khăn tâm lý đáng kể cho thanh thiếu
niên học sinh.
Tác giả khẳng định thanh thiếu niên thường xúc động mạnh với những thất bại
trong việc học tập của mình, nhưng lòng tự trọng đôi khi khiến cho các em có thái độ
thờ ơ và lãnh đạm đối với những thành tích học tập. Nguyên nhân làm giảm sút hứng
thú học tập ở các em có thể là do xuất hiện những thú vui khác mạnh mẽ hơn (đọc
sách, chơi tem, chơi cờ,...) [16, tr. 124 - 125].
P.Zettergren - Thụy Điển, nghiên cứu về học sinh 10 - 11 tuổi (2003) cho
rằng thành tích học tập và mức độ thông minh của những em bị bạn bè hắt hủi là
kém hơn so với trẻ khác. Điểm số của những em bị bạn bè ghét bỏ có thái độ tiêu
cực với trường học và các nhiệm vụ ở trường học. Tỷ lệ bỏ học giữa chừng ở học
sinh nam bị ghét bỏ cao hơn nhiều học sinh nam khác. Những trẻ bị bạn bè hắt hủi
là những trẻ có thể gây rắc rối ở trường và khi lớn lên, vì vậy, cần phải quan tâm
đặc biệt tới những trẻ này [100, tr. 81].
- Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh tiểu học, lứa tuổi
nhi đồng
Theo A.V. Petropxki hoạt động học tập của trẻ em khi đi học lớp 1 đã chia ra
thành 3 loại:
+ Loại 1: Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập mới.
+ Loại 2: Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp mới với thầy cô và
bạn bè.
+ Loại 3: Khó khăn trong việc thích nghi với hoạt động mới, lúc đầu trẻ được

chuẩn bị của gia đình, nhà trường, xã hội nên trẻ có tâm lý vui, thích, sẵn sàng đi
học về sau giảm dần khát vọng và chán học.

9


Bên cạnh đó, tác giả cũng đã nêu ra được một số nguyên nhân dẫn đến khó
khăn tâm lý, ảnh hưởng của những khó khăn đó đến đời sống của trẻ và đề xuất một
số biện pháp để giải quyết khó khăn của trẻ [67, tr. 56].
Công trình nghiên cứu về “Bước chuyển từ mẫu giáo lên lớp 1 của trẻ em” của
Binaka Zazzo cùng các cộng sự của bà tại Đại học Pari đã chỉ ra khó khăn tâm lý
lớn nhất mà trẻ gặp phải làm cản trở đến sự thích ứng với hoạt động học tập của trẻ
là sự thay đổi môi trường hoạt động một cách triệt để, gọi là chuyển dạng hoạt động
chủ đạo. Mẫu giáo lấy hoạt động vui chơi làm hoạt động chủ đạo, vừa chơi vừa học,
hoạt động đa dạng, tính tự do tùy hứng cá nhân nặng hơn là tính chỉ đạo của giáo
viên. Bước sang lớp 1, học là hoạt động chủ đạo học sinh phải học nghiêm chỉnh
theo nguyên tắc lớp học.
Theo Binaka Zazzo cùng các cộng sự, tất cả những em có điều kiện thuận lợi
nhất trong mấy tháng đầu vào lớp 1 đều qua một giai đoạn vấp váp. Bình thường,
trẻ phải mất vài tháng mới dần thích nghi với trường học và tiến bộ trong học tập.
Nếu không được gia đình hay giáo viên nâng đỡ, những học sinh vướng phải một
hay nhiều những khó khăn nói trên sẽ khó vượt qua cửa ải lớp 1 và ở lại lớp, bị giáo
viên và bố mẹ khiển trách, bạn bè xem thường, cuộc đời học sinh mở đầu với thất
bại chua cay, những học sinh này chán học và không có gì lạ các em này về sau lại
thường lưu ban lớp này hay lớp khác [6, tr. 19 - 20].
Edward Halloell (2003) khi nghiên cứu sự rối loạn học tập của trẻ em có đặt ra
câu hỏi: bao nhiêu trẻ em được chẩn đoán, được mô tả là bị rối loạn về việc học và
đã trả lời: Theo đánh giá thận trọng thì cứ 10 em có 1 em bị rối loạn loại này, trong
đó 5% bị chứng khó đọc, 4% bị rối loạn tập trung và 1% bị các rối loạn khác.
Những hình ảnh về các chứng rối loạn học tập rất khó xác định vì các tiêu chí được

dùng để minh định những rắc rối về học tập thay đổi theo người đang điều hành
việc khảo sát. Cả trẻ em và người lớn đều từng có lúc gặp những khó khăn học tập.
Chính xác thì việc ai được chẩn đoán và ai không còn mang tính tùy ý. Và tác giả
kết luận, loại trừ sự chậm phát triển trí tuệ, những rối loạn học tập thường thấy hơn

10


cả bao gồm, chứng đọc khó; rối loạn thiếu tập trung; và rối loạn toán học đi kèm
hay không đi kèm hội chứng nhược năng hiểu về cử chỉ, điệu bộ [27, tr. 16].
Kết quả điều tra của Viện nghiên cứu sức khỏe quốc gia Hoa Kì cho thấy,
trong số 15% học sinh nhận giáo dục chuyên biệt thì có đến 80% - 85% gặp khó
khăn cơ bản về ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu của Shaywitz, Sally E; Bennett
A.Shaywitz (2001) và Multidisciplinary Research Centers - Hoa Kì (1994) cho
thấy: sự phổ biến của chứng khó đọc (dylexia) chiếm từ 5% - 9% số trẻ độ tuổi đi
học, cá biệt có nơi lên đến 17%.
Theo cách phân loại của tài liệu thống kê và dự báo (DSM – IV) của Hiệp hội
Tâm lý Hoa Kì, có 3 dạng chính của khó khăn trong học tập: khó khăn trong tập đọc
(dylexia); khó khăn trong tập viết (dysgraphia), bao gồm các vấn đề liên quan đến đánh
vần và cú pháp và khó khăn trong học toán [Dẫn theo 4].
Các tác giả Guimard Philippe, Florin Agnes đã đưa ra một biện pháp tâm lý sư
phạm nhằm phát triển ngôn ngữ ở trẻ mẫu giáo. Theo tác giả, những khó khăn học
đường xuất hiện đặc biệt rõ ở các môn học cơ bản như đọc, viết, làm tính và phát
triển sự làm chủ ngôn ngữ nói sẽ làm thuận lợi cho việc tự chủ về ngôn ngữ viết
[28, tr. 8].
Những nghiên cứu về khó khăn tâm lý, khó khăn tâm lý trong học tập của các tác
giả nước ngoài cho thấy, các nghiên cứu đã chỉ ra được những biểu hiện khó khăn tâm
lý, nguyên nhân khó khăn tâm lý và những biện pháp khắc phục. Có những nghiên cứu
về biểu hiện và nguyên nhân của khó khăn tâm lý trong việc học ngôn ngữ, học đọc,
học viết. Nhưng những nghiên cứu này cũng cho thấy nghiên cứu về khó khăn tâm lý ở

nước ngoài chưa nhiều và chưa có hệ thống, kết quả của những nghiên cứu trên còn
nhiều điểm khác biệt với người Việt Nam, đặc biệt có những khác biệt lớn đối với
người DTTS.
1.1.2. Nghiên cứu về khó khăn tâm lý ở Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động của cá nhân
Trong lĩnh vực giao tiếp, tác giả Nguyễn Văn Lê đã bàn đến khó khăn tâm lý như:
sự quá chênh lệnh giữa người phát và người thu; khả năng xây dựng và trình bày thông

11


điệp (diễn đạt) của người phát tin; đồng thời tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của khó
khăn trong giao tiếp: tính rụt rè gây trở ngại giao tiếp xã hội, cản trở đối với đời sống xã
hội của cá nhân, tính rụt rè phát triển ở mức độ cao là chứng “ám sợ xã hội” (Phobie
sociale). Trong công trình này, tác giả mới chỉ chấm phá được những khó khăn tâm lý ở
góc độ thông tin, chưa đề cập đến bản chất của khó khăn tâm lý [53, tr. 6].
Tác giả Huyền Phan với bài viết: Những trở ngại tâm lý trong giao tiếp đã cho
thấy, nhiều khi giao tiếp không đạt mục đích vì bị các trở ngại tâm lý ngăn cản. Vì vậy,
muốn giao tiếp đạt mục đích cần vượt qua các trở ngại tâm lý, đó là:
Bức tường thành kiến do có ác cảm với một người đó, do cái nhìn thiên lệch
đã tạo ra ấn tượng không tốt đẹp khi giao tiếp.
Bức tường ác cảm nảy sinh khi có định kiến với đối tượng do có định kiến sai
lệch với đối tượng.
Bức tường sợ hãi xuất hiện do những suy nghĩ, băn khoăn dẫn đến tiếp xúc
gượng ép, thiếu tự tin.
Bức tường thiếu hiểu biết nảy sinh khi tiếp xúc không hiểu nhau hoặc hiểu
không đúng về nhau.
Trong công trình này, tác giả mới chỉ đề cập đến những khó khăn tâm lý, chưa
đề cập đến lý luận về khó khăn tâm lý [68, tr. 19].
Năm 1997, tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình với luận án tiến sĩ "Nghiên cứu

những trở ngại tâm lí trong giao tiếp của sinh viên với học sinh khi thực tập tốt
nghiệp" đã đi sâu nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn những trở ngại tâm lí
trong giao tiếp của sinh viên và đã chỉ ra được khái niệm, bản chất, biểu hiện,
nguyên nhân, phân loại và những ảnh hưởng của nó đến hoạt động của chủ thể.
Đồng thời tác giả cũng có những biện pháp tác động để hạn chế những trở ngại
này [7, tr. 34].
Trong cuốn "Tâm lí học giao tiếp", tác giả Nguyễn Thanh Bình bàn đến những trở
ngại tâm lý khi giao tiếp trong công tác quản lý, lãnh đạo cho rằng: Cả chủ thể và đối
tượng trong quản lý đều thiếu hiểu biết về nhau và về bản thân; Chủ thể (hoặc đối
tượng) quản lý chưa có tâm thế sẵn sàng giao tiếp; Cả chủ thể và đối tượng quản lý đều

12


có tâm lý e ngại, ngại ngùng khi tiếp xúc cùng nhau; Chủ thể quản lý chưa làm chủ
được cảm xúc của bản thân [3, tr. 74 - 75].
- Nghiên cứu quan hệ giữa trẻ vị thành niên trong quan hệ với cha mẹ, tác giả
Lưu Song Hà (2004) đã cho rằng những đặc điểm tâm lý của trẻ vị thành niên là tiền
đề cơ bản cho những khó khăn tâm lý đặc trưng của các em này. Khó khăn tâm lý
được hiểu là khi trẻ vị thành niên rơi vào hoàn cảnh phải chịu những áp lực tâm lý
nhất định. Nói đến khó khăn tâm lý là nói đến sự chịu đựng hơn so với bình thường
của chủ thể trong hoàn cảnh đó. Phần lớn trẻ vị thành niên gặp phải những khó khăn
trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của mình như trong học tập, trong quan hệ với
bạn bè, với thầy cô giáo và nổi bật nhất là mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ qua lại
giữa cha mẹ và các em [32, tr. 23].
Tác giả Đỗ Thị Hạnh Phúc, Triệu Thị Hương (2007) khi nghiên cứu về
những khó khăn tâm lý của sinh viên Học viện cảnh sát nhân dân đã cho rằng: sinh
viên phải đối mặt với nhiều khó khăn tâm lý trong việc lựa chọn những giá trị của
thời đại, trong định hướng nghề và lựa chọn việc làm; trong quan hệ giao lưu và
những khó khăn nảy sinh trong nội tại chính quá trình phát triển tâm lí lứa tuổi. Để

giải quyết những khó khăn này, sinh viên cần sử dụng nhiều cách ứng phó khác
nhau [71, tr. 22].
- Ở lĩnh vực tham vấn tâm lý, nhóm tác giả Dương Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh,
Trần Văn Thức tìm hiểu về khó khăn tâm lý và nhu cầu tham vấn của học sinh trung
học phổ thông cho rằng học sinh gặp phải các khó khăn tâm lý có nguyên nhân từ
việc lo âu, căng thẳng,... Do đó, xuất hiện và tồn tại các trạng thái tiêu cực là một
chỉ báo tồn tại hay không tồn tại của những khó khăn tâm lý [41, tr. 41].
Tác giả Đỗ Thị Hạnh Phúc nghiên cứu về "Một số khó khăn tâm lý của thiếu
niên và nhu cầu tư vấn" đã chỉ ra những khó khăn tâm lý mà thiếu niên gặp phải đó
là: băn khoăn lo lắng về sự phát triển cơ thể; những khó khăn, vướng mắc trong học
tập; những khó khăn trong quan hệ, ứng xử với bạn; những khó khăn trong quan hệ
với bạn khác giới; những khó khăn trong quan hệ với thầy cô giáo; những khó khăn
trong quan hệ, ứng xử với cha mẹ. Nguyên nhân của những khó khăn tâm lý ấy là

13


do sự thay đổi của điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội; do quá tải của nội dung và
chương trình học trong nhà trường; sức ép của kì thi; sự kì vọng của gia đình; sự
thiếu quan tâm giáo dục của gia đình; mâu thuẫn của gia đình [71, tr. 30 - 34].
Hai tác giả Nguyễn Văn Cư, Phạm Văn Tư tìm hiểu khó khăn tâm lý và nhu
cầu được tham vấn của trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS khẳng định những khó khăn
tâm lý của trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS: lo lắng về sức khỏe, mất người thân
trong gia đình, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, tương lai mờ mịt, bị mọi người xa lánh,
kết quả học tập không tốt [18, tr. 16].
Tác giả Trần Thị Lệ Thu nghiên cứu về khó khăn tâm lý của sinh viên trường
Đại học Sư phạm Hà Nội và nhu cầu cần có sự hỗ trợ của chuyên gia tâm lý học
đường đã chỉ ra những khó khăn tâm lý ở một số lĩnh vực chủ yếu: định hướng nghề
nghiệp, học tập; giao tiếp ứng xử; quan hệ với cha mẹ - người thân; tình bạn khác
giới - tình yêu. Đặc biệt, những khó khăn này có tỉ lệ ảnh hưởng ở mức độ nghiêm

trọng và tần số cao. Nguyên nhân gây nên khó khăn tâm lý của sinh viên bao gồm
cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Trong đó, tác động nhiều
nhất là từ phía chủ quan, do tính cách của bản thân và do kinh nghiệm còn hạn chế.
Tác giả cũng đề xuất ý kiến nhằm hỗ trợ sinh viên giải quyết những khó khăn
tâm lý ở cả phía sinh viên, phía giảng viên. Như vậy, trong công trình này, tác giả
đã phát hiện ra những biểu hiện một số khó khăn tâm lý nói chung của sinh viên,
nguyên nhân gây ra và những biện pháp hỗ trợ [81, tr. 308].
Cùng hướng nghiên cứu này, tác giả Lê Mỹ Dung nghiên cứu vai trò của
nhà tâm lý học đường và việc khắc phục khó khăn tâm lý trong học tập của học
sinh tuổi tiểu học đã khẳng định: Các nhà tâm lý học đường có vai trò của trong
việc khắc phục khó khăn tâm lý và nâng cao thành tích học tập của học sinh. Các
nhà tâm lý học đường có thể giúp đỡ nhiều học sinh gặp khó khăn trong học tập
như: đánh giá hoạt động phát triển kĩ năng học tập; đánh giá nhu cầu của nhà
trường; đánh giá mức độ khó khăn tâm lý và các năng lực của học sinh; tư vấn
cho lãnh đạo và quản lý giáo dục; chỉ đạo và tổ chức các buổi tập huấn cho giáo
viên, phụ huynh học sinh, các nhà quản lý; những hoạt động hợp tác với Ban phụ

14


huynh học sinh; thiết kế và thực hiện các đề tài nghiên cứu; tư vấn cho giáo viên
[19, tr. 214 - 217].
Tác giả Trần Thị Tú Anh trong công trình tìm hiểu về cách ứng phó với khó
khăn của sinh viên thiệt thòi - Đại học Huế cho rằng sinh viên thiệt thòi ứng phó với
khó khăn mà họ gặp phải theo nhiều cách khác nhau. Tác giả kết luận có 3 nhóm
ứng phó chủ yếu: đối diện với những khó khăn và hành động; lẩn tránh khó khăn và
tự trách mình; tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội. Mỗi nhóm ứng phó bao gồm những cách
khác nhau và mỗi cách ứng phó lại bao gồm phương án cụ thể khác nhau.
Tác giả cũng cho rằng sinh viên DTTS gặp nhiều khó khăn hơn sinh viên dân tộc
Kinh và họ thường sử dụng những cách ứng phó tiêu cực và tìm đến sự hỗ trợ ít hơn [5].

Như vậy, khó khăn tâm lý được quan tâm nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực hoạt
động của con người: trong hoạt động giao tiếp; hoạt động tư vấn tâm lý; trong các
mối quan hệ sống với những người xung quanh. Khó khăn tâm lý được nghiên cứu
ở nhiều lứa tuổi nhưng nhiều nhất là tuổi học sinh, sinh viên. Các tác giả đã phát
hiện ra biểu hiện khó khăn tâm lý trong lĩnh vực đó, xác định nguyên nhân gây ra
và biện pháp khắc phục khó khăn. Tuy nhiên, những nghiên cứu khó khăn tâm lý
đối với người DTTS còn ít.
1.1.2.2. Nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong học tập
* Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên, lứa tuổi
thanh niên
Tác giả Đặng Thị Vân tìm hiểu hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên trường Đại học Nông nghiệp I và những khó khăn thường gặp cho rằng sinh
viên gặp không ít những khó khăn khi tham gia nghiên cứu khoa học như: thiếu
kinh phí; thiếu kinh nghiệm thực tế; khó khăn lúc thu thập số liệu; trang thiết bị
còn nghèo nàn; phương pháp và khả năng nghiên cứu còn hạn chế; khả năng tra
cứu thông tin và dịch tài liệu nước ngoài còn kém [93, tr. 58 - 59].
Hai tác giả Nguyễn Xuân Thức, Đào Lan Hương đã nghiên cứu về khó khăn
tâm lý trong học tập của sinh viên năm thứ nhất một số trường hợp sư phạm, kết
quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy đa số sinh viên năm thứ nhất đều gặp khó

15


khăn tâm lý trong học tập. Khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất thường
được biểu hiện ở các mặt nhận thức, xúc cảm và kỹ năng tiến hành các khâu trong
hoạt động học tập. Mức độ khó khăn về kỹ năng tiến hành học tập không đồng đều.
Các tác giả cũng tìm ra nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý trong học tập của sinh
viên và có những đề xuất về phía nhà trường, giảng viên, sinh viên để khắc phục
khó khăn tâm lý trong học tập cho sinh viên năm thứ nhất [85, tr. 18].
Cùng hướng nghiên cứu với hai tác giả trên, tác giả Đặng Thanh Nga

nghiên cứu khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên trường Đại học Luật
Hà Nội đã kết luận: Tất cả sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội trong mẫu
nghiên cứu đều gặp phải khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập; Sinh viên
gặp nhiều khó khăn nhất ở các khâu như nghiên cứu khoa học, chuẩn bị xêmina
và ít gặp khó khăn ở các khâu: kiểm tra đánh giá; học tập trên lớp. khó khăn
tâm lý ở cả 3 mặt: nhận thức, xúc cảm và hành vi, trong đó khó khăn nhất là
mặt hành vi [57, tr. 33].
Tác giả Nguyễn Thị Út Sáu tìm hiểu nguyên nhân gây nên khó khăn tâm lý
trong học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên của trường Đại học Sư phạm Đại học Thái Nguyên cho rằng có hai nguyên nhân gây nên khó khăn tâm lý
trong học tập của sinh viên: nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan
Trong đó nguyên nhân chính gây nên khó khăn tâm lý là nguyên nhân chủ quan
[73, tr. 8].
Năm 2008, tác giả Đoàn Thị Tỵ với công trình nghiên cứu luận án tiến sĩ về
"Khó khăn tâm lý trong việc giải quyết tình huống sư phạm của sinh viên sư phạm"
đã chỉ ra những khó khăn tâm lý: vốn kinh nghiệm và vốn hiểu biết về hoạt động sư
phạm của sinh viên còn hạn chế; hiểu biết tâm lý học còn ít; tư duy và óc tưởng
tượng sư phạm hạn chế; thiếu hiểu biết về quy trình giải quyết giải quyết tình huống
sư phạm; hiểu biết về các môn khoa học chuyên ngành chưa cao; động cơ chọn
nghề chưa đúng đắn; nhu cầu giải quyết tình huống sư phạm còn thấp; chưa thực sự
có hứng thú giải quyết tình huống sư phạm; e ngại khi phải xuất hiện trước tập thể;
hồi hộp, lo lắng trước sự xuất hiện của tình huống sư phạm cần giải quyết; mặc cảm

16


khi phải đóng vai là người giáo viên; hành vi ứng xử kém; hành vi lúng túng thiếu
tự tin khi giải quyết tình huống sư phạm,... [92].
Những công trình trên cho thấy các tác giả nghiên cứu những khó khăn tâm
lý trong học tập trên khách thể có độ tuổi lớn với hoạt động chủ đạo và đặc trưng
tâm lý khác biệt so với học sinh tiểu học, đặc biệt khác biệt so với học lớp 1 là

người DTTS.
* Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh
- Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lứa tuổi
thiếu niên
Tác giả Lưu Song Hà nghiên cứu về một số khó khăn trong học tập của trẻ vị
thành niên và cách ứng phó đã kết luận: Khi gặp những tình huống khó khăn trong
học tập, trẻ vị thành niên thường ứng phó trước hết bằng hành động, sau đó là tình
cảm và cuối cùng là suy nghĩ. Những khó khăn này làm trẻ vị thành niên cảm thấy
buồn chán, bồn chồn, bối rối không biết làm gì. Lúc này các em tìm nguồn động viên
nơi bạn bè, phần lớn các em hướng các tình huống khó khăn theo chiều hướng tích
cực. Điều đáng quan tâm hơn cả là sau khi gặp thất bại trong học tập, phần lớn trẻ vị
thành niên không nản chí, ngược lại các em xây dựng cho mình một kế hoạch học tập
cụ thể và cố gắng thực hiện theo kế hoạch đề ra [33, tr. 51].
Tác giả Nguyễn Phương Lan, với luận tiến sĩ "Trở ngại tâm lý của học sinh
trung học cơ sở trong giáo dục giới tính" đã đi sâu nghiên cứu về biểu hiện trở
ngại tâm lý trong giáo dục giới tính: khái niệm, biểu hiện, những yếu tố gây trở
ngại tâm lý cho học sinh trung học cơ sở trong giáo dục giới tính. Tác giả cũng
tiến hành thực nghiệm tác động nhằm hạn chế những khó khăn này [52, tr. 47].
Nhóm tác giả Nguyễn Văn Sáng (chủ biên), Nguyễn Quốc Anh, Nguyễn Thị
Kim Thoa với công trình nghiên cứu đặc điểm tâm lý của học sinh DTTS với việc
nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc đã khẳng định học sinh trung
học cơ sở DTTS gặp một số khó khăn trong sử dụng tiếng Việt:
Kĩ năng sử dụng ngữ pháp tiếng Việt: lỗi dùng từ không chính xác, lỗi tạo câu,
dấu câu, trật tự câu; cấu trúc đoạn văn không hợp lí.

17


Kĩ năng đọc hiểu (trong môn Ngữ văn): khó khăn về ngôn ngữ dẫn đến hiểu
sai tư tưởng chủ đề, không biết tóm tắt nội dung; chưa biết khai thác ý cơ bản để trả

lời câu hỏi về nội dung và nghệ thuật văn bản.
Kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Việt còn hạn chế: Những hạn chế về tiếng Việt
cũng ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp của học sinh DTTS với thầy cô, bạn bè
trong lớp cũng như ngoài lớp học. Một vấn đề có thể các em có thể hiểu nhưng các
em không biết phải diễn đạt bằng tiếng Việt như thế nào nên các em thường ngại,
không mạnh dạn trao đổi với các thầy cô giáo. Nhiều khi các em muốn thể hiện tình
cảm nhưng khó nói ra bằng lời. Đa số các em chưa biết sử dụng các nghi thức lời
nói phù hợp trong giao tiếp [72, tr. 64 - 65].
Đây cũng là một trong số ít các tác giả nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong
việc học tiếng Việt của học sinh DTTS. Tuy nhiên, ở công trình này, nhóm tác giả
mới chỉ nêu ra một số khó khăn học sinh trung học cơ sở mắc phải khi sử dụng
tiếng Việt, những ảnh hưởng của khó khăn cho hoạt động của học sinh, chưa nêu
được khái niệm về khó khăn tâm lý, chưa chỉ ra được bản chất của khó khăn tâm
lý trong học tiếng Việt.
- Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh tiểu học, lứa
tuổi nhi đồng
Nghiên cứu khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học liên quan đến vấn đề thay
đổi hoạt động chủ đạo, thích ứng tâm lý:
Tác giả Nguyễn Thị Nhất, trong tác phẩm "6 tuổi vào lớp1", đã nêu lên khó khăn
tâm lý trong hoạt động học tập mà trẻ lớp 1 phải vượt qua. Theo tác giả "Giữa phương
thức học tập ở mẫu giáo và lớp 1 có sự biến động đột ngột đối với trẻ em, một bước ngoặt
quan trọng đòi hỏi một sự thích nghi về nhiều mặt không dễ gì vượt qua. Đúng là một "cửa
ải" phân chia hai cuộc sống khác nhau" [61, tr. 24].
Đồng tác giả Nguyễn Thị Nhất và Nguyễn Khắc Viện cho biết, được đi học,
em bé 6 tuổi háo hức biết rõ là bước vào cuộc sống mới, tự hào về bộ quần áo mới,
cái cặp hay cái túi sách đầy vở, nhưng cũng đầy lo âu ngày ngày phải bỏ cái tổ ấm
gia đình, cuộc sống hồn nhiên tự do của tuổi thơ vào một môi trường mới lạ với

18



×